LUẬN VĂN: Đảng bộ tỉnh Mỹ Tho lãnh đạo quân dân tiến công và nổi dậy giải phóng toàn tỉnh từ 1973 đến 1975

3,283
945
91
trung, thống nhất. Trong lónh đạo, chỉ đạo phải đi sâu, đi sát bên dưới tạo cho được một
sự chuyển biến sâu sắc ở cơ sở.
Ngày 10-12-1973, Trung ương Cục ra chỉ thị chỉ đạo cụng tỏc chống phỏ bỡnh
định của địch trong mựa khụ. Chỉ thị nờu rừ tiếp tục động viên toàn Đảng, toàn quân
toàn dân ta kiên quyết đánh bại hành động phá hoại Hiệp định của địch, đánh bại các hoạt
động bỡnh định, lấn chiếm. Đấu tranh chống cướp lúa gạo, mở rộng phong trào đấu tranh
đũi giải quyết cỏc quyền dõn sinh, dõn chủ. Ra sức xây dựng thực lực chính trị, vũ trang
trên cả ba vùng. Phát huy sức mạnh và thế tiến công mới để sẵn sàng đối phó với kẻ thù
trong mọi tỡnh huống.
Những chỉ đạo của Trung ương Đảng, Trung ương Cục đó m cho phong trào
đấu tranh cách mạng ở miền Nam trong đó có phong trào Mỹ Tho, Gò Công giành những
thắng lợi lớn. Chính những thắng lợi này tạo ra thời cơ để Đảng ta lónh đạo nhân dân
miền Nam đứng lên giành thắng lợi hoàn toàn.
Yêu cầu và nhiệm vụ trung tâm của cách mạng dân tộc dân chủ miền Nam
trong giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến chống Mỹ đập tan ngụy quân, ngụy quyền,
giải phóng hoàn toàn lónh thổ. Đáp ứng yêu cầu ấy, quân đội phải có những đơn vị chủ
lực “tinh nhuệ, chính quy, hiện đại, cơ động, linh hoạt” như Nghị quyết Hội nghị lần thứ
21 xác định. Xây dựng những đơn vị như thế, có nghĩa là cách mạng miền Nam phải có
những quân đoàn binh chủng hợp thành, có khả năng cơ động nhanh, có hỏa lực mạnh, có
sức đột kích lớn tiêu diệt từng sư đoàn địch. Thực hiện Nghị quyết 21 Ban chấp hành
Trung ương Đảng, tháng 10-1973, Bộ chính trị phê chuẩn kế hoạch của Quân ủy Trung
ương và Bộ Quốc phũng xõy dựng cỏc quõn đoàn chủ lực. Ngày 24-10-1973, Quân đoàn
1, quân đoàn đầu tiên của lực lượng vũ trang cách mạng Việt Nam được thành lập gồm 3
sư đoàn bộ binh và các đơn vị binh chủng xe tăng, phũng khụng, phỏo binh, cụng binh,
thụng tin, đứng chân trên địa bàn rừng núi Tam Điệp (Ninh Bình). Ngày 17-5-1974,
Quân đoàn 2 được thành lập tây Trị -Thiên. Ngày 20-7-1974, Quân đoàn 4 ra đời
miền Đông Nam Bộ. sau đó đến ngày 27-3-1975, Quân đoàn 3 cũng ra đời ởTây
Nguyên.
1.2.3. Đảng bộ lónh đạo xây dựng lực lượng quân sự, chính trị đánh địch lấn
chiếm, giữ vững và mở rộng vùng giải phóng (1973-1974)
trung, thống nhất. Trong lónh đạo, chỉ đạo phải đi sâu, đi sát bên dưới tạo cho được một sự chuyển biến sâu sắc ở cơ sở. Ngày 10-12-1973, Trung ương Cục ra chỉ thị chỉ đạo cụng tỏc chống phỏ bỡnh định của địch trong mựa khụ. Chỉ thị nờu rừ tiếp tục động viên toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta kiên quyết đánh bại hành động phá hoại Hiệp định của địch, đánh bại các hoạt động bỡnh định, lấn chiếm. Đấu tranh chống cướp lúa gạo, mở rộng phong trào đấu tranh đũi giải quyết cỏc quyền dõn sinh, dõn chủ. Ra sức xây dựng thực lực chính trị, vũ trang trên cả ba vùng. Phát huy sức mạnh và thế tiến công mới để sẵn sàng đối phó với kẻ thù trong mọi tỡnh huống. Những chỉ đạo của Trung ương Đảng, Trung ương Cục đó làm cho phong trào đấu tranh cách mạng ở miền Nam trong đó có phong trào Mỹ Tho, Gò Công giành những thắng lợi lớn. Chính những thắng lợi này tạo ra thời cơ để Đảng ta lónh đạo nhân dân miền Nam đứng lên giành thắng lợi hoàn toàn. Yêu cầu và nhiệm vụ trung tâm của cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam trong giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến chống Mỹ là đập tan ngụy quân, ngụy quyền, giải phóng hoàn toàn lónh thổ. Đáp ứng yêu cầu ấy, quân đội phải có những đơn vị chủ lực “tinh nhuệ, chính quy, hiện đại, cơ động, linh hoạt” như Nghị quyết Hội nghị lần thứ 21 xác định. Xây dựng những đơn vị như thế, có nghĩa là cách mạng miền Nam phải có những quân đoàn binh chủng hợp thành, có khả năng cơ động nhanh, có hỏa lực mạnh, có sức đột kích lớn tiêu diệt từng sư đoàn địch. Thực hiện Nghị quyết 21 Ban chấp hành Trung ương Đảng, tháng 10-1973, Bộ chính trị phê chuẩn kế hoạch của Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phũng xõy dựng cỏc quõn đoàn chủ lực. Ngày 24-10-1973, Quân đoàn 1, quân đoàn đầu tiên của lực lượng vũ trang cách mạng Việt Nam được thành lập gồm 3 sư đoàn bộ binh và các đơn vị binh chủng xe tăng, phũng khụng, phỏo binh, cụng binh, thụng tin, đứng chân trên địa bàn rừng núi Tam Điệp (Ninh Bình). Ngày 17-5-1974, Quân đoàn 2 được thành lập ở tây Trị -Thiên. Ngày 20-7-1974, Quân đoàn 4 ra đời ở miền Đông Nam Bộ. Và sau đó đến ngày 27-3-1975, Quân đoàn 3 cũng ra đời ởTây Nguyên. 1.2.3. Đảng bộ lónh đạo xây dựng lực lượng quân sự, chính trị đánh địch lấn chiếm, giữ vững và mở rộng vùng giải phóng (1973-1974)
Những thắng lợi liên tiếp trên chiến trường trong hai năm 1973-1974, nhất
trong năm 1974 cho thấy những dấu hiệu mới về sự suy yếu, bất lực của địch; và những
điều kiện để Trung ương Đảng hạ quyết tâm chiến lược giải phóng miền Nam đó từng
bước chín muồi.
Để xây dựng lực lượng quân sự, chính trị đánh đổ chính quyền Sài Gòn, Trung
ương Cục đã những chỉ đạo cụ thể cho chiến trường miền Nam. Ngày 11-1-1974,
Thường vụ Trung ương Cục chỉ đạo tăng cường công tác củng cố, xây dựng chi bộ cơ sở.
Trung ương Cục ra chỉ thị nêu rõ: Trong tình hình hiện nay các cấp ủy Đảng cần nhận rõ
tính chất và vai trò quan trọng của chi bộ đảng ở sở. Các chi bộ phải đề ra các nghị
quyết sát hợp với yêu cầu đánh địch và triển khai thực hiện một cách có hiệu quả những
nghị quyết đó. Chi bộ ở cơ sở phải luôn bám sát quần chúng trong bất kỳ tình huống nào.
Cán bộ, đảng viên phải tấm gương, đầu tàu trong việc thực hiện các chủ trương, nghị
quyết cũng như kỷ luật của Đảng. các địa phương chú ý phát triển mở rộng cơ sở
cách mạng; công tác xây dựng chi bộ đảng trong quần chúng được coi là nhiệm vụ hàng
đầu.
Từ ngày 13 đến ngày 20-3-1974, Thường vụ Trung ương Cục họp bàn đẩy mạnh
công tác dân vận.
Sau khi Mỹ rút quân về nước, ngụy quyền Sài Gòn rơi vào tình trạng hoang
mang, suy sụp. Để thực hiện tốt nhiệm vụ ch mạng trong tình hình mới, Thường vụ
Trung ương Cục đã liên tiếp họp bàn với các ban, ngành trong toàn Miền về công tác dân
vận. ở Hội nghị này, đồng chí Phạm Hùng đã nhấn mạnh một số vấn đề về công tác dân
vận. Đồng chí cho rằng: muốn đánh bại chính sách bình định của địch, lật đổ bọn ngụy
quân, ngụy quyền thì chúng ta phải nắm vững nguyên lý: cách mạng sự nghiệp của
quần chúng, phát động quần chúng là vấn đề gốc rễ trong mọi công tác. Trong vận động
quần chúng phải xuất phát từ quyền lợi của quần chúng.
Để tăng cường chống lại các hành động phá hoại về kinh tế, chính trị của địch,
đồng thời ngăn ngừa chống lại những biểu hiện thoái hóa, biến chất của một số cán bộ,
đảng viên. Ngày 20-4, Trung ương Cục chủ trương tăng cường giáo dục chính trị,
tưởng chống chiến tranh tâm lý của địch. Chỉ thị đã chỉ rõ ra những yếu kém trong một số
cán bộ, đảng viên như chủ nghĩa nhân phát triển, tổ chức quản lỏng lẻo... vậy,
Những thắng lợi liên tiếp trên chiến trường trong hai năm 1973-1974, nhất là trong năm 1974 cho thấy những dấu hiệu mới về sự suy yếu, bất lực của địch; và những điều kiện để Trung ương Đảng hạ quyết tâm chiến lược giải phóng miền Nam đó từng bước chín muồi. Để xây dựng lực lượng quân sự, chính trị đánh đổ chính quyền Sài Gòn, Trung ương Cục đã có những chỉ đạo cụ thể cho chiến trường miền Nam. Ngày 11-1-1974, Thường vụ Trung ương Cục chỉ đạo tăng cường công tác củng cố, xây dựng chi bộ cơ sở. Trung ương Cục ra chỉ thị nêu rõ: Trong tình hình hiện nay các cấp ủy Đảng cần nhận rõ tính chất và vai trò quan trọng của chi bộ đảng ở cơ sở. Các chi bộ phải đề ra các nghị quyết sát hợp với yêu cầu đánh địch và triển khai thực hiện một cách có hiệu quả những nghị quyết đó. Chi bộ ở cơ sở phải luôn bám sát quần chúng trong bất kỳ tình huống nào. Cán bộ, đảng viên phải là tấm gương, đầu tàu trong việc thực hiện các chủ trương, nghị quyết cũng như kỷ luật của Đảng. ở các địa phương chú ý phát triển và mở rộng cơ sở cách mạng; công tác xây dựng chi bộ đảng trong quần chúng được coi là nhiệm vụ hàng đầu. Từ ngày 13 đến ngày 20-3-1974, Thường vụ Trung ương Cục họp bàn đẩy mạnh công tác dân vận. Sau khi Mỹ rút quân về nước, ngụy quyền Sài Gòn rơi vào tình trạng hoang mang, suy sụp. Để thực hiện tốt nhiệm vụ cách mạng trong tình hình mới, Thường vụ Trung ương Cục đã liên tiếp họp bàn với các ban, ngành trong toàn Miền về công tác dân vận. ở Hội nghị này, đồng chí Phạm Hùng đã nhấn mạnh một số vấn đề về công tác dân vận. Đồng chí cho rằng: muốn đánh bại chính sách bình định của địch, lật đổ bọn ngụy quân, ngụy quyền thì chúng ta phải nắm vững nguyên lý: cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, phát động quần chúng là vấn đề gốc rễ trong mọi công tác. Trong vận động quần chúng phải xuất phát từ quyền lợi của quần chúng. Để tăng cường chống lại các hành động phá hoại về kinh tế, chính trị của địch, đồng thời ngăn ngừa chống lại những biểu hiện thoái hóa, biến chất của một số cán bộ, đảng viên. Ngày 20-4, Trung ương Cục chủ trương tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng chống chiến tranh tâm lý của địch. Chỉ thị đã chỉ rõ ra những yếu kém trong một số cán bộ, đảng viên như chủ nghĩa cá nhân phát triển, tổ chức quản lý lỏng lẻo... Vì vậy,
chúng ta cần phải tiến hành kiểm điểm đạo đức của người cán bộ, đảng viên, phải giữ
vững phẩm chất đạo đức của người cán bộ, chiến sĩ.
Tháng 7-1974, đồng chí Tổng bí thư Lê Duẩn trực tiếp hướng dẫn Bộ Tổng tham
mưu, khởi thảo kế hoạch giải phóng miền Nam. Tiếp đó, tháng 10 và tháng 12 -1974 Bộ
chính trị Quân ủy Trung ương cùng các đồng chí chủ chốt của chiến trường hai lần
họp hội nghị thống nhất quyết tâm chiến lược thông qua kế hoạch giải phóng miền
Nam.
Lúc này, chúng ta đang thời cơ. Hai mươi năm chiến đấu mới tạo
được thời cơ này, chúng ta phải biết nắm lấy để đưa sự nghiệp giải phóng dân
tộc đến thắng lợi hoàn toàn... Đây là thời cơ thuận lợi nhất để nhân dân ta hoàn
toàn giải phóng miền Nam, giành thắng lợi trọn vẹn cho cách mạng dân tộc
dân chủ, đồng thời giúp Lào Campuchia hoàn thành sự nghiệp giải phóng
dân tộc. Nếu ngoài thời này, không thời nào khác. Nếu để chậm
mươi, mười lăm năm nữa, bọn ngụy gượng dậy được, các thế lực xâm lược hồi
phục, bọn bành trướng mạnh lên thỡ tỡnh hỡnh sẽ phức tạp vụ cựng [15,
tr.360, 362].
Bộ chính trị đó thảo luận, cõn nhắc kỹ lưỡng khả năng Mỹ đưa quân trở lại miền
Nam và Hội nghị đó thống nhất nhận định:
Tuy về bản chất Mỹ rất ngoan cố và cũn nhiều õm mưu thâm độc, nhưng
đây là lúc Mỹ đang ra, đó ra thỡ việc quay lại khụng phải dễ, vỡ Mỹ cũn
choỏng vỏng, ẩm bởi một chuỗi dài thất bại sau quỏ trỡnh dớnh líu sa lầy,
leo thang rồi xuống thang, nay mới thoát ra được. Ngoan cố m giữ miền
Nam đến cùng là một việc mà quay trở lại miền Nam một lần nữa là một việc
khác. Chọn thời cơ chiến lược này, ta phán đoán Mỹ không có khả năng quay
lại. Song, ta cũng khẳng định dù Mỹ có can thiệp trở lại trong chừng mực nào
thỡ cũng khụng xoay chuyển được tỡnh thế và ta vẫn thắng... Thời cơ này phải
làm nhanh, m gọn, làm triệt để nhưng phải khôn khéo. Có như thế mới tạo
được bất ngờ, không ai kịp trở tay. Có làm được như thế không ? Chúng ta đó
nhất trớ cần thiết phải làm và nhất định làm được [15, tr.362-363].
chúng ta cần phải tiến hành kiểm điểm đạo đức của người cán bộ, đảng viên, phải giữ vững phẩm chất đạo đức của người cán bộ, chiến sĩ. Tháng 7-1974, đồng chí Tổng bí thư Lê Duẩn trực tiếp hướng dẫn Bộ Tổng tham mưu, khởi thảo kế hoạch giải phóng miền Nam. Tiếp đó, tháng 10 và tháng 12 -1974 Bộ chính trị và Quân ủy Trung ương cùng các đồng chí chủ chốt của chiến trường hai lần họp hội nghị thống nhất quyết tâm chiến lược và thông qua kế hoạch giải phóng miền Nam. Lúc này, chúng ta đang có thời cơ. Hai mươi năm chiến đấu mới tạo được thời cơ này, chúng ta phải biết nắm lấy để đưa sự nghiệp giải phóng dân tộc đến thắng lợi hoàn toàn... Đây là thời cơ thuận lợi nhất để nhân dân ta hoàn toàn giải phóng miền Nam, giành thắng lợi trọn vẹn cho cách mạng dân tộc dân chủ, đồng thời giúp Lào và Campuchia hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc. Nếu ngoài thời cơ này, không có thời cơ nào khác. Nếu để chậm mươi, mười lăm năm nữa, bọn ngụy gượng dậy được, các thế lực xâm lược hồi phục, bọn bành trướng mạnh lên thỡ tỡnh hỡnh sẽ phức tạp vụ cựng [15, tr.360, 362]. Bộ chính trị đó thảo luận, cõn nhắc kỹ lưỡng khả năng Mỹ đưa quân trở lại miền Nam và Hội nghị đó thống nhất nhận định: Tuy về bản chất Mỹ rất ngoan cố và cũn nhiều õm mưu thâm độc, nhưng đây là lúc Mỹ đang ra, mà đó ra thỡ việc quay lại khụng phải dễ, vỡ Mỹ cũn choỏng vỏng, ờ ẩm bởi một chuỗi dài thất bại sau quỏ trỡnh dớnh líu sa lầy, leo thang rồi xuống thang, nay mới thoát ra được. Ngoan cố bám giữ miền Nam đến cùng là một việc mà quay trở lại miền Nam một lần nữa là một việc khác. Chọn thời cơ chiến lược này, ta phán đoán Mỹ không có khả năng quay lại. Song, ta cũng khẳng định dù Mỹ có can thiệp trở lại trong chừng mực nào thỡ cũng khụng xoay chuyển được tỡnh thế và ta vẫn thắng... Thời cơ này phải làm nhanh, làm gọn, làm triệt để nhưng phải khôn khéo. Có như thế mới tạo được bất ngờ, không ai kịp trở tay. Có làm được như thế không ? Chúng ta đó nhất trớ cần thiết phải làm và nhất định làm được [15, tr.362-363].
Đánh giá thế và lực so sánh giữa ta và địch sau Hiệp định Pari, Hội nghị cho rằng
“sự suy yếu của địch là toàn diện”. Về phía cách mạng, sau khi quân Mỹ rút hết, ta đã
mạnh hơn nhất định quân dân miền Nam sẽ đánh thắng hoàn toàn quân ngụy. Khi
khẳng định chỗ yếu của địch và chỗ mạnh của ta, Đảng thấy hết những khả năng, phức
tạp mà kẻ thù có thể gây ra; khả năng và lực lượng to lớn mà các Đảng bộ miền Nam cần
và có thể huy động được, tạo nên sức mạnh tổng hợp để đánh thắng trong cuộc đọ sức
cuối cùng với địch.
Đó là sức mạnh của cả nước đánh giặc, sức mạnh cách mạng miền Nam và “sức
mạnh lớn nhất, quyết định nhất là ở miền Bắc, ở hậu phương”.
Đó là sức mạnh do những thắng lợi mới của cách mạng Lào và Campuchia góp
phần làm cho cục diện cách mạng miền Nam càng thêm vững mạnh cùng với sự đồng
tỡnh, ủng hộ và giỳp đỡ của các nước anh em và của loài người tiến bộ. Đó là sức mạnh
của chiến tranh nhân dân, kế thừa truyền thống chống ngoại xâm của dân tộc.
Bộ chính trị nêu ra nhiệm vụ trung tâm trước mắt của nhân dân cả nước là động
viên những nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ở cả hai miền, mở cuộc
tổng tiến công và nổi dậy cuối cùng, đưa chiến tranh cách mạng phát triển đến mức cao
nhất, tiêu diệt và làm tan ró toàn bộ quõn ngụy, đánh chiếm Sài Gũn, sào huyệt trung tõm
của địch cũng như tất cả các thành thị khác, đánh đổ ngụy quyền Trung ương các
cấp giành toàn bộ chính quyền về tay nhân dân, giải phóng hoàn toàn miền Nam, hoàn
thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, tiến tới thống nhất nước nhà.
Theo phương hướng đó, Hội nghị quyết định giải phóng miền Nam trong hai
năm 1975-1976. Một phương án nữa là nếu thời đến lập tức giải phóng miền Nam
trong m 1975. Hướng chiến lược Tây Nguyên, trọng điểm Nam Tây Nguyên
Đông Nam Bộ là hướng quyết định cuối cùng. Trên thực tế, đây là một sáng tạo lớn trong
nghệ thuật chỉ đạo chuẩn bị cuộc Tổng tiến công trong thời kỳ kết thúc chiến tranh cũng
như sau đó trong việc điều hành cuộc tổng tiến công chiến lược.
Hội nghị Bộ chính trị đề ra kế hoạch năm 1975, xác định rừ hơn hướng chiến
lược chủ yếu của các miền, khu. Do thắng lợi trên các chiến trường Tây Nguyên, B2,
Khu IX, Bộ chính trị thông qua kế hoạch chiến lược hai năm 1975-1976.
Hội nghị cho rằng thế mới lực mới của cách mạng đó thể hiện trờn cỏc mặt
sau đây: một là, ta đó giành quyền chủ động tiến công địch trên khắp các chiến trường;
Đánh giá thế và lực so sánh giữa ta và địch sau Hiệp định Pari, Hội nghị cho rằng “sự suy yếu của địch là toàn diện”. Về phía cách mạng, sau khi quân Mỹ rút hết, ta đã mạnh hơn và nhất định quân dân miền Nam sẽ đánh thắng hoàn toàn quân ngụy. Khi khẳng định chỗ yếu của địch và chỗ mạnh của ta, Đảng thấy hết những khả năng, phức tạp mà kẻ thù có thể gây ra; khả năng và lực lượng to lớn mà các Đảng bộ miền Nam cần và có thể huy động được, tạo nên sức mạnh tổng hợp để đánh thắng trong cuộc đọ sức cuối cùng với địch. Đó là sức mạnh của cả nước đánh giặc, sức mạnh cách mạng miền Nam và “sức mạnh lớn nhất, quyết định nhất là ở miền Bắc, ở hậu phương”. Đó là sức mạnh do những thắng lợi mới của cách mạng Lào và Campuchia góp phần làm cho cục diện cách mạng miền Nam càng thêm vững mạnh cùng với sự đồng tỡnh, ủng hộ và giỳp đỡ của các nước anh em và của loài người tiến bộ. Đó là sức mạnh của chiến tranh nhân dân, kế thừa truyền thống chống ngoại xâm của dân tộc. Bộ chính trị nêu ra nhiệm vụ trung tâm trước mắt của nhân dân cả nước là động viên những nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ở cả hai miền, mở cuộc tổng tiến công và nổi dậy cuối cùng, đưa chiến tranh cách mạng phát triển đến mức cao nhất, tiêu diệt và làm tan ró toàn bộ quõn ngụy, đánh chiếm Sài Gũn, sào huyệt trung tõm của địch cũng như tất cả các thành thị khác, đánh đổ ngụy quyền ở Trung ương và các cấp giành toàn bộ chính quyền về tay nhân dân, giải phóng hoàn toàn miền Nam, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, tiến tới thống nhất nước nhà. Theo phương hướng đó, Hội nghị quyết định giải phóng miền Nam trong hai năm 1975-1976. Một phương án nữa là nếu thời cơ đến lập tức giải phóng miền Nam trong năm 1975. Hướng chiến lược là Tây Nguyên, trọng điểm Nam Tây Nguyên và Đông Nam Bộ là hướng quyết định cuối cùng. Trên thực tế, đây là một sáng tạo lớn trong nghệ thuật chỉ đạo chuẩn bị cuộc Tổng tiến công trong thời kỳ kết thúc chiến tranh cũng như sau đó trong việc điều hành cuộc tổng tiến công chiến lược. Hội nghị Bộ chính trị đề ra kế hoạch năm 1975, xác định rừ hơn hướng chiến lược chủ yếu của các miền, khu. Do thắng lợi trên các chiến trường Tây Nguyên, B2, Khu IX, Bộ chính trị thông qua kế hoạch chiến lược hai năm 1975-1976. Hội nghị cho rằng thế mới và lực mới của cách mạng đó thể hiện trờn cỏc mặt sau đây: một là, ta đó giành quyền chủ động tiến công địch trên khắp các chiến trường;
hai là, những binh đoàn chủ lực cơ động và những nguồn dự trữ chiến lược của ta đó
được xây dựng ở những vùng rừng núi nông thôn, đồng bằng; ba là, phong trào đấu
tranh chính trị đũi hũa bỡnh, độc lập, hũa hợp dõn tộc đó được phát động; bốn là, thế giới
đồng tỡnh ủng hộ Việt Nam trừng trị bọn lấn chiếm. Về phía địch, thế của chúng ngày
càng xấu, lực ngày càng suy, biểu hiện chỗ: quân ngụy ở thế phũng ngự, bị động, bảo
an, dân vệ bị tan ró từng mảng; hỏa lực, cơ động và trỡnh độ hiệp đồng của quân chủ lực
ngụy giảm sút nghiêm trọng, tinh thần quân ngụy đang xuống dốc, kế hoạch bỡnh định
đang phá sản; nội bộ bị rối loạn. Trước tỡnh hỡnh quõn sự, chớnh trị, kinh tế đó, chính
quyền Nguyễn Văn Thiệu khó bề đứng vững.
Căn cứ vào thế và lực so sánh giữa ta và địch, Hội nghị đó phõn tớch cụ thể thời
cơ lịch sử và khả năng thực tế của cách mạng miền Nam mở trận quyết chiến cuối cùng,
đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đến thắng lợi hoàn toàn.
Hội nghị đang họp, ngày 6-1-1975 thị xó Phước Long đó được giải phóng. Chiến
thắng Phước Long cổ vũ quân và dân cả nước và là một sự kiện chứng tỏ khả năng quân
Mỹ quay trở lại miền Nam không cũn nữa, chứng tỏ nhận định của Bộ chính trị
hoàn toàn chính xác. Chiến thắng Phước Long cũn cho thấy khả năng giải phóng miền
Nam có thể tiến hành với nhịp độ lớn hơn, nhanh hơn. Việc thu được 10 ngàn viên đại
bác Phước Long đó mở ra khả năng hiện thực giải quyết nạn thiếu súng đạn đại bác
bằng biện pháp “lấy súng đạn của địch để đánh địch.”
Kết thỳc Hội nghị, Bộ chớnh trị chỉ rừ: Nắm vững thời cơ lịch sử, mở nhiều
chiến dịch tổng hợp liên tiếp, đánh những trận quyết định, tiến tới tổng tiến công và nổi
dậy, thắng địch tại sào huyệt quan trọng nhất của chúng là Sài Gũn, kết thỳc cuộc khỏng
chiến chống Mỹ, hoàn thành cỏch mạng dõn tộc dõn chủ ở miền Nam, thống nhất Tổ
quốc, đưa cả nước lên chủ nhĩa xó hội. Đánh trận cuối cùng này sẽ là nhiệm vụ của quân
và dân cả nước, trong đó, khối chủ lực Miền và các binh đoàn chủ lực từ các chiến trường
khác đến đóng vai trũ quyết định.
Năm 1975, chiến trường miền Nam có nhiệm vụ đánh phá bỡnh định, đánh quân
chủ lực ngụy, vây ép thành thị khu V, Tây Nguyên tạo điều kiện cho chủ lực cơ động tiến
nhanh vào miền Đông. Cắt đồng bằng khu V làm đôi, tạo thêm một hướng mới tiến
nhanh vào Sài Gũn, giải phúng từ tỉnh Bỡnh Định trở ra để ép địch về phía Đà Nẵng, Trị
Thiên, làm chủ nam thành phố Huế, chia cắt Huế với Đà Nẵng.
hai là, những binh đoàn chủ lực cơ động và những nguồn dự trữ chiến lược của ta đó được xây dựng ở những vùng rừng núi và nông thôn, đồng bằng; ba là, phong trào đấu tranh chính trị đũi hũa bỡnh, độc lập, hũa hợp dõn tộc đó được phát động; bốn là, thế giới đồng tỡnh ủng hộ Việt Nam trừng trị bọn lấn chiếm. Về phía địch, thế của chúng ngày càng xấu, lực ngày càng suy, biểu hiện ở chỗ: quân ngụy ở thế phũng ngự, bị động, bảo an, dân vệ bị tan ró từng mảng; hỏa lực, cơ động và trỡnh độ hiệp đồng của quân chủ lực ngụy giảm sút nghiêm trọng, tinh thần quân ngụy đang xuống dốc, kế hoạch bỡnh định đang phá sản; nội bộ bị rối loạn. Trước tỡnh hỡnh quõn sự, chớnh trị, kinh tế đó, chính quyền Nguyễn Văn Thiệu khó bề đứng vững. Căn cứ vào thế và lực so sánh giữa ta và địch, Hội nghị đó phõn tớch cụ thể thời cơ lịch sử và khả năng thực tế của cách mạng miền Nam mở trận quyết chiến cuối cùng, đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đến thắng lợi hoàn toàn. Hội nghị đang họp, ngày 6-1-1975 thị xó Phước Long đó được giải phóng. Chiến thắng Phước Long cổ vũ quân và dân cả nước và là một sự kiện chứng tỏ khả năng quân Mỹ quay trở lại miền Nam không cũn nữa, nú chứng tỏ nhận định của Bộ chính trị là hoàn toàn chính xác. Chiến thắng Phước Long cũn cho thấy khả năng giải phóng miền Nam có thể tiến hành với nhịp độ lớn hơn, nhanh hơn. Việc thu được 10 ngàn viên đại bác ở Phước Long đó mở ra khả năng hiện thực giải quyết nạn thiếu súng đạn đại bác bằng biện pháp “lấy súng đạn của địch để đánh địch.” Kết thỳc Hội nghị, Bộ chớnh trị chỉ rừ: Nắm vững thời cơ lịch sử, mở nhiều chiến dịch tổng hợp liên tiếp, đánh những trận quyết định, tiến tới tổng tiến công và nổi dậy, thắng địch tại sào huyệt quan trọng nhất của chúng là Sài Gũn, kết thỳc cuộc khỏng chiến chống Mỹ, hoàn thành cỏch mạng dõn tộc dõn chủ ở miền Nam, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước lên chủ nhĩa xó hội. Đánh trận cuối cùng này sẽ là nhiệm vụ của quân và dân cả nước, trong đó, khối chủ lực Miền và các binh đoàn chủ lực từ các chiến trường khác đến đóng vai trũ quyết định. Năm 1975, chiến trường miền Nam có nhiệm vụ đánh phá bỡnh định, đánh quân chủ lực ngụy, vây ép thành thị khu V, Tây Nguyên tạo điều kiện cho chủ lực cơ động tiến nhanh vào miền Đông. Cắt đồng bằng khu V làm đôi, tạo thêm một hướng mới tiến nhanh vào Sài Gũn, giải phúng từ tỉnh Bỡnh Định trở ra để ép địch về phía Đà Nẵng, Trị Thiên, làm chủ nam thành phố Huế, chia cắt Huế với Đà Nẵng.
Kế hoạch tiếp theo cho m 1976 sẽ do kết quả thực hiện kế hoạch năm 1975
quyết định. Toàn Đảng, toàn quân và toàn dân phải cố gắng cao nhất để thắng gọn trong
năm 1975. Nghị quyết Hội nghị Bộ chớnh trị thỏng 10 và thỏng 1- 1975 cú ý nghĩa lịch
sử trọng đại soi đường cho quân và dân ta chớp lấy thời cơ lịch sử, giáng cho địch những
đũn quyết định, đập tan một triệu quân ngụy, xóa bỏ chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ
miền Nam, hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ trong cả nước.
Trung ương Cục tiếp tục ra các Nghị quyết, Chỉ thị để chỉ đạo sâu sát chiến
trường miền Nam, như Nghị quyết "Đánh bại chính sách bình định, lấn chiếm mới của
Mỹ - ngụy, tiến lên hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ"(9-1974), nhằm động viên sự
nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân miền Nam để đánh bại cơ bản về kế
hoạch bình định, lấn chiếm mới của địch trong năm 1974-1975.
Tổng kết một năm thực hiện Nghị quyết 21 của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng, Trung ương Cục nhấn mạnh:
Từ tháng 9-1973 trở đi, ta đã ngăn chặn được kế hoạch bình định, lấn
chiếm của địch ở một số vùng trọng điểm. Đặc biệt ở khu IX, ta đã sớm đánh
giá âm mưu của địch, có chủ trương tiến công kiên quyết, liên tục bằng ba thứ
quân nên chẳng những giữ được đất như trước ngày 27-1-1973 còn mở
thêm các lõm giải phóng, giành thêm 30 ấp ước trên 30.000 dân” [59, tr.1042].
Từ những hoạt động chỉ đạo của các cấp, Trung ương Cục rút ra những bài học
bổ ích. Phải nắm vững bạo lực cách mạng, kiên quyết tiến công địch, có phương thức
hoạt động và sử dụng lực lượng phù hợp nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp ba vùng, ba
thứ quân nổi dậy của quần chúng liên tục tiến công địch. Thắng lợi của ta trên nhiều
chiến trường trọng điểm đã chứng tỏ thực lực của cách mạng đã ngày càng lớn mạnh, liên
tiếp đẩy địch vào thế bị bị động.
Trung ương Cục chủ trương cho năm 1974 là phải quyết tâm đánh bại một bước
quan trọng kế hoạch bình định, lấn chiếm của địch, thu hồi, mở rộng vùng giải phóng, nối
liền các lõm giải phóng tạo hành lang vững chắc giữa các vùng áp sát đô thị lớn và vùng
ven Sài Gòn - Chợ Lớn, ra sức xây dựng vùng giải phóng, vùng căn cứ, phát triển thực
lực của cách mạng về mọi mặt, chuẩn bị cho bước ngoặt phát triển của cách mạng miền
Nam.
Kế hoạch tiếp theo cho năm 1976 sẽ do kết quả thực hiện kế hoạch năm 1975 quyết định. Toàn Đảng, toàn quân và toàn dân phải cố gắng cao nhất để thắng gọn trong năm 1975. Nghị quyết Hội nghị Bộ chớnh trị thỏng 10 và thỏng 1- 1975 cú ý nghĩa lịch sử trọng đại soi đường cho quân và dân ta chớp lấy thời cơ lịch sử, giáng cho địch những đũn quyết định, đập tan một triệu quân ngụy, xóa bỏ chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ ở miền Nam, hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ trong cả nước. Trung ương Cục tiếp tục ra các Nghị quyết, Chỉ thị để chỉ đạo sâu sát chiến trường miền Nam, như Nghị quyết "Đánh bại chính sách bình định, lấn chiếm mới của Mỹ - ngụy, tiến lên hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ"(9-1974), nhằm động viên sự nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân miền Nam để đánh bại cơ bản về kế hoạch bình định, lấn chiếm mới của địch trong năm 1974-1975. Tổng kết một năm thực hiện Nghị quyết 21 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Trung ương Cục nhấn mạnh: Từ tháng 9-1973 trở đi, ta đã ngăn chặn được kế hoạch bình định, lấn chiếm của địch ở một số vùng trọng điểm. Đặc biệt ở khu IX, ta đã sớm đánh giá âm mưu của địch, có chủ trương tiến công kiên quyết, liên tục bằng ba thứ quân nên chẳng những giữ được đất như trước ngày 27-1-1973 mà còn mở thêm các lõm giải phóng, giành thêm 30 ấp ước trên 30.000 dân” [59, tr.1042]. Từ những hoạt động chỉ đạo của các cấp, Trung ương Cục rút ra những bài học bổ ích. Phải nắm vững bạo lực cách mạng, kiên quyết tiến công địch, có phương thức hoạt động và sử dụng lực lượng phù hợp nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp ba vùng, ba thứ quân và nổi dậy của quần chúng liên tục tiến công địch. Thắng lợi của ta trên nhiều chiến trường trọng điểm đã chứng tỏ thực lực của cách mạng đã ngày càng lớn mạnh, liên tiếp đẩy địch vào thế bị bị động. Trung ương Cục chủ trương cho năm 1974 là phải quyết tâm đánh bại một bước quan trọng kế hoạch bình định, lấn chiếm của địch, thu hồi, mở rộng vùng giải phóng, nối liền các lõm giải phóng tạo hành lang vững chắc giữa các vùng áp sát đô thị lớn và vùng ven Sài Gòn - Chợ Lớn, ra sức xây dựng vùng giải phóng, vùng căn cứ, phát triển thực lực của cách mạng về mọi mặt, chuẩn bị cho bước ngoặt phát triển của cách mạng miền Nam.
Cuối năm 1974, chính quyền tay sai Nguyễn Văn Thiệu được Mỹ giúp sức đã
dùng mọi thủ đoạn, hành động vừa để đàn áp phong trào đấu tranh của nhân dân miền
Nam, vừa lừa mị, dối trá hòng xoa dịu phong trào đấu tranh đang lên cao. Ngày 24-11-
1974, Trung ương Cục điện chỉ đạo các cấp ủy, ban ngành phải tìm mọi cách để đưa
phong trào đấu tranh đô thị miền Nam phát triển theo hướng lợi cho cách mạng.
Mục tiêu và khẩu hiệu hành động là lật đổ chính quyền Nguyễn Văn Thiệu, đòi thành lập
Chính phủ thi hành Hiệp định Pari. Thường vụ Trung ương Cục nhấn mạnh, nhiệm vụ
lớn của công tác thành thị là thông qua các cuộc đấu tranh, các phong trào mà vận động,
tổ chức và nắm lấy quần chúng. Các cấp ủy Đảng cơ sở phải chú ý phát hiện những quần
chúng tích cực, hăng hái đấu tranh làm hạt nhân cho các phong trào. Đa số quần chúng ở
thành thị hiện nay có cuộc sống nghèo khổ, mong muốn lớn nhất của họ là có cuộc sống
hòa bình. Vì vậy, Đảng phải lãnh đạo, tập hợp và tổ chức cho quần chúng đấu tranh để
giành lại hòa bình.
Để thực hiện quyết tâm của Bchính trị, khu VIII- Trung Nam Bộ, Ban ch
huy Miền tổ chức lại chiến trường. Thành lập hai tỉnh mới nhằm vào hai khu vực trọng
điểm tôn giáo Hũa Hảo là vựng chữ O, tỉnh An Giang và vựng cỏc huyện Chợ Mới, Lấp
Vũ, Lai Vung, Châu Thành tỉnh Sa Đéc. Cụ thể cắt toàn bộ phần hữu ngạn sông Hậu
của tỉnh An Giang giao cho Khu IX, phần cũn lại của An Giang gồm cỏc huyện Tõn
Chõu, An Phỳ, Phỳ Tõn nhập với cỏc huyện Hồng Ngự, Tam Nụng, Thanh Bỡnh của tỉnh
Kiến Phong thành tỉnh Long Chõu Tiền. Phần cũn lại của Kiến Phong là cỏc huyện Cao
Lónh, Kiến Văn, Mỹ An, Chợ Mới nhập với các huyện Lấp Vũ, Lai Vung, Chõu Thành
tỉnh Sa Đéc, thị xó Sa Đéc của tỉnh Vĩnh Long thành tỉnh Sa Đéc.
Riờng tỉnh Long An thỡ đó cú quyết định trở về với Khu VIII từ tháng 8-1973.
Từ đây địa bàn Khu VIII lại có hướng tiếp cận sát với phía Tây và Nam Sài Gũn.
Về xây dựng lực lượng, khu VIII được tổ chức sư đoàn bộ binh. Sư đoàn 8 được
thành lập ngày 22-10-1974, gồm các trung đoàn 24, 88, 320, do đồng chí Huỳnh Văn
Mến là Sư đoàn trưởng, đồng chí Nguyễn Văn Thạnh làm chính ủy.
Để tạo địa bàn và thế động chiến dịch cần mở hành lang nối liền Khu VIII,
Khu IX và Nam Sài Gũn. Trung đoàn 1 được lệnh sang Mỏ Cày- Bến Tre mở vùng Chợ
Lách. Các lực lượng khác của Khu xuống đứng chân ở vùng Chợ Gạo- tỉnh Mỹ Tho, sau
đó mở vùng nối liền qua Châu Thành- Long An, Tân Trụ, Cần Giuộc, Cần Đước tạo một
Cuối năm 1974, chính quyền tay sai Nguyễn Văn Thiệu được Mỹ giúp sức đã dùng mọi thủ đoạn, hành động vừa để đàn áp phong trào đấu tranh của nhân dân miền Nam, vừa lừa mị, dối trá hòng xoa dịu phong trào đấu tranh đang lên cao. Ngày 24-11- 1974, Trung ương Cục điện chỉ đạo các cấp ủy, ban ngành phải tìm mọi cách để đưa phong trào đấu tranh ở đô thị miền Nam phát triển theo hướng có lợi cho cách mạng. Mục tiêu và khẩu hiệu hành động là lật đổ chính quyền Nguyễn Văn Thiệu, đòi thành lập Chính phủ thi hành Hiệp định Pari. Thường vụ Trung ương Cục nhấn mạnh, nhiệm vụ lớn của công tác thành thị là thông qua các cuộc đấu tranh, các phong trào mà vận động, tổ chức và nắm lấy quần chúng. Các cấp ủy Đảng cơ sở phải chú ý phát hiện những quần chúng tích cực, hăng hái đấu tranh làm hạt nhân cho các phong trào. Đa số quần chúng ở thành thị hiện nay có cuộc sống nghèo khổ, mong muốn lớn nhất của họ là có cuộc sống hòa bình. Vì vậy, Đảng phải lãnh đạo, tập hợp và tổ chức cho quần chúng đấu tranh để giành lại hòa bình. Để thực hiện quyết tâm của Bộ chính trị, ở khu VIII- Trung Nam Bộ, Ban chỉ huy Miền tổ chức lại chiến trường. Thành lập hai tỉnh mới nhằm vào hai khu vực trọng điểm tôn giáo Hũa Hảo là vựng chữ O, tỉnh An Giang và vựng cỏc huyện Chợ Mới, Lấp Vũ, Lai Vung, Châu Thành tỉnh Sa Đéc. Cụ thể là cắt toàn bộ phần hữu ngạn sông Hậu của tỉnh An Giang giao cho Khu IX, phần cũn lại của An Giang gồm cỏc huyện Tõn Chõu, An Phỳ, Phỳ Tõn nhập với cỏc huyện Hồng Ngự, Tam Nụng, Thanh Bỡnh của tỉnh Kiến Phong thành tỉnh Long Chõu Tiền. Phần cũn lại của Kiến Phong là cỏc huyện Cao Lónh, Kiến Văn, Mỹ An, Chợ Mới nhập với các huyện Lấp Vũ, Lai Vung, Chõu Thành tỉnh Sa Đéc, thị xó Sa Đéc của tỉnh Vĩnh Long thành tỉnh Sa Đéc. Riờng tỉnh Long An thỡ đó cú quyết định trở về với Khu VIII từ tháng 8-1973. Từ đây địa bàn Khu VIII lại có hướng tiếp cận sát với phía Tây và Nam Sài Gũn. Về xây dựng lực lượng, khu VIII được tổ chức sư đoàn bộ binh. Sư đoàn 8 được thành lập ngày 22-10-1974, gồm các trung đoàn 24, 88, 320, do đồng chí Huỳnh Văn Mến là Sư đoàn trưởng, đồng chí Nguyễn Văn Thạnh làm chính ủy. Để tạo địa bàn và thế cơ động chiến dịch cần mở hành lang nối liền Khu VIII, Khu IX và Nam Sài Gũn. Trung đoàn 1 được lệnh sang Mỏ Cày- Bến Tre mở vùng Chợ Lách. Các lực lượng khác của Khu xuống đứng chân ở vùng Chợ Gạo- tỉnh Mỹ Tho, sau đó mở vùng nối liền qua Châu Thành- Long An, Tân Trụ, Cần Giuộc, Cần Đước tạo một
hành lang nối liền từ Khu IX qua Bến Tre, Mỹ Tho, Long An của Khu VIII với Sài Gũn
để cơ động lực lượng chiến dịch.
Việc thực hiện chủ trương của Miền tổ chức lại chiến trường Khu VIII trong
một thời gian gấp rút rất nhiều khó khăn, phức tạp. Nhưng
Thường vụ Khu ủy đó tỡm mọi cỏch khắc phục, lónh đạo chặt chẽ khâu giao nhận, sắp
xếp lại từng cán bộ giữa Khu VIII và Khu IX, giữa các tỉnh.
Để thực hiện quyết tâm chiến lược chung trên chiến trường, Thường vụ Khu ủy
chủ trương: Tích cực củng cố, bổ sung, xây dựng ba thứ quân đủ mạnh, làm thay đổi
tương quan lực lượng một bước quan trọng trên chiến trường. Mở đợt tiến công quân s
mạnh, phát động quần chúng nổi dậy mạnh mẽ trong các vùng, kiên quyết đánh bại về cơ
bản kế hoạch lấn chiếm của địch, phá lỏng, phá ró thế bỡnh định ở các vùng tôn giáo, vùng
sâu, vùng yếu. Phá vỡ thế ngăn chặn hành lang biên giới. Giải phóng liên hoàn khu vực
Đồng Tháp Mười, mở rộng giải phóng nông thôn Bến Tre.
Thường vụ Khu ủy đề ra chỉ tiêu cho năm 1975 là chủ yếu trong mựa khụ 1974-
1975 “diệt và làm tan ró 40.000 tờn địch, phỏ ró 2/3 lực lượng phũng vệ dõn sự, diệt, bức
rỳt, bức hàng từ 1.000 đến 1.200 đồn. Giải phóng hoàn toàn và cơ bản 200 xó với trờn 1
triệu dõn. Vận động tũng quõn bổ sung đủ mỗi tiểu đoàn bộ binh 300 quân, phát triển
60.000 du kích” [59, tr 697].
Trước khi bước vào chiến dịch, Khu ủy Khu VIII cử đồng chí Văn Phẩm
(Chín Hải)- Thường vụ Khu ủy về trực tiếp chỉ dạo chiến dịch mở hành lang từ Chợ Gạo-
Mỹ Tho qua Tân An, Tân Trụ, Cần Đước, Cần Giuộc thuộc tỉnh Long An. Đồng chí Lê
Văn Nhung (Tư Việt Thắng), Phó Bí thư Khu ủy đặc trách chỉ đạo khu vực thành phố Mỹ
Tho - Chợ Gạo - Gò Công. Bộ chỉ huy chiến dịch ở tỉnh Mỹ Tho cũng được tách ra thành
lập. Thực hiện Nghị quyết của Khu ủy Khu VIII, thành phố Mỹ Tho cũng được tách ra
thành đơn vị ngang cấp tỉnh trực thuộc Khu,Bộ chỉ huy Mặt trận đường 4 cũng được
củng cố lại để thống nhất lónh đạo.
Cùng lúc các cấp ủy ở cơ sở vừa triển khai quán triệt chủ trương của Tỉnh, vừa
củng cố tổ chức, phát triển lực lượng. Đảng bộ tỉnh Mỹ Tho đã tổ chức quần chúng ở
nông thôn, vùng giải phóng theo từng tiểu đội, trung đội, theo từng lứa tuổi, căn cứ vào
đó mà phân công nhiệm vụ cho thích hợp. Thanh niên thỡ đi dân công tải đạn, tải thưong,
hành lang nối liền từ Khu IX qua Bến Tre, Mỹ Tho, Long An của Khu VIII với Sài Gũn để cơ động lực lượng chiến dịch. Việc thực hiện chủ trương của Miền là tổ chức lại chiến trường Khu VIII trong một thời gian gấp rút có rất nhiều khó khăn, phức tạp. Nhưng Thường vụ Khu ủy đó tỡm mọi cỏch khắc phục, lónh đạo chặt chẽ khâu giao nhận, sắp xếp lại từng cán bộ giữa Khu VIII và Khu IX, giữa các tỉnh. Để thực hiện quyết tâm chiến lược chung trên chiến trường, Thường vụ Khu ủy chủ trương: Tích cực củng cố, bổ sung, xây dựng ba thứ quân đủ mạnh, làm thay đổi tương quan lực lượng một bước quan trọng trên chiến trường. Mở đợt tiến công quân sự mạnh, phát động quần chúng nổi dậy mạnh mẽ trong các vùng, kiên quyết đánh bại về cơ bản kế hoạch lấn chiếm của địch, phá lỏng, phá ró thế bỡnh định ở các vùng tôn giáo, vùng sâu, vùng yếu. Phá vỡ thế ngăn chặn hành lang biên giới. Giải phóng liên hoàn khu vực Đồng Tháp Mười, mở rộng giải phóng nông thôn Bến Tre. Thường vụ Khu ủy đề ra chỉ tiêu cho năm 1975 là chủ yếu trong mựa khụ 1974- 1975 “diệt và làm tan ró 40.000 tờn địch, phỏ ró 2/3 lực lượng phũng vệ dõn sự, diệt, bức rỳt, bức hàng từ 1.000 đến 1.200 đồn. Giải phóng hoàn toàn và cơ bản 200 xó với trờn 1 triệu dõn. Vận động tũng quõn bổ sung đủ mỗi tiểu đoàn bộ binh 300 quân, phát triển 60.000 du kích” [59, tr 697]. Trước khi bước vào chiến dịch, Khu ủy Khu VIII cử đồng chí Lê Văn Phẩm (Chín Hải)- Thường vụ Khu ủy về trực tiếp chỉ dạo chiến dịch mở hành lang từ Chợ Gạo- Mỹ Tho qua Tân An, Tân Trụ, Cần Đước, Cần Giuộc thuộc tỉnh Long An. Đồng chí Lê Văn Nhung (Tư Việt Thắng), Phó Bí thư Khu ủy đặc trách chỉ đạo khu vực thành phố Mỹ Tho - Chợ Gạo - Gò Công. Bộ chỉ huy chiến dịch ở tỉnh Mỹ Tho cũng được tách ra thành lập. Thực hiện Nghị quyết của Khu ủy Khu VIII, thành phố Mỹ Tho cũng được tách ra thành đơn vị ngang cấp tỉnh trực thuộc Khu, và Bộ chỉ huy Mặt trận đường 4 cũng được củng cố lại để thống nhất lónh đạo. Cùng lúc các cấp ủy ở cơ sở vừa triển khai quán triệt chủ trương của Tỉnh, vừa củng cố tổ chức, phát triển lực lượng. Đảng bộ tỉnh Mỹ Tho đã tổ chức quần chúng ở nông thôn, vùng giải phóng theo từng tiểu đội, trung đội, theo từng lứa tuổi, căn cứ vào đó mà phân công nhiệm vụ cho thích hợp. Thanh niên thỡ đi dân công tải đạn, tải thưong,
bao bức đồn bót, cắt đứt giao thông của địch... số cũn lại chuẩn bị hậu cần tại chỗ, tạo
điều kiện tốt cho bộ đội đứng chân sẵn sàng phối hợp với ba thứ quân giành quyền
làm chủ. Ở thị xã, thị trấn và thành phố Mỹ Tho, Đảng bộ các cấp tập hợp, giáo dục, vận
động quần chúng vào các tổ chức công khai, nữa công khai, chuẩn bị mọi điều kiện để
nổi dậy. Qua quá trỡnh hoạt động các cấp ủy Đảng ở Tỉnh lần lượt phát triển được “hơn
3.500 người, có 500 đảng viên, hơn 1000 người tham gia lực lượng vũ trang, xây dựng
củng cố lại hầu hết các chi bộ sở, các ban ngành, đoàn thể, đơn vị lực lượng
trang” [2, tr.95]. Do có chuẩn bị chu đáo, nên khi lệnh mở màn chiến dịch tiến công
nổi dậy được triển khai, quân dân Mỹ Tho, Gũ Gụng hưởng ứng mạnh và khẩn trương.
Chương 2
Đảng bộ tỉnh Mỹ Tho lãnh đạo quân dân trong tỉnh tiến công và nổi dậy mùa xuân
năm 1975
2.1. Quán triệt chủ trương giải phóng hoàn toàn miền nam, tăng cường củng cố
và phát triển lựcợng cách mạng
2.1.1. Quán triệt chủ trương của Đảng tronga k1974-1975
Những hoạt động toàn diện của các cấp bộ Đảng, của quân dân ta trên chiến
trường miền Nam cùng với sự chi viện của miền Bắc từ cuối năm 1973 đầu năm 1974 đó
đánh bại mưu đồ giành lại thế mạnh của Mỹ- ngụy.
Trên cơ sở đó, từ ngày 28-7 đến ngày 4-8-1974, Hội nghị Trung Cục lần thứ 13
(mở rộng) kiểm điểm tỡnh hỡnh xỏc định phương hướng, nhiệm vụ, yêu cầu cách
mạng miền Nam cuối năm 1974 và năm 1975.
Hội nghị đó nhất trớ nhận định:
Đặc điểm nổi bật của tỡnh hỡnh là ta cú khả năng giành thắng lợi lớn
trong mùa mưa và mùa khô 1974- 1975, đồng thời sẽ có nhiều thuận lợi để ta
bao bức đồn bót, cắt đứt giao thông của địch... số cũn lại chuẩn bị hậu cần tại chỗ, tạo điều kiện tốt cho bộ đội đứng chân và sẵn sàng phối hợp với ba thứ quân giành quyền làm chủ. Ở thị xã, thị trấn và thành phố Mỹ Tho, Đảng bộ các cấp tập hợp, giáo dục, vận động quần chúng vào các tổ chức công khai, nữa công khai, chuẩn bị mọi điều kiện để nổi dậy. Qua quá trỡnh hoạt động các cấp ủy Đảng ở Tỉnh lần lượt phát triển được “hơn 3.500 người, có 500 đảng viên, hơn 1000 người tham gia lực lượng vũ trang, xây dựng củng cố lại hầu hết các chi bộ ở cơ sở, các ban ngành, đoàn thể, đơn vị lực lượng vũ trang” [2, tr.95]. Do có chuẩn bị chu đáo, nên khi lệnh mở màn chiến dịch tiến công và nổi dậy được triển khai, quân dân Mỹ Tho, Gũ Gụng hưởng ứng mạnh và khẩn trương. Chương 2 Đảng bộ tỉnh Mỹ Tho lãnh đạo quân dân trong tỉnh tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975 2.1. Quán triệt chủ trương giải phóng hoàn toàn miền nam, tăng cường củng cố và phát triển lực lượng cách mạng 2.1.1. Quán triệt chủ trương của Đảng trong mùa khô 1974-1975 Những hoạt động toàn diện của các cấp bộ Đảng, của quân và dân ta trên chiến trường miền Nam cùng với sự chi viện của miền Bắc từ cuối năm 1973 đầu năm 1974 đó đánh bại mưu đồ giành lại thế mạnh của Mỹ- ngụy. Trên cơ sở đó, từ ngày 28-7 đến ngày 4-8-1974, Hội nghị Trung Cục lần thứ 13 (mở rộng) kiểm điểm tỡnh hỡnh và xỏc định phương hướng, nhiệm vụ, yêu cầu cách mạng miền Nam cuối năm 1974 và năm 1975. Hội nghị đó nhất trớ nhận định: Đặc điểm nổi bật của tỡnh hỡnh là ta cú khả năng giành thắng lợi lớn trong mùa mưa và mùa khô 1974- 1975, đồng thời sẽ có nhiều thuận lợi để ta
thể tạo ra bước ngoặt lớn cho cách mạng miền Nam.Trong khi đó, địch
đang sa sút toàn diện cả về quân sự, kinh tế, chính trị [59, tr.973].
Về nhiệm vụ mùa mưa và mùa khô năm 1974-1975, Hội nghị xác định: phải tạo
khả năng thắng lớn trong mùa khô 1974- 1975, tạo ra bước ngoặt có tính chất quyết định
để chuyển phong trào lên nhằm đạt thể vượt chỉ tiêu năm 1975. Muốn vậy phải
chuẩn bị tốt cho mùa mưa và mùa khô. Phải nổ lực lớn, khả năng, tốc độ phát triển tỡnh
hỡnh sẽ cũn nhanh.
Để thực hiện tốt nhiệm v trên, Hội nghị yêu cầu các Khu ủy, Tỉnh ủy kiểm
điểm, rút kinh nghiệm, bổ sung kế hoạch mùa mưa, tập trung vào mùa khô 1974-1975,
quán triệt tư tưởng tiến công trong giai đoạn tới.
Hội nghị đó đề ra những nhiệm vụ sau: tiếp tục đánh thắng kế hoạch bỡnh định
của địch, nắm vững phương châm, nhiệm vụ hoạt động và xây dựng lực lượng vũ trang,
tăng cường công tác đô thị vùng yếu; xây dựng vùng giải phóng, căn cứ địa, đường
hành lang tiếp tế, phát triển sản xuất, từng bước xây dựng quan hệ sản xuất mới, tăng
cường công tác tư tưởng và phát động quần chúng nhận thức đúng tỡnh hỡnh mới để xác
định thái độ phấn khởi đi lên. Phải có tư tưởng tiến công, kiên trỡ quan điểm quần chúng
đúng đắn. Đề phũng tư tưởng thỏa món, dẫm chõn tại chỗ, hữu khuynh.
Sau Hội nghị, đầu tháng 8-1974, Trung ương Cục đó ra Chỉ thị nờu rừ: "phương
hướng nhiệm vụ và yêu cầu công tác cấp bách của ta trong 6 tháng cuối năm 1974 là: tiếp tục
đánh bại về cơ bản kế hoạch bỡnh định, lấn chiếm của địch, nhất là trên chiến trường đồng
bằng sông Cửu Long và vùng ven đô, cố gắng trong năm 1975 giải phóng và làm chủ 4 triệu
dân" [59, tr.1024].
Trung Nam Bộ (Khu VIII) là vị trí chiến lược quan trọng của chiến trường miền
Nam, tập trung nhiều căn cứ lớn của địch. Trong hai ngày 10 và 11-9-1974, Thường vụ
Trung ương Cục họp bàn với đại diện Khu VIII nhằm đề ra nhiệm vụ của Khu trong giai
đoạn tới.
Hội nghị đó nhất trớ nhận định: Khu VIII đó giành được nhiều thành tích trong
thời gian qua, nhưng với tiềm năng, sức mạnh như hiện tại, nếu cố gắng hơn, không ch
quan mà tập trung chỉ đạo thống nhất thỡ cú thể giành được thắng lợi to lớn hơn. "Tỡnh
hỡnh hiện nay đang phát triển rất nhanh, không phải tuần tự lấp ấp trắng rồi mới có thể
chuyển mạnh mà có triển vọng phát triển nhảy vọt, một số nơi khả năng chuyển n
giải phóng" [59, tr.1035].
có thể tạo ra bước ngoặt lớn cho cách mạng miền Nam.Trong khi đó, địch đang sa sút toàn diện cả về quân sự, kinh tế, chính trị [59, tr.973]. Về nhiệm vụ mùa mưa và mùa khô năm 1974-1975, Hội nghị xác định: phải tạo khả năng thắng lớn trong mùa khô 1974- 1975, tạo ra bước ngoặt có tính chất quyết định để chuyển phong trào lên nhằm đạt và có thể vượt chỉ tiêu năm 1975. Muốn vậy phải chuẩn bị tốt cho mùa mưa và mùa khô. Phải nổ lực lớn, khả năng, tốc độ phát triển tỡnh hỡnh sẽ cũn nhanh. Để thực hiện tốt nhiệm vụ trên, Hội nghị yêu cầu các Khu ủy, Tỉnh ủy kiểm điểm, rút kinh nghiệm, bổ sung kế hoạch mùa mưa, tập trung vào mùa khô 1974-1975, quán triệt tư tưởng tiến công trong giai đoạn tới. Hội nghị đó đề ra những nhiệm vụ sau: tiếp tục đánh thắng kế hoạch bỡnh định của địch, nắm vững phương châm, nhiệm vụ hoạt động và xây dựng lực lượng vũ trang, tăng cường công tác đô thị và vùng yếu; xây dựng vùng giải phóng, căn cứ địa, đường hành lang tiếp tế, phát triển sản xuất, từng bước xây dựng quan hệ sản xuất mới, tăng cường công tác tư tưởng và phát động quần chúng nhận thức đúng tỡnh hỡnh mới để xác định thái độ phấn khởi đi lên. Phải có tư tưởng tiến công, kiên trỡ quan điểm quần chúng đúng đắn. Đề phũng tư tưởng thỏa món, dẫm chõn tại chỗ, hữu khuynh. Sau Hội nghị, đầu tháng 8-1974, Trung ương Cục đó ra Chỉ thị nờu rừ: "phương hướng nhiệm vụ và yêu cầu công tác cấp bách của ta trong 6 tháng cuối năm 1974 là: tiếp tục đánh bại về cơ bản kế hoạch bỡnh định, lấn chiếm của địch, nhất là trên chiến trường đồng bằng sông Cửu Long và vùng ven đô, cố gắng trong năm 1975 giải phóng và làm chủ 4 triệu dân" [59, tr.1024]. Trung Nam Bộ (Khu VIII) là vị trí chiến lược quan trọng của chiến trường miền Nam, tập trung nhiều căn cứ lớn của địch. Trong hai ngày 10 và 11-9-1974, Thường vụ Trung ương Cục họp bàn với đại diện Khu VIII nhằm đề ra nhiệm vụ của Khu trong giai đoạn tới. Hội nghị đó nhất trớ nhận định: Khu VIII đó giành được nhiều thành tích trong thời gian qua, nhưng với tiềm năng, sức mạnh như hiện tại, nếu cố gắng hơn, không chủ quan mà tập trung chỉ đạo thống nhất thỡ cú thể giành được thắng lợi to lớn hơn. "Tỡnh hỡnh hiện nay đang phát triển rất nhanh, không phải tuần tự lấp ấp trắng rồi mới có thể chuyển mạnh mà có triển vọng phát triển nhảy vọt, một số nơi có khả năng chuyển lên giải phóng" [59, tr.1035].