LUẬN VĂN: Đảng bộ tỉnh Mỹ Tho lãnh đạo quân dân tiến công và nổi dậy giải phóng toàn tỉnh từ 1973 đến 1975
3,264
945
91
Thắng lợi căn bản của nhân dân dân ta là ở chỗ: Mỹ phải rút quân và cam kết
chấm dứt mọi sự dính líu quân sự vào miền Nam Việt Nam. Trong thời hạn 60 ngày
kể từ
ngày ký Hiệp định này, sẽ hoàn thành việc rút hoàn toàn ra khỏi miền Nam Việt
Nam
mọi quân đội, cố vấn quân sự và nhân viên quân sự liên quan đến chương trình
bình định,
vũ khí, đạn dược và dụng cụ chiến tranh của Hoa Kỳ và của các nước ngoài khác.
Thắng lợi căn bản của nhân dân ta là ở chỗ, theo quy định của Hiệp định Pari,
hơn nửa triệu quân Mỹ và đồng minh sẽ rút khỏi Việt Nam. Trong khi đó, 13 sư
đoàn chủ
lực cách mạng vẫn đứng vững ở các địa bàn chiến lược của miền Nam cùng hàng vạn
bộ
đội địa phương và dân quân du kích. Vùng giải phóng cũng không phân tuyến chia
vùng
với vùng ngụy quyền kiểm soát, mà giữ nguyên thực trạng trước khi ký Hiệp định,
tạo
thành thế da báo xen kẽ với địch. Đây chính là lợi thế lớn mà Hiệp định Pari đem
lại cho
lực lượng cách mạng và ngược lại, là bất lợi lớn nhất của ngụy quyền. Bởi vì lực
lượng
cách mạng vẫn giữ được thế trận và lực lượng của cuộc chiến tranh nhân dân, đồng
thời
giảm sút thực lực của Mỹ - ngụy, tạo nên chuyển biến lớn về so sánh lực lượng
giữa cách
mạng và ngụy quyền.
Lịch sử tiếp theo của cách mạng miền Nam chứng minh, khi quân Mỹ đã rút đi,
quân ngụy sẽ suy yếu và quân ta vẫn còn ở đó thì lực lượng so sánh đã thay đổi
căn bản,
tình thế cách mạng nhanh chóng chín muồi. Đây là tiền đề cơ bản cho việc giải
phóng
hoàn toàn miền Nam hơn hai năm sau.
Nhưng với bản chất hiếu chiến và phản động, đế quốc Mỹ vẫn trắng trợn vi phạm
các điều khoản của Hiệp định. Khi buộc phải rút quân ra khỏi miền Nam Việt Nam,
nhà
cầm quyền Hoa Kỳ vẫn nuôi ý đồ duy trỡ chế độ thực dân mới ở miền Nam bằng một
cuộc chiến tranh không có người Mỹ nhưng được tiến hành bằng tiền bạc và vũ khí
bom
đạn Mỹ.
Ngay từ đầu, Mỹ đó chủ trương vừa ký kết Hiệp định, vừa giỳp ngụy quyền Sài
Gũn tiếp tục chiến tranh, phỏ hoại Hiệp định. Trước khi rút quân, chúng đó gấp
rỳt đưa
vào miền Nam "625 máy bay các loại, 500 khẩu pháo, 400 xe tăng, xe bọc thép và
nhiều
tàu chiến, tăng dự trữ vật tư chiến tranh lên gần 2 triệu tấn" [25, tr.140].
Nhân dân Việt Nam cũng như nhân dân yêu chuộng hũa bỡnh và cụng lý trờn
toàn thế giới, kể cả nhõn dõn Mỹ đều mong muốn đế quốc Mỹ kết thúc cuộc chiến
tranh
lâu dài, gây nhiều đau khổ cho nhân dân hai nước. Khi buộc phải rút quân, Mỹ đó
khụng
hủy bỏ cỏc căn cứ quân sự ở miền Nam Việt Nam như quy định trong Điều 6 của Hiệp
định. Mỹ giao toàn bộ các căn cứ quân sự ấy cho quân đội Sài Gũn. Mỏy bay địch
không
chuyển về nước mà chuyển sang các căn cứ quân sự của Mỹ ở Guam, Thái Lan để sẳn
sàng chi viện cho quân đội Sài Gũn của Nguyễn Văn Thiệu ở miền Nam Việt Nam khi
cần.
Đồng thời với kế hoạch kinh tế hậu chiến tại miền Nam - tức là Mỹ chủ trương làm
cho nền kinh tế của ngụy quyền Sài Gũn hấp dẫn hơn so với nền kinh tế miền Bắc,
Mỹ- ngụy
thực hiện kế hoạch 3 năm (1973-1975) nhằm xóa “thế da báo” ở miền Nam, tiêu diệt
các lực
lượng vũ trang và lực lượng chính trị của cỏch mạng, xúa bỏ tỡnh trạng hai chớnh
quyền, hai
quõn đội và ba lực lượng hiện có. Những âm mưu và hành động đó nhằm biến miền
Nam
Việt Nam thành lónh thổ chỉ có một quân đội, một chính quyền tay của Mỹ.
Ngay sau ký Hiệp định, Mỹ tiếp tục viện trợ kinh tế và quân sự cho chính quyền
Thiệu. Năm 1973, Mỹ đưa thêm vào miền Nam "90 máy bay, 100 pháo và khối lượng
lớn
phương tiện chiến tranh" [58, tr.592]. Chúng quyết định các chủ trương về quân
sự, chính
trị, kinh tế và những vấn đề nhân sự của ngụy quyền Sài Gũn, kể cả việc thay đổi
những
người cầm đầu chính phủ và quân đội. Thực tế cho thấy cuộc chiến tranh ở miền
Nam
vẫn tiếp diễn sau khi Hiệp định Pari được ký kết, khụng phải là “nội chiến” như
Mỹ
tuyên truyền mà vẫn là cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ, tiến hành theo phương
thức
máy bay, bam đạn, xe tăng, đại bác Mỹ cộng với quân ngụy Sài Gòn Để xóa “thế da
báo”, dưới sự chỉ huy của bọn đầu sỏ, quõn ngụy liờn tiếp mở cỏc chiến dịch
“tràn ngập
lónh thổ”, gọi là kế hoạch “Lý Thường Kiệt”. Khoảng 60% quân ngụy đó được ném
vào
các cuộc hành quân này. Mục tiêu hàng đầu của Mỹ là lấn chiếm các vùng chiến
lược
quan trọng, lấn chiếm và bỡnh định được nâng lên thành quốc sách của Mỹ - ngụy.
Trong
năm 1973, “địch mở 325.255 cuộc hành quân lấn chiếm, hành quân cảnh sát, chiếm
lại
hầu hết các vùng ta mới giải phóng và một số vùng giải phóng từ trước” [58,
tr.593].
Ở tỉnh Mỹ Tho, Gũ Công và thành phố Mỹ Tho mặc dù ngụy quân, ngụy quyền
đang hoang mang lo sợ, nhưng “chúng vẫn ngoan cố tăng cường bắt lính đôn quân,
tập trung
quân chủ lực ở các nơi về, đưa quân số trong toàn Tỉnh lên trên 48.000 tên, tăng
hơn năm
1972 là 6.000 tên” [2, tr.83]. Âm mưu của kẻ thù là xây dựng lực lượng quân đội
lớn để
bỡnh định, lấn chiếm đồn bốt, xóa “thế da báo”; quyết tâm biến tỉnh Mỹ Tho, Gũ
Cụng
và thành phố Mỹ Tho thành nơi phũng thủ phớa nam Sài Gũn và làm bàn đạp tấn công
lực lượng cách mạng khắp vùng trọng điểm đồng bằng sông Cửu Long. Ngay sau Hiệp
định được công bố ngày 28-1-1973, bọn ngụy quân, ngụy quyền đồng loạt triển khai
nhiều chiến dịch như “tràn ngập lónh thổ”, “cắm cờ lấn đất giành dân”... Chúng
sử dụng
sư đoàn 7, 2 trung đoàn của sư đoàn 9, 28 tiểu đoàn bảo an cảnh sát, 2 đến 3 chi
đoàn xe
M 113…, tiến hành càn quét, bắn phá khắp các nơi trong Tỉnh. Địch chủ yếu tập
trung
lấn chiếm, chốt chặn các tuyến giao thông của ta như hai bên nam, bắc lộ 4, lộ
Đông Hũa,
cỏc tuyến kờnh Nguyễn Văn Tiếp A, B, sông Ba Rài, kênh Chợ Gạo... Chúng dùng lực
lượng bảo an, cảnh sát liên tục hành quân, lấn chiếm, đốt phá địa hỡnh, mở rộng
vựng
chỳng kiểm soỏt, xúa “thế da bỏo” ở chung quanh thành phố Mỹ Tho, ven lộ 4 và
cỏc thị
trấn khỏc.
Vừa lấn chiếm, chúng vừa bắt buộc nhân dân phải treo cờ ngụy lên mái nhà, xe
cộ, gốc cây... Mặt khác, chính quyền Sài Gòn cũn tập trung cỏc phương tiện thông
tin,
các loại cán bộ bỡnh định tâm lý chiến, tung tin, tuyên truyền xuyên tạc Hiệp
định, nói
xấu cách mạng, vu cáo ta vi phạm Hiệp định, tuyên truyền bao che hành động phá
hoại
Hiệp định và các chính sách phản động nhằm lừa mị, gây hoang mang trong quần
chúng.
Chính quyền tay sai Nguyễn Văn Thiệu đưa số sĩ quan ác ôn về xây dựng, củng cố
lại
ngụy quyền ở cơ sở, nắm các tổ chức phản động khác, củng cố lại hệ thống phũng
vệ dõn
sự, bọn mật vụ chỉ điểm...nhằm kỡm kẹp quần chỳng và tỏch quần chỳng ra khỏi ảnh
hưởng của Đảng. Trong khoảng thời gian này, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh
giải tán 26 đảng phái và các tổ chức chính trị không ăn cánh; ra lệnh bắn bỏ
những ai
“kêu gọi nhân dân biểu tỡnh, những ai gõy mất trật tự và hụ hào kẻ khỏc theo chủ
nghĩa
cộng sản”; bắn bất cứ ai bỏ ngũ, bắt và giam những người trung lập, những người
khuyến
khích kẻ khác gây rối loạn và hoang mang, mơ hồ; hoặc bỏ những vùng do chính phủ
Sài
Gòn kiểm soát chạy sang vùng do cộng sản kiểm soát, những ai đũi thi hành Hiệp
định và
những binh sĩ đào ngũ...
Có thể nói sau khi Hiệp định được ký kết, ở miền Tõy Nam Bộ núi chung, Mỹ
Tho núi riờng địch ngoan cố không thi hành những điều khoản đó cam kết của Hiệp
định
mà cũn gõy ra những cuộc xung đột vũ trang, những cuộc hành quân lấn đất, giành
dân.
Mục đích của chính quyền tay sai là tiếp tục tiến hành chiến tranh nhằm xóa bỏ
từng
bước thành quả cách mạng của nhõn dõn ta, duy trỡ chế độ thực dân mới, tiến tới
làm chủ
hoàn toàn miền Nam.
1.2. ĐảNg bộ tiếp tục quán triệt đường lối của Đảng, tích cực chuẩn bị lực
lượng quân sự, chính trị cho cuộc tổng tiến công và nổi dậy
1.2.1. Những thuận lợi và khó khăn mới
*Về mặt khó khăn
Mặc dù Hiệp định Pari được ký kết nhưng với bản chất hiếu chiến, ngoan cố Mỹ-
ngụy vẫn tiếp tục thực hiện chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” nhằm duy trỡ
sự thống
trị của chủ nghĩa thực dõn mới ở miền Nam Việt Nam. Hy vọng biến miền Nam thành
một
nước riêng biệt và một chế độ quốc gia thân Mỹ, quân ngụy được Mỹ tiếp tục viện
trợ về
mọi mặt: quân sự, tài chínoh, kinh tế tiến hành tấn công lấn chiếm hũng xúa bỏ
vựng giải
phúng và lực lượng vũ trang cách mạng, xóa bỏ chính quyền nhân dân. Để thực hiện
âm
mưu ấy, đế quốc Mỹ duy trỡ chớnh quyền tay sai Nguyễn Văn Thiệu, thực hiện chiến
lược
“ngăn đe thực tế”, lợi dụng mâu thuẫn trong phe xó hội chủ nghĩa, dựng những thủ
đoạn ngoại
giao, kinh tế và chính sách cân bằng lực lượng giữa các nước lớn để ngăn chặn sự
phát triển
của cách mạng miền Nam.
Sau khi Hiệp định Pari được ký kết, Hội nghị Thường vụ Trung ương Cục họp từ
ngày 9 đến ngày 10-3-1973, bàn phương hướng, nhiệm vụ đấu tranh của cách mạng
miền
Nam. Hội nghị thống nhất nhận định: tỡnh hỡnh miền Nam chưa ổn định và đang diễn
biến phức tạp. Cuộc chiến tranh hiện nay không cũn quyết liệt như trước đây
nhưng cũng
chưa có hũa bỡnh mặc dự Hiệp định đó được ký kết. Địch phá hoại Hiệp định rất
nghiêm
trọng và có hệ thống. Lực lượng vũ trang và quần chúng nhân dân đấu tranh buộc
địch
phải thi hành Hiệp định, trước mắt đũi chính quyền tay sai Nguyễn Văn Thiệu phải
thực
hiện ngừng bắn, đẩy lùi địch từng bước, tiến tới ổn định tỡnh hỡnh. Phải tớch
cực xõy
dựng, củng cố thật vững mạnh vựng giải phúng và căn cứ địa cách mạng, đẩy mạnh
phong trào đấu tranh ở các vùng đô thị và vùng nông thôn cũn tạm chiếm, khẩn
trương
xây dựng thực lực cách mạng nhất là lực lượng quân sự.
Hội nghị nhấn mạnh: nhiệm vụ cụ thể của cách mạng miền Nam trong giai đoạn
trước mắt là ngoài bạo lực vũ trang, chớnh trị cần phỏt huy tỏc dụng phỏp lý của
Hiệp
định, kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh chính trị với đấu tranh quân sự và pháp
lý; tựy tỡnh
hỡnh từng vựng, từng nơi mà lựa chọn, vận dụng phương châm, phương thức đấu
tranh
chính trị hay vũ trang cho thích hợp. Phải chống khuynh hướng chỉ dùng lực lượng
quân
sự, nhất là lực lượng quân sự đột nhập vùng địch đang kỡm kẹp nhõn dõn, nhưng
cũng
không phải chỉ có đấu tranh chính trị, mà phải có lực lượng vũ trang, lực lượng
du kích
mật ở mức cần thiết để diệt ác ôn và đưa phong trào đấu tranh lên cao. Ở vùng
giải phóng
cần tập trung lực lượng, củng cố quốc phũng, kinh tế, văn hóa, xó hội... để tạo
thế, tạo lực
vững mạnh, đủ sức tăng cường phối hợp với phong trào đô thị và vùng xung yếu,
đánh
sập cơ sở của địch ở tận sào huyệt.
Trước đó, ngày 3-2-1973, Hội nghị Thường vụ Khu ủy miền Tây Nam Bộ nhận
định âm mưu cơ bản của địch là bỡnh định, lấn chiếm, phá hoại Hiệp định Pari.
Hội nghị
nhất trí xác định nhiệm vụ của toàn Khu và đề nghị với Trung ương Cục và Trung
ương
Đảng, kiên quyết đánh trả; đẩy mạnh đấu tranh chính trị, tăng cường công tác
binh vận,
giữ vững thành quả cách mạng, đưa phong trào tiếp tục tiến lên.
Ngày 16-3-1973, Ban Thường vụ Trung ương Cục cũng nhận định tỡnh hỡnh cú
hai khả năng phát triển, hoặc địch chịu thi hành Hiệp định, hoặc chiến tranh sẽ
mở rộng.
Các địa phương cần dựa vào tỡnh hỡnh thực tế mà chuyển hướng đấu tranh cho phù
hợp.
Như vậy, sau khi Hiệp định Pari được ký kết khụng lõu, Ban chấp hành Trung
ương Đảng chưa cú nghị quyết chớnh thức về tỡnh hỡnh nhiệm vụ mới, song, Đảng
sớm
bắt mạch tỡnh hỡnh, nờn phương hướng hành động đối phó với hai khả năng phát
triển
của cuộc cách mạng miền Nam đó được phác thảo, con đường cách mạng bạo lực giải
phóng miền Nam vẫn được chú trọng.
Trong thực tế cách mạng nước ta ở miền Nam lúc đó, một bộ phận cán bộ chiến
sĩ và nhân dân cũn đặt hy vọng vào khả năng thi hành Hiệp định, vai trũ của Ủy
ban giỏm
sỏt và Kiểm soỏt quốc tế, Ủy ban quõn sự liờn hiệp, khả năng hũa giải hũa hợp
dõn tộc
và chính phủ liên hiệp ba thành phần. Có biểu hiện mệt mỏi, ảo tưởng hũa bỡnh,
mất
cảnh giỏc. Một số địa phương, đơn vị bị động, địch đánh nơi nào đối phó nơi đó.
Có nơi
rút bỏ các lừm giải phúng, tự mỡnh xúa “thế da bỏo”, rỳt cỏc đơn vị vũ trang vào
vùng
giải phóng. Đây là một khó khăn do khuyết điểm chủ quan của ta gây ra. Hội nghị
lần thứ
21 của Ban chấp hành Trung ương Đảng 1973 đó nhận định, hiện tượng trên là biểu
hiện
“lừng chừng, hữu khuynh trong việc đối phó với địch” [16,tr 230]. Hội nghị Bộ
chính trị
(10-1974) kết luận: "Địch thỡ vẫn ngoan cố phỏ hoại, chủ động tiến lờn cũn ta
thỡ cú
phần ảo tưởng, chờ đợi, thụ động, thậm chí có nơi rút lui” [15, tr.365]. Hội
nghị Bộ chính
trị (1-1975) nhận xét: lúc đầu một số nơi đó để cho địch lấn tới, vì vậy phong
trào cách
mạng lâm vào thế bị động. Sau cuộc tổng tiến công chiến lược năm 1972, những đơn
vị,
địa phương tổn thất về quân số, về tổ chức, về cơ sở vật chất chưa được bổ sung
củng cố
kịp thời.
Ảo tưởng hũa bỡnh xuất phỏt từ tõm lý chiến tranh kộo dài, muốn "xả hơi" sau
thắng lợi Hiệp định Pari cựng với tỡnh trạng buụng lỏng về tổ chức lực lượng làm
cho ta
không phát huy được khí thế chiến thắng của cách mạng khi Mỹ rút quân. Những tư
tưởng đó đã làm cho các lực lượng cách mạng đối phó không có hiệu quả với hành
động
lấn chiếm, bỡnh định của Mỹ-ngụy. Khó khăn trên bắt nguồn từ khuyết điểm của các
cấp
ủy Đảng chậm phát hiện âm mưu và chính sách gây chiến của địch. Tư tưởng chiến
lược tiến
công và quan điểm cách mạng bạo lực vỡ thế khụng được quán triệt. Kết quả là
trong những
tháng đầu năm 1973, địch đó lấn chiếm hầu hết vựng giải phúng mới và một số vựng
giải
phúng cũ bao gồm "khoảng 1.900 ấp, đóng thêm 1.774 bốt, kiểm soát hơn một triệu
dân"
[58, tr.605].
Những khó khăn của cách mạng miền Nam sau khi có Hiệp định Pari cũng là
những khó khăn của địa phương tỉnh Mỹ Tho. Kẻ thù vẫn ngoan cố tăng cường đôn
quân
bắt lính, tập trung quân chủ lực ở các nơi về. Chính quyền tay sai Nguyễn Văn
Thiệu
quyết tâm biến Mỹ Tho thành nơi phũng thủ phớa nam Sài Gũn và làm bàn đạp tấn
công
ta khắp vùng trọng điểm đồng bằng sông Cửu Long. Ngoài việc dùng sức mạnh quân
sự,
địch cũn dựng nhiều thủ đoạn về kinh tế thâm hiểm để nắm quần chúng. Ở vùng giải
phóng, bọn ngụy quân, ngụy quyền dùng pháo, bom Napan bắn phá đốt cháy làng mạc,
dùng xe M113 càn phá ruộng lúa, cướp bóc tài sản của nhân dân. Các huyện Cai
Lậy, Cái
Bè, Châu Thành bọn tay sai thường xuyên đốt phá nhà cửa, ngăn chặn không cho
quần
chúng về vùng giải phóng sản xuất. Đồng thời, ở một số xó ven lộ 4, thành phố Mỹ
Tho,
thị xó Gũ Cụng chỳng lại đưa điện, kỹ thuật, tín dụng về nông thôn; cho nông dân
vay
vốn, khuyến khích thâm canh tăng vụ, tăng năng suất nhằm lôi kéo nhân dân.
Vì vậy tỡnh hỡnh ở miền Nam sau khi Hiệp định Pari được ký kết, tuy buộc phải
rỳt quõn hết về nước và ngừng bắn phá, nhưng đế quốc Mỹ tiếp tục giúp đỡ và bao
che
cho quân đội Sài Gòn vi phạm Hiệp định một cách trắng trợn và có hệ thống. Vỡ
vậy
tỡnh hỡnh cỏch mạng miền Nam chưa ổn định và đó gặp khụng ớt khú khăn.
* Những thuận lợi cơ bản
Thành bại của cuộc cách mạng nói chung là do lực lượng so sánh quyết định.
Trong chiến tranh, thông thường mạnh thắng, yếu thua. Song nói mạnh, yếu là nói
theo
quan điểm cách mạng, quan điểm phát triển, là căn cứ vào sự đánh giá tổng hợp cả
quân
sự và chính trị, cả thế lực và thời cơ, cả điều kiện khách quan và nghệ thuật
lónh đạo; là
xem xét các yếu tố ấy trong quá trỡnh vận động, trong không gian và thời gian
xác định.
Không thể chỉ lấy số lượng quân đội, đơn vị, đồn bốt, số lượng vũ khí, trang bị
và
phương tiện chiến tranh để so sánh và đánh giá mạnh, yếu. Trong những năm 1965,
1966,
Mỹ đưa 20 vạn quân viễn chinh vào miền Nam; lực lượng cách mạng đó triển khai
vững
chắc, tạo thành một thế trận vững chắc trên khắp chiến trường Miền Nam. Vì vậy
Đảng ta
đánh giá thế và lực của Mỹ không mạnh. Thực tế cho thấy đội quân cách mạng vẫn
giữ
quyền chủ động và tiếp tục tiến công. Trong những năm 1968, số quân địch vượt
1.200.000 tên, Đảng chủ trương đánh vào Sài Gũn và cỏc thành thị khỏc, cỏc cơ
quan đầu
nóo, căn cứ, kho tàng, buộc chúng phải co về để giữ. Thắng lợi của những chủ
trương đó
thể hiện quan điểm đúng đắn của Đảng trong việc đánh giá, so sánh lực lượng.
So sánh lực lượng giữa ta và địch theo quan điểm đó, trước và sau Hiệp định
Pari, rừ ràng lực lượng cách mạng đó mạnh, đủ sức thắng Mỹ - ngụy. Khi cũn quõn
Mỹ
phong trào cách mạng đó thắng được như vậy, thỡ sau khi quõn Mỹ rỳt hết ta càng
mạnh
hơn và nhất định sẽ đánh thắng hoàn toàn quân ngụy. Chính vỡ lo ngại điều đó mà
bọn
cầm đầu Chính phủ Hoa Kỳ đó trỡ hoón nhiều lần việc ký kết Hiệp định, cố kéo dài
thời
gian để tuồn thêm vũ khí, đạn dược và viện trợ kinh tế vào miền Nam, tranh thủ
củng cố,
tăng cường lực lượng cho ngụy quân, ngụy quyền nhằm đối phó lại ta. Tỡnh hỡnh và
lực
lượng so sánh sau Hiệp định Pari lẽ ra phải phát triển theo lôgich đó. Nhưng năm
1973,
bọn ngụy đó giành được chủ động ở một số nơi trên chiến trường. Để cho địch làm
được
như thế là do ở những nơi ấy có một bộ phận cán bộ, chiến sĩ mắc phải sai lầm,
khuyết
điểm. Bọn ngụy quân, ngụy quyền thỡ vẫn ngoan cố phỏ hoại Hiệp định, chủ động
lấn
tới; cũn ta thỡ cú phần ảo tưởng, chờ đợi, thụ động, thậm chí có nơi rút lui.
Cuối năm
1973, đầu năm 1974, sau khi lực lượng quân sự, binh vận và quần chúng nhân dân
kiờn
quyết tiến cụng, phản cụng thỡ địch bộc lộ rừ những chỗ yếu. Quõn chủ lực ngụy
lỳc này
thế và sức cơ động yếu; vũ khí, đạn dược, phương tiện chiến tranh và dự trữ hậu
cần cũng
thiếu, tinh thần binh lính càng sa sút hơn. Quân địa phương ngụy tuy có hàng vạn
đồn
bốt, nhưng sức kỡm kẹp bị giảm sút, nhiều đơn vị không dám hành quân, bị quần
chúng
bao vây, và khi ta đánh thỡ bị tan ró từng mảng lớn. Nếu kể cả những khú khăn về
chính
trị, kinh tế, văn hóa, đời sống trong vùng địch kiểm soát, ở nông thôn cũng như
thành thị,
đặc biệt là thế yếu về chính trị của ngụy quyền do sự chống đối gay gắt của nhân
dân, do
mâu thuẫn nội bộ bọn tay sai và mâu thuẫn giữa tập đoàn Nguyễn Văn Thiệu với đế
quốc
Mỹ, thỡ sự suy yếu của địch là toàn diện.
Trong khi đó phong trào dân tộc, dân chủ ở châu Á, châu Phi và châu Mỹ La tinh
ngày càng phỏt triển mạnh mẽ. Chớnh phủ cỏch mạng lõm thời Cộng hũa miền Nam
Việt
Nam ngày càng cú uy tớn trờn trường thế giới. "Cho đến ngày 6-10-1973, Chính phủ
cách mạng lâm thời Cộng hũa miền Nam Việt Nam đó cú quan hệ ngoại giao với 34
nước
trên thế giới. Năm 1973 là năm có nhiều nước công nhận ta nhất so với các năm
trước
đó" [58, tr.610].
Vào thời điểm ấy, thế và lực của cách mạng miền Nam mạnh hơn bất cứ thời kỳ
nào từ sau 1954. Lực lượng vũ trang nhân dân đứng vững trên các địa bàn chiến
lược.
Vùng giải phóng miền Nam rộng lớn nối liền với miền Bắc xó hội chủ nghĩa, đỏnh
thụng
với cỏc vựng giải phúng Campuchia và Lào. Nhõn dõn vựng tạm chiếm bị kỡm kẹp vẫn
hướng về cách mạng. Miền Bắc đang khôi phục kinh tế, là chỗ dựa vững chắc cho
cách
mạng miền Nam. Chiến tranh đến giai đoạn kết thúc thỡ vai trũ của hậu phương
càng nổi
bật. Chúng ta chẳng những sẽ động viên những lực lượng quân sự, chính trị ở miền
Nam,
trong vùng giải phóng cũng như trong vùng địch tạm thời kiểm soát, mà cũn dốc
vào
cuộc chiến đấu quyết định này những binh đoàn chủ lực tinh nhuệ hùng mạnh, hầu
hết
lực lượng dự bị chiến lược và nguồn dự trữ dồi dào của miền Bắc.
Âm mưu bỡnh định, lấn chiếm của địch thất bại rừ rệt. Lực lượng cách mạng đó
giành quyền chủ động trên các chiến trường, trừng trị các cuộc hành quân lấn
chiếm của
địch, giành lại dân và những vùng bị mất, mở rộng vùng giải phóng. Ta đó củng cố
và
hoàn chỉnh thế chiến lược liên hoàn từ Bắc vào Nam, từ rừng núi Trị Thiên đến
Tây
Nguyên, miền Đông Nam Bộ và đồng bằng sụng Cửu Long. Vỡ thế quõn ngụy lựi dần
vào thế bị động, phũng ngự trờn cỏc chiến trường.
Ở miền Nam nói chung và ở tỉnh Mỹ Tho nói riêng, khí thế cách mạng đang sôi
sục trong các tầng lớp nhân dân, lực lượng cách mạng đang phát triển cả về số
lượng lẫn
chất lượng. Lực lượng vũ trang đang chiếm giữ những địa bàn quan trọng, lực
lượng chính
trị đang phát triển rộng khắp. Đảng bộ cũng như các cấp ủy cơ sở đó cú nhiều
kinh nghiệm
trong quỏ trỡnh lónh đạo, chỉ đạo chống phá các âm mưu bỡnh định, lấn chiếm của
địch.
Quõn dõn ở hai tỉnh Mỹ Tho và Gũ Cụng đó giành được quyền chủ động trong
đánh địch lấn chiếm và càn quét. Lực lượng vũ trang, chính trị đang đứng chân,
làm chủ
hầu hết ở các vùng nông thôn và các vùng ven lộ 4, thành phố Mỹ Tho. Đầu năm
1973,
tỉnh Mỹ Tho và Gũ Cụng cú “hơn 7000 đảng viên và 30.000 người trong các tổ chức
cách mạng” [2, tr.84].
Trải qua bao nhiêu năm đấu tranh gay go, gian khổ, cách mạng miền Nam, phong
trào cách mạng ở tỉnh Mỹ Tho mới tạo được bước chuyển biến quan trọng. Chưa bao
giờ
hai mặt đấu tranh quân sự, đấu tranh chính trị có điều kiện thuận lợi, có khả
năng kết lại
thành cao trào tiến công như hiện nay. Khi nổ ra đồng khởi trong những năm
1959-1960,
đội quân chính trị hùng hậu, đấu tranh chính trị mạnh mẽ nhưng lực lượng vũ
trang cỏch
mạng cũn nhỏ bộ và tiến cụng vũ trang cũn lẻ tẻ. Trong cỏc thời kỳ đánh trả
“chiến tranh
đặc biệt” và “chiến tranh cục bộ” của Mỹ, lực lượng vũ trang ngày càng lớn mạnh,
phong
trào đấu tranh chính trị tuy có phát triển nhưng không đều; do đó sự kết hợp
giữa tiến
công quân sự và chính trị chưa nhịp nhàng, đồng bộ. Tỡnh hỡnh hiện nay khỏc với
trước
rất nhiều. Mỹ đó thua liờn tiếp và phải rỳt quõn về nước, ngụy quõn, ngụy quyền
khụng
cũn chỗ dựa như trước. Trong khi đó bộ đội càng đánh càng hay, có mặt khắp chiến
trường miền Nam. Quần chúng nhân dân trong vùng địch đũi hỏi vựng dậy và cú khớ
thế
mới. Đây là những thuận lợi rất lớn, là thời cơ để Đảng ta lónh đạo nhân dân
giáng những
trận quyết định để kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, hoàn thành cuộc
cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, tiến tới thống nhất Tổ quốc.
1.2.2. Quán triệt đường lối, chủ trương của Đảng về giải phóng miền Nam
sau Hiệp định Pari (1973-1974)
Giữa thỏng 2-1973, Tỉnh ủy Mỹ Tho họp ở xó Long Tiờn, huyện Cai Lậy do
đồng chí lê Văn Phẩm (Chín Hải)-Bí thư Tỉnh ủy chủ trỡ. Trờn cơ sở quán triệt
chỉ thị
của Trung ương Đảng, Trung ương Cục về chủ trương đấu tranh chống địch vi phạm
Hiệp định Pari, Tỉnh ủy đó đánh giá tỡnh hỡnh và đề ra chủ trương là giáo dục,
tập hợp,
phát động phong trào đấu tranh chống địch vi phạm Hiệp định, giữ thế bố trí lực
lượng,
đánh trả bọn lấn chiếm, giành lại các xó vựng nụng thụn nằm sâu trong vùng địch
chiếm,
bảo đảm yêu cầu giữ vững và mở rộng vùng giải phóng như trước khi Hiệp định công
bố.
Phương châm là kết hợp hai chân, ba mũi tiến công khắp trên ba vùng, đưa lực
lượng vũ
trang luồn sâu đánh vào sào huyệt chỉ huy của địch ở thành phố Mỹ Tho và các
huyện lỵ,
cùng đồng loạt với đánh địch ở nông thôn, khắc phục tư tưởng “tả”, hữu khuynh
trong
Đảng bộ. Tăng cường phát triển lực lượng cách mạng, phát triển Đảng, củng cố
nâng chất
lượng các tổ chức cách mạng và các chi bộ cơ sở. Tỉnh lấy móng 2 huyện Cai Lậy
Nam
làm điểm chỉ đạo. Điểm chỉ đạo của huyện Cai Lậy Nam là tuyến sông Ba Rài, của
Cai
Lậy Bắc là móng 3, huyện Cỏi Bố là lộ 20, huyện Chõu Thành Nam là vựng 20-7,
huyện
Chõu Thành Bắc là đông tây kênh Nguyễn Tấn Thành, huyện Chợ Gạo là các xó Phỳ
Kiết, Mỹ Tịnh An, Trung Hũa, Đăng Hưng Phước, Thanh Bỡnh, Lương Hũa Lạc. Tỉnh
cũn lấy 31 xó trờn lộ 4 (quốc lộ 1A hiện nay) làm điểm tập trung tuyên truyền
Hiệp định.
Để tăng cường chỉ đạo trong tỡnh hỡnh mới, Quõn khu quyết định thành lập Bộ
chỉ huy tiền phương J.10 phụ trách nam, bắc lộ 4 (Mỹ Tho) và J25 phụ trỏch móng
4 Cai
Lậy Bắc, Bắc Cỏi Bè. Đêm 2-3-1973, toàn Khu bước vào cao điểm tháng 3 đánh địch
lấn
chiếm, giữ vững và mở rộng vùng giải phóng. Ngày 4-3, Trung đoàn 1 và Trung đoàn
3 đánh
qụy tiểu đoàn 2/12, diệt hai đại đội ở xó Long Tiờn, hỳt phần lớn lực lượng chủ
lực của địch
sang vùng 20-7. Ngày 5-3, Trung đoàn 1, Sư đoàn 5 và Tiểu đoàn 2009B uy hiếp căn
cứ
chùa Phật Đá, đồn chùa Thầy Thắng, cầu Sáu Trứ. Ngày 6-3, Tiểu đoàn 2009B và một
Đại
đội của Tiểu đoàn 514C phục kích diệt hai đại đội của tiểu đoàn 3/10 tại kênh Óc
Lăng, xó
Mỹ Phước, huyện Châu Thành Bắc. Ngày 7-3, Tiểu đoàn 514C dùng hỏa lực bắn rơi
một
trực thăng địch, bắn hỏng một chiếc khác, diệt và làm bị thương 19 tên của tiểu
đoàn 3/10
trong lúc trực thăng địch đến bốc tiểu đoàn này ở xó Long Định [11, tr.293].
Từ ngày 8 đến ngày 10-3, Trung đoàn 1 Sư đoàn 5 đánh thiệt hại tiểu đoàn 2/10
và 3/12 tại kênh Cũ, chùa Phật Đá, Tiểu đoàn 514C bắn hỏng một tàu trên kênh
Nguyễn