Luận văn đề tài: Quá trình nhận thức lý luận về văn hóa ở Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến năm 1945
1,827
18
96
mạnh của mình làm chủ tự nhiên. Đào Duy Anh đi đến kết luận “Văn hóa chính là
lợi
khí cho tinh thần của người nhờ cần lao và hợp tác mà sáng tạo ra để tranh đấu
với
hoàn cảnh tự nhiên tức là tranh đấu với đất là nơi loài người phải sống, mà giải
quyết
những nhu yếu và yêu cầu do hoàn cảnh ấy gây ra” [3, tr.15].
Văn hóa là “lợi khí tranh đấu” của con người đối với tự nhiên, nhưng chính con
người là một bộ phận của tự nhiên cho nên trong sự đấu tranh với tự nhiên đã
chứa
đựng sẵn sự tranh đấu của người với người. Nói một cách khác, văn hóa còn hình
thành trong đấu tranh xã hội. Sự phát triển của sản xuất dẫn đến sự tan rã của
thị tộc,
các bộ tộc, dân tộc ra đời, từ trạng thái bình đẳng chuyển sang có sự phân hóa
trong xã
hội. Xã hội Trung Hoa đảo lộn vì sự tranh giành địa vị của các thế lực cát cứ
với các
cuộc chiến tranh khốc liệt liên miên, xã hội ấn Độ ngột ngạt trong một công xã
nông
thôn lớn với sự hà khắc của phân chia đẳng cấp. Hiện thực xã hội đè nặng lên đời
sống
của dân chúng và để duy trì hiện thực đó, củng cố địa vị, bảo vệ quyền lợi của
mình,
giai cấp thống trị tạo ra những “giá trị văn hóa mới”. Đó là quan niệm nam tôn
nữ ty,
quan niệm luân thường đạo lý, quan niệm quân tử, tiểu nhân trong xã hội Trung
Hoa
phong kiến. Đó là những quan niệm về sự tồn tại của các đẳng cấp trong xã hội ấn
Độ
cổ đại. Đa số dân chúng, chịu cảnh sống nô lệ phản kháng lại bằng cách cũng tạo
ra
những quan niệm về một cuộc sống mới, khác với hiện tại, họ khát khao muốn giải
thoát khỏi cuộc “sinh hoạt đau đớn khổ sở” không phải do tự nhiên mà chính là do
đồng loại của mình gây nên. Do đó, Phật giáo đã ra đời ở ấn Độ với “mộng tưởng
niết
bàn”, ở Trung Hoa có thuyết đại đồng, kiêm ái và ước mơ về một thiên đường của
dân
Do Thái. Thích ca, Khổng tử, Mặc tử, Giêsu là những người đã phản ánh khát vọng
của dân chúng sáng tạo ra những học thuyết này để tìm con đường giải thoát cho
nỗi
khổ đau của con người, tư tưởng của họ “biểu hiện những hy vọng và mộng tưởng
của
đại đa số dân chúng”, họ chính là những người “phát ngôn trung thành của thời
đại”.
Những thuyết đó chính là giá trị văn hóa mà “dân chúng khổ sở đương đợi chờ mong
mỏi để thoát khỏi sự áp bức bóc lột của giai cấp quý tộc thống trị” [3, tr.17].
Văn hóa xuất hiện cùng với loài người, trong quá trình con người chinh phục tự
nhiên, đấu tranh xã hội cho nên chủ thể của văn hóa không có gì khác chính là
con
người. Đào Duy Anh khẳng định “văn hóa là cái sở hữu riêng của người, chỉ có
người
mới có văn hóa” [3, tr.14]. Tại sao chỉ có con người mới có văn hóa? Nếu coi văn
hóa
là phương diện sinh hoạt của xã hội thì nhiều loài vật cũng sống thành tổ chức
trật tự
và cũng sinh hoạt, thích ứng với tự nhiên để tồn tại lại không có văn hóa? Câu
trả lời là
động vật thích ứng với tự nhiên thụ động theo bản năng của chúng, còn con người
biết
quan sát, có tư duy, có học tập, biết tích lũy những kinh nghiệm đã qua, có khả
năng
sáng tạo và họ luôn luôn đem trí thông minh, nghị lực của mình chủ động thích
ứng
với tự nhiên, văn hóa là sản phẩm, tài sản chung của loài người. Không thừa nhận
quan niệm của châu Âu lúc đó coi văn hóa là một cái gì cao quý, tốt đẹp, dành
riêng
cho những kẻ thượng lưu trí thức, người bình dân thì “không mon men đến gần”,
Đào
Duy Anh cho rằng văn hóa là “kết quả của sự hợp tác của toàn thể nhân loại trên
thế giới
trải qua các thế hệ, chứ không phải là của riêng giai cấp nào”, “hạng người nào
cũng có
thể tham dự vào cuộc cấu tạo văn hóa” [3, tr.24]. Sáng tạo ra văn hóa buổi đầu
là công
việc của dân chúng, không ai biết tên tuổi của người đã phát minh ra lửa, quần
áo, nhà
cửa… Dần dần cùng với sự phân công trong xã hội, có một loại người chuyên môn
hoạt động về văn hóa mà ta gọi là trí thức. Đào Duy Anh đã phân biệt hai loại
trí thức:
số đông chỉ chuyên hoạt động về tái tạo văn hóa, đảm bảo tính liên tục của văn
hóa
trong xã hội, lịch sử và một số ít gồm những người sáng tạo văn hóa, tức là
những
thiên tài lỗi lạc như Khổng tử, Phật Thích ca, Giêsu, C.Mác… đã tạo ra những giá
trị
văn hóa mới, gây ra những biến đổi lớn cho nhân loại.
2.1.3. Về vai trò của văn hóa
Văn hóa ngày càng có vai trò quan trọng đối với con người. Trong nhận thức
của thế giới hiện đại, văn hóa là động lực cho sự phát triển của xã hội. ở Việt
Nam,
văn hóa được xác định là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là
động
lực cho sự phát triển của đất nước. Những nhận thức này đã xuất hiện ở nước ta
ngay
trong nửa đầu thế kỷ XX, tuy nó chưa thể diễn đạt được như cách nói của chúng ta
ngày nay.
Thứ nhất, văn hóa là động lực cho sự phát triển của xã hội loài người. Với việc
trình bày về khái niệm văn hóa, nguồn gốc, vai trò và các quan hệ của văn hóa
như
trên, Đào Duy Anh cho chúng ta thấy mối quan hệ của các yếu tố cấu thành nên đời
sống xã hội: con người, đời sống sinh hoạt và văn hóa. Con người là chủ thể của
văn
hóa, là lực lượng sáng tạo nên các giá trị văn hóa thông qua đời sống sinh hoạt
tức là
các hoạt động sản xuất kiếm sống, hoạt động nhận thức, hoạt động nghệ thuật… Văn
hóa là “lợi khí” cho con ngưòi trong đấu tranh với tự nhiên trong cuộc đấu tranh
xã
hội, “công dụng và mục đích của văn hóa là khiến người chinh phục được tự nhiên
để
nâng cao trình độ sinh hoạt vật chất và tinh thần” [3; tr.15]. Con người càng
nhận thức
sâu sắc hơn tự nhiên và trở thành chủ nhân ông của thế giới. Chính nhờ có văn
hóa mà
con người khác với động vật, không phải là động vật. Sự tiến bộ của văn hóa đánh
dấu
sự trưởng thành của con người trên bước đường tiến hóa “Văn hóa đã nâng người
lên
cao hơn động vật xa lắm” [3; tr.15]. Khi loài ngưòi phát triển vượt qua chế độ
thị tộc,
trong xã hội bắt đầu có sự phân hóa và đấu tranh giữa các lực lượng, để tránh
cho xã
hội rơi vào hỗn loạn, con người đã tạo ra tục lệ, pháp luật, lễ nghi, đạo đức.
Ngày nay
chúng ta gọi những cái đó là thể chế xã hội, phản ánh hệ giá trị của cộng đồng,
được
các thành viên trong cộng đồng thừa nhận và quy định việc ứng xử của họ. Như
vậy,
thông qua mối quan hệ giữa con người, đời sống sinh hoạt và văn hóa, Đào Duy Anh
làm nổi bật lên vai trò của văn hóa đối với con người. Văn hóa làm cho con người
thoát khỏi thế giới động vật, phát triển sản xuất và hình thành nên các cộng
đồng
người trong lịch sử. Văn hóa cũng đóng vai trò điều tiết cho các cộng đồng đó
tồn tại,
để cho các hoạt động xã hội vận hành, thúc đẩy xã hội phát triển ngày càng hoàn
thiện
hơn. Quan niệm văn hóa là động lực của xã hội, Nguyễn Đăng Thục xem văn hóa là
một trong ba “động cơ nguyên nhân” (kinh tế, chính trị, văn hóa ) để xã hội loài
người
“bảo tồn và tiến hóa”. Trong đó, nhân tố kinh tế làm thay đổi nhân tố văn hóa và
chính
trị, ngược lại nhân tố văn hóa cũng làm thay đổi nhân tố kinh tế, trên con đường
phát
triển của nhân loại có khi kinh tế chiếm địa vị quan trọng, nhưng cũng có khi
văn hóa
và chính trị lại ảnh hưởng mạnh hơn. Nguyễn Đăng Thục cho rằng, nhấn mạnh vai
trò
quyết định của kinh tế chỉ là nhận thức của xã hội học vì nó rất cụ thể và dễ
nhận ra
còn văn hóa là một “lực vô hình” nên không dễ nhận ra ngay vai trò của nó nhưng
nhân tố kinh tế “chưa chắc đằng nào và lúc nào đã mạnh hơn và sâu hơn” [63,
tr.7].
Mượn lời của C.Mác “Những tập tục thành kiến của tất cả thế hệ đã chết còn đè
một
sức nặng trên đầu người sống” [63, tr.7], Nguyễn Đăng Thục khẳng định văn hóa
“có
mãnh lực ghê gớm”. Cái mãnh lực ghê gớm đó đã thể hiện rõ trong lịch sử nhân
loại:
cuộc chiến tranh Hồng Thập Tự với niềm tin vào Chúa đã xô đẩy cả châu Âu vào
cuộc
thập tự chinh để bảo tồn đất thánh, sự chia rẽ quốc gia ấn Độ trong nhiều thế kỷ
bởi
cuộc xung đột giữa công giáo và tân giáo và hàng loạt những sự tử vì đạo, chết
vì danh
dự đã xảy ra…Trong lịch sử nhân loại đã từng diễn ra nhiều cuộc đại cải cách xã
hội
nhờ vào sức mạnh của đại phong trào quần chúng, sử dụng được sức mạnh đó là
những người khởi xướng đã biết được “sức mạnh ghê gớm” của văn hóa, phá bỏ
những thành kiến cũ, trước khi đưa xã hội vào con đường mới. Từ đó, Nguyễn Đăng
Thục đi đến kết luận “bao giờ văn hóa cũng phải là một động lực tiên phong cho
xã
hội” [63; tr.8]. Như vậy, ở đây Nguyễn Đăng Thục đã đề cập đến vai trò của văn
hóa
như một năng lượng tinh thần, một xung lực tinh thần, là cái có ý thức làm mục
đích,
làm lý tưởng để con người dấn thân vào những hoạt động, kể cả phải hy sinh tính
mạng của mình, văn hóa mở đường cho những cuộc biến chuyển lớn trong đời sống
nhân loại. Trên thực tế, qua phong trào Phục Hưng thế kỷ XVI, cải cách Minh Trị
ở
Nhật Bản thế kỷ XIX, phong trào Duy Tân ở nước ta đầu thế kỷ XX cũng cho thấy
rằng mỗi lần cần có một sự thay đổi trong xã hội phải có sự tích lũy, đóng góp
của văn
hóa. Nói một cách khác, không thể thiếu vai trò hàng đầu của văn hóa trong mỗi
bước
tiến của nhân loại nói chung và các dân tộc nói riêng. Học giả Kim Định trong
cuốn
sách “Nguồn gốc văn hóa Việt Nam” cũng đã chỉ ra vai trò của văn hóa trong mối
quan
hệ với kinh tế “Muốn phát triển kinh tế thì phải có văn hóa đi kèm. Không thể
phát
triển kinh tế trước rồi văn hóa sau” [19; tr.73]. Nhấn mạnh vai trò của văn hóa,
ở đây
Kim Định muốn đề cập đến nhân tố con người, phải có “văn hóa đúng mức”, “văn hóa
chủ đạo” mới “đào luyện” ra được những con người tạo nên tinh thần sống động của
xã hội, đưa xã hội đi lên chứ không phải “lăn mạnh trên đà đưa tới hố diệt vong”
[19,
tr.73] nếu không có văn hóa.
Thứ hai, văn hóa là động lực cho sự phát triển của xã hội loài người đồng thời
cũng có vai trò quan trọng đối với mỗi dân tộc “văn hóa là một sự cần, một dân
một
nước không thể khuyết được. Nước ta xưa nay vẫn xưng văn hiến chi bang nghĩa là
đời nào cũng có văn hóa, nên người thuần, tục tốt, xã hội chỉnh đốn, lịch sử vẻ
vang”
[43, tr.635]. Đưa ra hiện trạng văn hóa Việt Nam đương thời trong buổi gặp gỡ
giữa
phương Đông và phương Tây, Phạm Quỳnh đã quy tất cả vào nguyên nhân văn hóa.
Bởi dân tộc ta chưa giải quyết xong vấn đề văn hóa “cái nguyên nhân của mọi sự
chênh lệch trong xã hội, mọi nỗi bất bình trong lòng người không phải là thuộc
về luân
lý, không phải thuộc về chính trị, chính là một cái vấn đề văn hóa ấy vậy” [43,
tr.630]
cho nên, vấn đề văn hóa đối với nước ta rất quan trọng, mọi sự hạnh phúc ở đời
của con
người, vận mệnh của cả quốc gia đều ở văn hóa cả và có giải quyết cho được vấn
đề này
cho đúng thì “nước ta mới có được nhân tài xứng đáng; nước ta có nhân tài xứng
đáng, thì
mới mong sinh tồn tự lập ở đời” [43, tr.631]. Từ chỗ đề cao vai trò của văn hóa,
Phạm
Quỳnh đi đến tuyệt đối hóa vai trò của nó khi cho rằng con đường giải phóng cho
dân
tộc hiện nay không có gì phù hợp hơn là văn hóa “trong tình thế nước ta ngày
nay, vận
động về đường chính trị không bằng vận động về đường văn hóa. Vấn đề văn hóa còn
quan hệ hơn vấn đề chính trị vậy” [43, tr.636]. Quan niệm này mâu thuẫn với
chính
ông và xa rời thực tế đất nước, trước đó ông đã khẳng định đất nước phải giữ
được độc
lập thì mới có độc lập về tinh thần, tức là văn hóa. Hơn nữa, văn hóa có mối
quan hệ
mật thiết với chính trị, trong điều kiện nước ta lúc đó, chỉ có giải phóng đất
nước ra
khỏi ách đô hộ của nước ngoài mới có thể gây dựng được một nền văn hóa riêng cho
dân tộc.
2.2. Quan niệm về văn hóa dân tộc
2.2.1. Về bản sắc văn hóa dân tộc
Bản sắc văn hóa là những yếu tố độc đáo, yếu tố đặc sắc của một nền văn hóa.
Nó được hình thành, tồn tại trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc. Cùng với
sự vận
động của văn hóa dân tộc, việc nhận thức về bản sắc văn hóa cũng có sự thay đổi.
Ngày nay, đọc lại bài thơ Thần của Lý Thường Kiệt trên sông Như Nguyệt trong
cuộc
chiến chống quân Tống, chúng ta thấy quan niệm của cha ông ta về cái khác, cái
riêng
của dân tộc so với Trung Hoa ban đầu chỉ là “sông núi” và nó đã được ông trời
định
sẵn. Đến Nguyễn Trãi, trong bản Bình Ngô đại cáo bất hủ, ngoài núi sông bờ cõi
còn
có thêm sự khác nhau về phong tục. Như vậy, trước dân tộc Trung Hoa, một dân tộc
mà trong tâm thức của người Việt nhiều đời nay là đồng văn đồng chủng với mình
thì
mối quan tâm hàng đầu của cha ông ta ở quan hệ với anh láng giềng khổng lồ “chỉ
lăm
le nuốt chửng mình” là vấn đề lãnh thổ, chủ quyền. Cho nên, sau khi giành được
độc
lập, người Việt vẫn sử dụng những nguyên lý Hán học trong tổ chức hành chính,
trong
nền nếp luân lý, giáo dục, thi cử, văn nghệ…Lý Thường Kiệt, Nguyễn Trãi, Trần
Hưng Đạo - những nhà văn hóa của dân tộc vẫn sử dụng chữ Hán cho những sáng tác
của mình. Chỉ đến đầu thế kỷ XX, trong cuộc giao lưu văn hóa với phương Tây -
một
nền văn hóa dựa trên sức mạnh của khoa học kỹ thuật, không phải đồng văn đồng
chủng, cùng tình thế như Trung Hoa, cũng không phải phải giao lưu với những nước
văn hóa “đương suy hoặc còn kém” như Chiêm Thành, Phù Nam, Ai Lao thì sự sống
còn của văn hóa dân tộc mới bức thiết hơn bao giờ hết. Bản sắc văn hóa đã được
đặt ra
như là mối quan tâm chính của nhiều học giả nặng lòng với dân tộc, tuy nhiên ở
mỗi
người lại có cách tiếp cận khác nhau, có thể kể đến các xu hướng sau: coi bản
sắc dân
tộc là Quốc học; là đặc tính của văn hóa Việt Nam; là những đặc điểm khác so với
văn
hóa Trung Hoa.
Trước hết là cách tiếp cận coi bản sắc dân tộc là Quốc học. Thuật ngữ Quốc
học xuất hiện rất sớm ở Trung Quốc thời Tây Chu, nghĩa gốc của nó là trường học
ở
kinh đô mà sau này gọi là Quốc tử giám. Người Nhật Bản dùng Quốc học để chỉ văn
hóa nghệ thuật của nước mình, phân biệt với văn hóa nghệ thuật của các nước
khác. ở
nước ta, người đầu tiên đề cập đến nghĩa Quốc học là Nguyễn Trãi. Trong các tác
phẩm như Bình Ngô đại cáo, Dư địa chí, ông đã đặt nền móng cho việc xây dựng nền
Quốc học của dân tộc. Công việc này tiếp tục được thực hiện trong những giai
đoạn
tiếp theo. Cho đến đầu thế kỷ XX, một cuộc tranh luận về Quốc học đã diễn ra hết
sức
sôi động xung quanh chủ đề Quốc học là gì? Nước ta có Quốc học hay không? Khởi
đầu là việc Lê Dư đưa ra thuật ngữ Quốc học trong bộ sách Quốc học tùng thư năm
1931. Quan niệm của Lê Dư đã gây ra sự tranh cãi với nhiều cách hiểu khác nhau
về
Quốc học của các học giả Phan Khôi, Phạm Quỳnh, Thiếu Sơn, Nguyễn Trọng
Thuật…Thông qua cuộc tranh luận này, kho tàng trí tuệ, các giá trị tinh thần của
các
thế hệ trước để lại được đem ra kiểm kê, đánh giá lại, chuẩn bị hành trang cho
dân tộc
trong cuộc tiếp xúc với văn hóa phương Tây.
Lê Dư là một người đã từng du học ở Nhật Bản, sau về làm việc tại Viễn đông
Bác cổ. Trong mười năm, ông đã sưu tập những tài liệu về quốc văn, quốc sử biên
tập
thành bộ Quốc học tùng san để chứng minh cho nền Quốc học Việt Nam. Theo cách
hiểu của người Nhật Bản coi Quốc học gồm tất cả các môn học được xem là quan
trọng đối với quốc dân như lịch sử, địa dư, chính trị, luật lệ trong nước, còn
các môn
học các nước khác có thể coi là thứ yếu, Lê Dư đã định nghĩa Quốc học “là học
vấn,
kỹ thuật của một nước: học vấn, kỹ thuật ấy là cái cố hữu của mình hay là cái
mình
học của ngưòi, nhưng đã thay đổi nhiều lắm, nay trở thành cái cố hữu của mình mà
người ta không ai có nữa” [67, tr.204]. Với cách tiếp cận như vậy, theo ông nội
dung
của Quốc học bao gồm ba phần là quốc văn, quốc sử, quốc túy. Trong đó:
- Quốc văn là văn học gồm các học thuyết, lý thuyết những sách vở của người
xưa để lại và những quốc ca, quốc ngữ(chữ nôm và chữ quốc ngữ)
- Quốc sử là cách tổ chức, cách hành động về chính trị và những pháp luật, chế
độ, phong tục tập quán, kỹ thuật.
- Quốc túy là tinh thần của dân tộc, tính cố hữu của dân tộc do điều kiện địa lý
và nguyên nhân lịch sử tạo nên trong mấy mươi thế kỷ nay.
Mặc dù đưa ra định nghĩa và miêu tả nội dung Quốc học như vậy nhưng thực tế,
ông luôn coi Quốc học là văn học. Cho nên, ông muốn lấy “sức mọn vun bồi cái cơ
sở
nên Quốc học” bằng việc phát huy áng văn chương riêng của nước ta, ra công sưu
tập
văn chương và lịch sử của các nhà học giả xưa để biên soạn thành bộ Quốc học
tùng
san. Trong bộ sách này hầu như chỉ đề cập đến văn chương: Văn đàn bảo giám, Bạch
Vân Am thi tập, Bằng Quân thi văn tập, Ôn Như Hầu thi văn tập, Vị Xuyên thi văn
tập, Việt văn dẫn giảng… Ông còn định viết một bộ Việt Nam văn học sử để chứng
minh cho sự phong phú của nền Quốc học Việt Nam. Từ chỗ đó, ông đã đẩy văn học
lên vị trí cao hơn khi cho văn học là quốc hồn của dân tộc “Quốc hồn ở đâu? ở
tại tư
tưởng, tư tưởng phát ra làm văn chương, văn chương của các nhà học giả nước ta
từ
xưa đến nay chính là quốc hồn ở đấy, nên Quốc học cũng ở đấy” [67, tr.166]. ở
đây
phải quay trở lại quan niệm của cha ông ta về văn hóa. Việt Nam là một nước chịu
ảnh
hưởng sâu sắc của văn hóa Hán mà rõ nhất là Nho giáo và chữ Hán cho nên trong
văn
hóa của dân tộc, văn học chiếm vị trí đầu bảng. Khác với các quốc gia Đông Nam
á,
mọi nguồn lực của dân tộc đều tập trung cho các công trình kiến trúc như đền
đài, lăng
mộ, ở nước ta chỉ có văn học là yếu tố quan trọng nhất, phát triển nhất trong
văn hóa
dân tộc. Vì vậy, quan niệm văn hóa của cha ông ta rất chật hẹp: văn hóa nghĩa là
văn
học. Rõ ràng, với việc tuyệt đối hóa văn học, coi nó là Quốc học, quan niệm của
Lê
Dư về văn hóa vẫn chưa thoát khỏi tư tưởng của các nhà nho thời phong kiến xưa.
Quan niệm của Lê Dư đã không nhận được sự đồng tình của đa số các học giả
lúc đó, các học giả này không quan niệm Quốc học là văn học mà là học thuật
riêng
của một nước. Trong bài báo “Luận về Quốc học” đăng trên Phụ nữ Tân văn ngày 6
tháng 8 năm 1931, Phan Khôi đã viết:
Quốc học là một danh từ cũ và mới có nghĩa khác nhau. Hồi trước ta
nói Quốc học tức là cái trường học cho cả nước; như trường Quốc học ở
Huế là lấy nghĩa ấy. Còn chữ Quốc học ngày nay thường dùng là chỉ về cái
học riêng của một nước, có vẻ đặc biệt, có chỗ khác với nước ngoài. Vậy
khi nói Quốc học cũng gần giống nhau như quốc phục là đồ y phục riêng
của một nước, nói quốc kỳ là hiệu cờ riêng của một nước [67, tr.167].
Còn Phạm Quỳnh thì quan niệm “Quốc học là gồm những phong trào về tư
tưởng học thuật trong một nước, có đặc sắc khác với nước khác, và có kết tinh
thành
những sự nghiệp trước tác lưu truyền trong nước ấy và ảnh hưởng đến các học giả
trong nước ấy” [33, tr.504]. Như vậy, theo Phạm Quỳnh, Quốc học là nền học
thuật, là
nền tư tưỏng, nền triết học riêng của một nước đã thực sự ảnh hưởng, chi phối
đời
sống của một dân tộc, làm cho dân tộc ấy khác biệt với những dân tộc trên thế
giới.
Tương tự, Thiếu Sơn cho rằng “Quốc học phải là học thuật riêng của một nước, nó
đặc
biệt cho nước ấy, có ảnh hưởng trực tiếp đến văn học và gián tiếp đến xã
hội”[33,
tr.549].
Người đứng ra điều đình các ý kiến khác nhau là Nguyễn Trọng Thuật, ông đã
thuyết phục hai bên hiểu danh từ Quốc học theo cùng một nghĩa: Quốc là nước, Học
là
khoa học, văn học hay văn hóa. Ông đã phân biệt thế giới công học với Quốc học.
Thế
giới công học là các khoa học chung cho toàn thể nhân loại như thiên văn, nhân
học…
không chú trọng đến từng đặc điểm của các quốc gia dân tộc. Quốc học là cái học
“bất
dịch”, chỉ một nước ấy mới có, chỉ có người nước ấy cần phải học, mới thẩm thấu
đựơc, người nước khác có học cũng không hiểu được. Trên cơ sở đó, Nguyễn Trọng
Thuật đã nêu ra nội dung của Quốc học bao gồm:
- Quốc sự.
- Quốc văn và quốc ngữ.
- Các anh hùng hào kiệt quốc gia.
- Địa dư quốc gia.
- Các phong tục tập quán(tổ chức hành chính và xã hội) do tiền nhân để lại.
- Các phương ngôn, ngạn ngữ, dân ca.
- Những sự nghiệp văn chương của những nhà văn hóa.
Từ những quan niệm trên đây cho thấy, mặc dù có các cách tiếp cận khác nhau,
cách hiểu khác nhau về Quốc học nhưng các học giả đều có điểm chung là coi Quốc
học như đặc tính riêng của một dân tộc để phân biệt với các dân tộc khác và có
vai trò
quan trọng “quan hệ đến sự tồn vong của Tổ quốc”. Với cách hiểu này, rõ ràng là
khi
nói về Quốc học, các học giả muốn bàn đến bản sắc văn hóa - cái mà ngày nay
chúng
ta gọi là tấm “thẻ căn cước” cho mỗi dân tộc trong quá trình giao lưu, hội nhập
với các
nền văn hóa khác.
Xuất phát từ những quan niệm khác nhau về Quốc học như thế cho nên khi xem
xét Việt Nam có Quốc học hay không, các học giả đưa ra những ý kiến trái ngược
nhau. Là người khởi xướng ra Quốc học, quan niệm Quốc học là văn học, Lê Dư
khẳng định nước ta có Quốc học. Để chứng minh cho quan điểm của mình, ông đã
liệt
kê những tài sản về văn học từ trước đến nay, đặc biệt là những công trình của
Chu
Văn An, Nguyễn Bỉnh Khiêm, theo ông là “đã có sách vở, có học thuyết, có học
phái,
từ xưa đã có một cái ảnh hưởng to cho nền văn học nước nhà nhiều lắm, nào có kém
Vương học với Thiền Tông ở Nhật Bản đâu” [67, tr.173]. Lê Dư đã phê phán những
người phản đối có Quốc học là không nghiên cứu những di sản của cha ông để lại,
chỉ
biết những học thuyết của Trung Quốc, khoa học của phương Tây rồi “mạt sát tiền
nhân” không có cái gì cả, không biết gì cả. Cùng chia sẻ với quan niệm của Lê Dư
có
nhà văn Nguyễn Trọng Thuật, mặc dù lấy tiếng là đứng ra điều đình nhưng thực
chất,
ông ngả về phía Lê Dư để phản đối các học giả khác. Với một quan niệm Quốc học
như ở trên, Nguyễn Trọng Thuật đã đem lịch sử Việt Nam, Trung Hoa, Nhật Bản ra
để
xem xét, so sánh và rút ra kết luận:
Song le dù đối với cái học chung của thế giới đi nữa, so với cụ Khổng,
cụ Phật cùng đông châu chư tử thì cổ nhân ta không những không có mà lại
còn là học đồ, nhưng so với bạn học cùng cái thời đại học thuật với nhau,
nghĩa là so với các học giả Hán, Tống, Minh, Thanh, mà đời kêu là đại nho
thì cổ nhân ta đời nào cũng có như thế đấy, chỉ vì số nhiều không biết trọng
mà để trầm mai đi, thì lấy đâu mà thành lập lưu hành được. Chứ nếu đều
được thành lập lưu hành đến nay cả thì đã chả có cái cảnh tượng học thuật
khủng hoảng như bây giờ [36, tr.164].
Theo kết luận này của Nguyễn Trọng Thuật thì tổ tiên ta có thua kém chỉ thua
kém cụ Khổng, cụ Phật thôi chứ không thua kém gì Bách gia chư tử của Trung Hoa
và
các học giả của Nhật Bản. Theo Lê Dư và Nguyễn Trọng Thuật, hiện trạng học thuật
trong nước như hiện nay là do ta không chú trọng thành lập chứ không phải là
không
hề có một nền Quốc học.