LUẬN VĂN: Đảng bộ tỉnh Hải Dương lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa từ 1997 đến 2004

2,842
130
98
- Khẩn trương chuẩn bị cơ sở vật chất, đội ngũ giáo viên để thành lập Trường
Trung học nông nghiệp của tỉnh, đáp ứng nhu cầu bồi dưỡng và đào tạo cán bộ quản lý,
kinh tế, kỹ thuật trong nông nghiệp nông thôn.
Huy động và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư cho sản xuất nông nghiệp và phát
triển kinh tế nông thôn
- Bằng mọi biện pháp tăng thu, tạo nguồn thu mới, sắp xếp lại đối tượng chi để
tăng chi đầu tư cho cơ sở vật chất từ ngân sách nông nghiệp. Năm 1998 và những năm
sau, vốn ngân sách tập trung cho đê điều, kè, cống khu vực trọng điểm, công trình điện,
đường giao thông, trạm bơm tiêu; vốn tín dụng tập trung cho dự án công nghiệp lớn của
tỉnh, phát triển công nghiệp và dịch vụ nông thôn, trong đó ưu tiên cho những xã nghèo,
vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó khăn.
- Các huyện, thành phố soát và đánh giá đúng những xã, thị trấn, phường còn
nợ vốn xây dựng cơ sở hạ tầng trong một số năm gần đây, có phương án cụ thể hoàn trả
vốn vay dứt điểm trong 2 năm 1998 - 1999.
- Các ban, ngành trong tỉnh mở rộng hoạt động nắm bắt thông tin kịp thời, nhanh
chóng tiếp cận để thu hút nhiều vốn đầu cho nông nghiệp nông thôn, đặc biệt
các chương trình, dự án tạo việc làm, xoá đói giảm nghèo, phục hồi nông nghiệp, giao
thông, giáo dục, y tế, dân số nông thôn, hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ của Chính phủ
và tổ chức quốc tế.
- Các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng theo chức năng nhiệm vụ của
mình vừa tranh thủ tối đa, vừa giải ngân nhanh các nguồn vốn trong và ngoài nước, các
dự án quốc gia hỗ trợ nông dân phát triển sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn.
- Tạo điều kiện thuận lợi về cơ chế, chính sách và thủ tục đầu tư để khuyến khích
các tổ chức, cá nhân trong và ngoài tỉnh có nguyện vọng đầu tư phát triển sản xuất, dịch
vụ để khai thác tiềm năng trong nông thôn.
Tiếp tục hoàn thiện cơ shạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp nông thôn,
khuyến khích các thành phần kinh tế, tham gia các hoạt động đầu tham gia các hoạt
động dịch vụ phục vụ sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Tăng đầu tư và hỗ trợ
đầu tư để hệ thống các doanh nghiệp nhà nước phải vươn lên giữ vai trò chủ công, đảm
đương việc khảo nghiệm và nhân giống một số cây, con chủ yếu như: lúa, màu, cây awn
quả, cá, lợn, bò ... dịch vụ làm đất, thuỷ nông, sửa chữa công cụ sản xuất, cung ứng vật
tư nông nghiệp, thuốc bảo vệ cây trồng, vật nuôi...
- Khẩn trương chuẩn bị cơ sở vật chất, đội ngũ giáo viên để thành lập Trường Trung học nông nghiệp của tỉnh, đáp ứng nhu cầu bồi dưỡng và đào tạo cán bộ quản lý, kinh tế, kỹ thuật trong nông nghiệp nông thôn. Huy động và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư cho sản xuất nông nghiệp và phát triển kinh tế nông thôn - Bằng mọi biện pháp tăng thu, tạo nguồn thu mới, sắp xếp lại đối tượng chi để tăng chi đầu tư cho cơ sở vật chất từ ngân sách nông nghiệp. Năm 1998 và những năm sau, vốn ngân sách tập trung cho đê điều, kè, cống khu vực trọng điểm, công trình điện, đường giao thông, trạm bơm tiêu; vốn tín dụng tập trung cho dự án công nghiệp lớn của tỉnh, phát triển công nghiệp và dịch vụ nông thôn, trong đó ưu tiên cho những xã nghèo, vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó khăn. - Các huyện, thành phố rà soát và đánh giá đúng những xã, thị trấn, phường còn nợ vốn xây dựng cơ sở hạ tầng trong một số năm gần đây, có phương án cụ thể hoàn trả vốn vay dứt điểm trong 2 năm 1998 - 1999. - Các ban, ngành trong tỉnh mở rộng hoạt động nắm bắt thông tin kịp thời, nhanh chóng tiếp cận để thu hút nhiều vốn đầu tư cho nông nghiệp và nông thôn, đặc biệt là các chương trình, dự án tạo việc làm, xoá đói giảm nghèo, phục hồi nông nghiệp, giao thông, giáo dục, y tế, dân số nông thôn, hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ của Chính phủ và tổ chức quốc tế. - Các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng theo chức năng nhiệm vụ của mình vừa tranh thủ tối đa, vừa giải ngân nhanh các nguồn vốn trong và ngoài nước, các dự án quốc gia hỗ trợ nông dân phát triển sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn. - Tạo điều kiện thuận lợi về cơ chế, chính sách và thủ tục đầu tư để khuyến khích các tổ chức, cá nhân trong và ngoài tỉnh có nguyện vọng đầu tư phát triển sản xuất, dịch vụ để khai thác tiềm năng trong nông thôn. Tiếp tục hoàn thiện cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp và nông thôn, khuyến khích các thành phần kinh tế, tham gia các hoạt động đầu tư tham gia các hoạt động dịch vụ phục vụ sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Tăng đầu tư và hỗ trợ đầu tư để hệ thống các doanh nghiệp nhà nước phải vươn lên giữ vai trò chủ công, đảm đương việc khảo nghiệm và nhân giống một số cây, con chủ yếu như: lúa, màu, cây awn quả, cá, lợn, bò ... dịch vụ làm đất, thuỷ nông, sửa chữa công cụ sản xuất, cung ứng vật tư nông nghiệp, thuốc bảo vệ cây trồng, vật nuôi...
- Sắp xếp lại, đổi mới cơ chế quản lý gắn với tăng đầu tư cho hệ thống cơ sở như: lúa,
màu, giống cá, gia cầm, giống rau quả để đủ sức tiếp nhận giống mới, khảo nghiệm và lựa chọn
những giống thích hợp với địa phương, nhân giống nguyên chủng, giống cấp I và các loại cao
sản, chất lượng cao cung ứng chong dân.
- Chú trọng đầu tư phục hồi, nâng cấp và phát triển mới thích hợp máy móc, thiết
bị cho Công ty cơ điện nông nghiệp cùng với khuyến khích tổ chức cá nhân đầu tư mua
sắm máy kéo để nâng tỷ lệ cơ giới hoá khâu làm đất đạt 70% vào năm 2000. Ngoài
nguồn vốn tự có, các ngân hàng thương mại cần có cơ chế về vốn vay trung và dài hạn
để hỗ trợ tổ chức, cá nhân có thể mua được máy kéo và máy công tác khác nhằm phục
vụ sản xuất nông nghiệp. Tăng đầu 10 trạm máy kéo cấp huyện để đủ năng lực bảo
trì, sửa chữa máy kéo, máy làm đất và máy móc thiết bị khác ở nông thôn.
- Tổ chức thành hệ thống mạng lưới cung ứng vật tư nông nghiệp từ tỉnh đến các
huyện, và cụm dân cư, trọng tâm là phân bón, thuốc phòng trừ sâu bệnh cho cây
trồng, vật nuôi. Công ty nhà nước tập trung khai thác nguồn hàng và bán buôn là chính,
mở rộng các đại lý bán lẻ, đảm bảo ổn định về giá cả, chất lượng vật tư.
- Để chủ động và tăng cường khả năng tiêu úng, trong ba năm tới cần xây dựng
mới 10 trạm bơm tiêu cho các vùng tưới, tiêu còn gặp nhiều khó khăn. Nạo vét, khơi
thông các vật cản kênh chính, bảo đảm cấp nước nguồn thuận tiện tiêu thoát nước
nhanh. Từng bước thực hiện kiên cố hoá kênh cấp I đến kênh cấp III bằng vật liệu cứng
theo phương án kênh hở. Ngân sách đầu tư kênh chính và kênh cấp I, Công ty khai thác
công trình thuỷ lợi, ngân sách huyện, thành phố và dân vùng hưởng lợi đầu tư kênh cấp
II, HTX và dân vùng hưởng lợi đầu tư kênh cấp III.
- Thực hiện chủ trương của Nhà nước giao cho ngành điện từng bước tiếp nhận,
quản lý lưới điện nông thôn và bán điện trực tiếp đến hộ dân, các cấp uỷ Đảng và chính
quyền các xã, thị trấn phối hợp chặt chẽ tạo điều kiện thuận lợi để điện lực Hải
Dương hoàn thành chương trình này vào năm 2000, từng bước giảm giá bán điện cho
nông dân. Trước mắt năm 1998 thực hiện thí điểm ngay việc bán điện đến hộ dân ở 3
xã, điện lực Hải Dương tiếp nhận quản lý, bảo trì sửa chữa đường dây và trạm cao
thế do tập thể và dân bỏ vốn đầu tư, kế hoạch và ưu tiên mua lại công trình ở những xã
còn đang nợ vốn đầu lớn, triển khai việc tách riêng điện sinh hoạt và điện phục v
sản xuất kinh doanh.
- Sắp xếp lại, đổi mới cơ chế quản lý gắn với tăng đầu tư cho hệ thống cơ sở như: lúa, màu, giống cá, gia cầm, giống rau quả để đủ sức tiếp nhận giống mới, khảo nghiệm và lựa chọn những giống thích hợp với địa phương, nhân giống nguyên chủng, giống cấp I và các loại cao sản, chất lượng cao cung ứng cho nông dân. - Chú trọng đầu tư phục hồi, nâng cấp và phát triển mới thích hợp máy móc, thiết bị cho Công ty cơ điện nông nghiệp cùng với khuyến khích tổ chức cá nhân đầu tư mua sắm máy kéo để nâng tỷ lệ cơ giới hoá khâu làm đất đạt 70% vào năm 2000. Ngoài nguồn vốn tự có, các ngân hàng thương mại cần có cơ chế về vốn vay trung và dài hạn để hỗ trợ tổ chức, cá nhân có thể mua được máy kéo và máy công tác khác nhằm phục vụ sản xuất nông nghiệp. Tăng đầu tư 10 trạm máy kéo cấp huyện để đủ năng lực bảo trì, sửa chữa máy kéo, máy làm đất và máy móc thiết bị khác ở nông thôn. - Tổ chức thành hệ thống mạng lưới cung ứng vật tư nông nghiệp từ tỉnh đến các huyện, xã và cụm dân cư, trọng tâm là phân bón, thuốc phòng trừ sâu bệnh cho cây trồng, vật nuôi. Công ty nhà nước tập trung khai thác nguồn hàng và bán buôn là chính, mở rộng các đại lý bán lẻ, đảm bảo ổn định về giá cả, chất lượng vật tư. - Để chủ động và tăng cường khả năng tiêu úng, trong ba năm tới cần xây dựng mới 10 trạm bơm tiêu cho các vùng tưới, tiêu còn gặp nhiều khó khăn. Nạo vét, khơi thông các vật cản kênh chính, bảo đảm cấp nước nguồn thuận tiện và tiêu thoát nước nhanh. Từng bước thực hiện kiên cố hoá kênh cấp I đến kênh cấp III bằng vật liệu cứng theo phương án kênh hở. Ngân sách đầu tư kênh chính và kênh cấp I, Công ty khai thác công trình thuỷ lợi, ngân sách huyện, thành phố và dân vùng hưởng lợi đầu tư kênh cấp II, HTX và dân vùng hưởng lợi đầu tư kênh cấp III. - Thực hiện chủ trương của Nhà nước giao cho ngành điện từng bước tiếp nhận, quản lý lưới điện nông thôn và bán điện trực tiếp đến hộ dân, các cấp uỷ Đảng và chính quyền các xã, thị trấn phối hợp chặt chẽ và tạo điều kiện thuận lợi để điện lực Hải Dương hoàn thành chương trình này vào năm 2000, từng bước giảm giá bán điện cho nông dân. Trước mắt năm 1998 thực hiện thí điểm ngay việc bán điện đến hộ dân ở 3 xã, điện lực Hải Dương tiếp nhận quản lý, bảo trì và sửa chữa đường dây và trạm cao thế do tập thể và dân bỏ vốn đầu tư, kế hoạch và ưu tiên mua lại công trình ở những xã còn đang nợ vốn đầu tư lớn, triển khai việc tách riêng điện sinh hoạt và điện phục vụ sản xuất kinh doanh.
- Tiếp tục thực hiện phương châm "Nhà nước và nhân dân cùng làm", huy động
nhiều nguồn vốn, bằng nhiều hình thức để từ nay đến năm 2000 xây dựn trên 400 km đường
bằng bê tông, đá nhựa, vỉa gạch nghiêng, trên 1.070km đường cấp phối, đá dăm, gạch vỡ,
xỉ lò, xây dựng lại một số cầu cống xuống cấp năng trên các tuyến đường chính, cải tạo
đường giao thông nội đồng.
- Phấn đấu đến năm 2000 có 70% số phòng học tiểu học và trung học cơ sở được
xây dựng kiên cố. Nhà nước hỗ trợ 8 -10 triệu đồng/ 1 phòng học các xã nghèo, 4 -5
triệu đồng/ 1 phòng học ở các xã còn lại.
- Đầu tư nâng cấp và tăng thêm trang thiết bị cho bệnh viện, trạm xá xã, gắn yêu
cầu khám chữa bệnh với thực hiện chương trình kế hoạch hoá gia đình ở cơ sở.
- Huy động nhiều nguồn vốn bằng nhiều biện pháp để tăng nhanh số dân được
dùng nước hợp vệ sinh. Trong 3 năm (1998 - 2000) đầu tư xây dựng 18 công trình cấp
nước sinh hoạt vừa nhỏ, xây mới 36.295 giếng khơi, 2.200 giếng khoan dùng bơm
tay, phát triển đa dạng bể chứa nước mưa, nhất là những nơi chất lượng nước ngầm,
nước giếng khơi xấu.
- Phấn đấu mỗi xã, thị trấn đều có khu trung tâm thể thao, văn hóa, mỗi thôn, mỗi
làng có 1 điểm vui chơi thể thao, ít nhất 1 làng đăng ký trở thành làng văn hóa, trong đó
50% số làng được công nhận là làng văn hóa.
Mở rộng thị trường tiêu thụ nông sản, thực phẩm: Coi trọng khai thác thị trường
trong tỉnh với sức mua của gần 2 triệu người, mở rộng thị trường tiêu thụ các tỉnh,
thành phố trong nước. Xoá bỏ triệt để mọi rào cản trái pháp luật để nông sản đưa vào
tiêu thụ dễ dàng các khu công nghiệp, thành phố lớn đưa ra tỉnh ngoài. Khuyến
khích các tổ chức hoạt động dịch vthông tin, vấn, tiếp thị, dự báo thị trường cho
người sản xuất, kinh doanh.
Đối với một số nông sản chủ lực thể tham gia xuất khẩu gạo, thịt lợn, lợn
sữa, thịt gia cầm, dưa chuột....Doanh nghiệp nhà nước cần chú trọng các hoạt động tiếp
thị mở rộng thị trường, phát triển cơ sở chế biến nông sản thực phẩm. Trước mắt đầu tư
nâng cấp sở sản xuất của công ty chế biến nông sản thực phẩm xuất khẩu đạt công
suất 3.000 - 4.000 tấn/sp/năm vào năm 2000, tận dụng công suất và thúc đẩy xây dựng
các cơ sở mới chế biến nông sản mới như: Dưa chuột, cà chua. rau quả tuơi để đạt sản
lượng 20.000 - 25.000 tấn/sp/năm... tạo điều kiện thuận lợi để các dự án có vốn đầu tư
- Tiếp tục thực hiện phương châm "Nhà nước và nhân dân cùng làm", huy động nhiều nguồn vốn, bằng nhiều hình thức để từ nay đến năm 2000 xây dựn trên 400 km đường bằng bê tông, đá nhựa, vỉa gạch nghiêng, trên 1.070km đường cấp phối, đá dăm, gạch vỡ, xỉ lò, xây dựng lại một số cầu cống xuống cấp năng trên các tuyến đường chính, cải tạo đường giao thông nội đồng. - Phấn đấu đến năm 2000 có 70% số phòng học tiểu học và trung học cơ sở được xây dựng kiên cố. Nhà nước hỗ trợ 8 -10 triệu đồng/ 1 phòng học ở các xã nghèo, 4 -5 triệu đồng/ 1 phòng học ở các xã còn lại. - Đầu tư nâng cấp và tăng thêm trang thiết bị cho bệnh viện, trạm xá xã, gắn yêu cầu khám chữa bệnh với thực hiện chương trình kế hoạch hoá gia đình ở cơ sở. - Huy động nhiều nguồn vốn bằng nhiều biện pháp để tăng nhanh số dân được dùng nước hợp vệ sinh. Trong 3 năm (1998 - 2000) đầu tư xây dựng 18 công trình cấp nước sinh hoạt vừa và nhỏ, xây mới 36.295 giếng khơi, 2.200 giếng khoan dùng bơm tay, phát triển đa dạng bể chứa nước mưa, nhất là ở những nơi chất lượng nước ngầm, nước giếng khơi xấu. - Phấn đấu mỗi xã, thị trấn đều có khu trung tâm thể thao, văn hóa, mỗi thôn, mỗi làng có 1 điểm vui chơi thể thao, ít nhất 1 làng đăng ký trở thành làng văn hóa, trong đó 50% số làng được công nhận là làng văn hóa. Mở rộng thị trường tiêu thụ nông sản, thực phẩm: Coi trọng khai thác thị trường trong tỉnh với sức mua của gần 2 triệu người, mở rộng thị trường tiêu thụ ở các tỉnh, thành phố trong nước. Xoá bỏ triệt để mọi rào cản trái pháp luật để nông sản đưa vào tiêu thụ dễ dàng ở các khu công nghiệp, thành phố lớn và đưa ra tỉnh ngoài. Khuyến khích các tổ chức hoạt động dịch vụ thông tin, tư vấn, tiếp thị, dự báo thị trường cho người sản xuất, kinh doanh. Đối với một số nông sản chủ lực có thể tham gia xuất khẩu là gạo, thịt lợn, lợn sữa, thịt gia cầm, dưa chuột....Doanh nghiệp nhà nước cần chú trọng các hoạt động tiếp thị mở rộng thị trường, phát triển cơ sở chế biến nông sản thực phẩm. Trước mắt đầu tư nâng cấp cơ sở sản xuất của công ty chế biến nông sản thực phẩm xuất khẩu đạt công suất 3.000 - 4.000 tấn/sp/năm vào năm 2000, tận dụng công suất và thúc đẩy xây dựng các cơ sở mới chế biến nông sản mới như: Dưa chuột, cà chua. rau quả tuơi để đạt sản lượng 20.000 - 25.000 tấn/sp/năm... tạo điều kiện thuận lợi để các dự án có vốn đầu tư
trực tiếp của nước ngoài đã được cấp giấy phép như nước quả Hải Chung, Nhà máy
thực phẩm Vạn Đắc Phúc, thức ăn chăn nuôi Hoa Kỳ... sớm đi vào sản xuất. Tích cực
chuẩn bị một số dự án chủ động tiếp cận với các nhà đầu tập trung các lĩnh vực
bảo quản chế biến nông sản, rau quả, thực phẩm phục vụ xuất khẩu.
Để đảm bảo ổn định nguyên liệu cho các các cơ sở chế biến nông sản, nguồn hàng
cho xuất khẩu lợi ích hợp lý giữa các khâu sản xuất nông sản, chế biến và tiêu thụ,
các doanh nghiệp các hộ nông dân, HTX cần thiết lập mối quan hệ bền vững thông
qua việc ký kết thực hiện nghiêm chỉnh các hợp đồng kinh tế sản xuất, thu mua
nông sản, hình thành các quỹ hỗ trợ rủi ro trong sản xuất.
Tiếp tục củng cố phát triển kinh tế hợp tác HTX: Những năm qua kinh tế hộ
phát triển đã góp phần đáng kể vào sự nghiệp phát triển kinh tế chung. Tiếp tục khẳng
định phát huy mạnh mẽ hơn nữa vai trò của kinh tế tự chủ. Tổng kết rút ra kinh
nghiệm của những mô hình kinh tế của những hộ tiêu biểu để nhân rộng. Khuyến khích
các hình thức hợp tác liên hộ từ thấp đến cao trong các lĩnh vực ở nông thôn. soát,
phân loại các loại hình HTX, xác định rõ những yếu kém để có biện pháp, bước đi củng
cố phát triển thích hợp. Hoàn thành việc chuyển đổi các HTX theo luật HTX. Quá trình
chuyển đổi và xây dựng các HTX phải đảm bảo nguyên tắc tự nguyện, dân chủ. Chú ý
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý HTX, hướng dẫn công tác hạch toán, phân phối trong
các HTX, thiết lập quan hệ tín dụng giữa các tổ chức tín dụng nhà nước với HTX.
Tạo điều kiện thuận lợi để tư nhân bỏ vốn đầu tư mở rộng và thành lập mới cơ sở
sản xuất kinh doanh theo Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân bằng cải tiến thủ
tục thành lập đăng kinh doanh, cho thmặt bằng sản xuất, vay vốn, góp vốn đầu
tư...
Cụ thể hóa pháp luật bằng các quy định đảm bảo cho các thành phần kinh tế cạnh
tranh bình đẳng. Đổi mới thủ tục quy định rõ về chế độ kiểm tra, thanh tra, chống phiền
hà, sách nhiễu, đi đôi với xử lý nghiêm minh các hoạt động kinh doanh trái pháp luật
gian lận thương mại. Khuyến khích thành lập các câu lạc bộ ngành nghề, hội nghề
nghiệp để tăng cường thông tin, trao đổi tạo mối quan hệ hợp tác, liên kết với các
loại hình doanh nghiệp.
1.2.2.3. Quá trình thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp giai đoạn
từ 1997 - 2000
trực tiếp của nước ngoài đã được cấp giấy phép như nước quả Hải Chung, Nhà máy thực phẩm Vạn Đắc Phúc, thức ăn chăn nuôi Hoa Kỳ... sớm đi vào sản xuất. Tích cực chuẩn bị một số dự án và chủ động tiếp cận với các nhà đầu tư tập trung các lĩnh vực bảo quản chế biến nông sản, rau quả, thực phẩm phục vụ xuất khẩu. Để đảm bảo ổn định nguyên liệu cho các các cơ sở chế biến nông sản, nguồn hàng cho xuất khẩu và lợi ích hợp lý giữa các khâu sản xuất nông sản, chế biến và tiêu thụ, các doanh nghiệp và các hộ nông dân, HTX cần thiết lập mối quan hệ bền vững thông qua việc ký kết và thực hiện nghiêm chỉnh các hợp đồng kinh tế và sản xuất, thu mua nông sản, hình thành các quỹ hỗ trợ rủi ro trong sản xuất. Tiếp tục củng cố phát triển kinh tế hợp tác và HTX: Những năm qua kinh tế hộ phát triển đã góp phần đáng kể vào sự nghiệp phát triển kinh tế chung. Tiếp tục khẳng định và phát huy mạnh mẽ hơn nữa vai trò của kinh tế tự chủ. Tổng kết rút ra kinh nghiệm của những mô hình kinh tế của những hộ tiêu biểu để nhân rộng. Khuyến khích các hình thức hợp tác liên hộ từ thấp đến cao trong các lĩnh vực ở nông thôn. Rà soát, phân loại các loại hình HTX, xác định rõ những yếu kém để có biện pháp, bước đi củng cố phát triển thích hợp. Hoàn thành việc chuyển đổi các HTX theo luật HTX. Quá trình chuyển đổi và xây dựng các HTX phải đảm bảo nguyên tắc tự nguyện, dân chủ. Chú ý đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý HTX, hướng dẫn công tác hạch toán, phân phối trong các HTX, thiết lập quan hệ tín dụng giữa các tổ chức tín dụng nhà nước với HTX. Tạo điều kiện thuận lợi để tư nhân bỏ vốn đầu tư mở rộng và thành lập mới cơ sở sản xuất kinh doanh theo Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân bằng cải tiến thủ tục thành lập đăng ký kinh doanh, cho thuê mặt bằng sản xuất, vay vốn, góp vốn đầu tư... Cụ thể hóa pháp luật bằng các quy định đảm bảo cho các thành phần kinh tế cạnh tranh bình đẳng. Đổi mới thủ tục quy định rõ về chế độ kiểm tra, thanh tra, chống phiền hà, sách nhiễu, đi đôi với xử lý nghiêm minh các hoạt động kinh doanh trái pháp luật và gian lận thương mại. Khuyến khích thành lập các câu lạc bộ ngành nghề, hội nghề nghiệp để tăng cường thông tin, trao đổi và tạo mối quan hệ hợp tác, liên kết với các loại hình doanh nghiệp. 1.2.2.3. Quá trình thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp giai đoạn từ 1997 - 2000
Tỉnh uỷ đã đề ra một số chính sách ưu đãi đối với nông nghiệp, được các cấp
chính quyền tích cực hưởng ứng, thực hiện, tạo khí thế sôi nổi trong nông nghiệp, nông
thôn như:
- Chính sách trợ giá giống cây, con: Nghị quyết đã nêu rõ "Hỗ trợ 50% giá đối với
giống cây, con mới. Trong kế hoạch của tỉnh đối với hộ áp dụng lần đầu, tiếp tục thực
hiện hỗ trợ chi phí phối giống, thụ tinh giống bò ngoại và lợn nái ngoại".
- Chính sách trợ giá thuốc phòng cho đàn gia súc: "Hỗ trợ 50% tiền thuốc tiêm
phòng, đối với các hộ nông dân tiêm phòng định kỳ cho trâu, bò, lợn. Riêng đối với các
hộ thuộc diện nghèo hỗ trợ 100% đối với việc tiêm phòng dịch bệnh phát sinh, ngân
sách hỗ trợ 100% tiền thuốc".
- Chính sách miễn giảm thuỷ lợi phí "Thực hiện giảm 30% tiền nước tạo nguồn,
trong đó miễn 100% đối với cây vụ đông", mỗi năm ngân sách tỉnh chi cho việc miễn
giảm này từ 8 - 9 tỷ đồng.
Tỉnh uỷ giao nhiệm vụ cho ngành nông nghiệp, công nghiệp, giao thông, lao động -
thương binh xã hội xây dựng các dự án liên quan đến phát triển nông nghiệp như: Dự án
chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi nhằm đạt giá trị sản xuất 36 triệu đồng/1ha đất nông
nghiệp vào năm 2005; Dự án hướng dẫn nông dân chuyển đổi ruộng đất từ ô thửa nhỏ
thành ô thửa lớn; Dự án phát triển chăn nuôi thuỷ sản đến năm 2000 .... Sau khi các dự án
được phê duyệt, UBND tỉnh ra quyết định thành lập các ban dự án, các dự án đã có tác
dụng thúc đẩy nông nghiệp của tỉnh phát triển mạnh, vững chắc và ngày càng có hiệu quả
cao.
Thành tựu đạt được trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
Sản xuất nông nghiệp thời kỳ 1996 - 2000 vẫn giữ được nhịp độ tăng trưởng khá.
Giá trị sản xuất nông - lâm - thuỷ sản tăng bình quân 5% m, trong đó Trồng trọt -
Lâm nghiệp 3,95%, Chăn nuôi - Thuỷ sản 6,24% năm, dịch vụ nông nghiệp
21,42%/năm. Sản lượng lương thực tăng từ 756.156 tấn năm 1996 lên 842.826 tấn năm
2000. Bình quân lương thực theo đầu người tăng từ 466 kg năm 1996 lên 505 kg năm
2000.
Biểu 1.6: Cơ cấu giá trị sản xuất nông nghiệp từ năm 1996 - 2000
Chỉ tiêu
ĐV
tính
1995 1996 1997 1998 1999 2000
BQ
Tổng giá trị SXNN Tỷ. đ
2.159
2.384
2.606
2.693
2.839
2.969
5
Tỉnh uỷ đã đề ra một số chính sách ưu đãi đối với nông nghiệp, được các cấp chính quyền tích cực hưởng ứng, thực hiện, tạo khí thế sôi nổi trong nông nghiệp, nông thôn như: - Chính sách trợ giá giống cây, con: Nghị quyết đã nêu rõ "Hỗ trợ 50% giá đối với giống cây, con mới. Trong kế hoạch của tỉnh đối với hộ áp dụng lần đầu, tiếp tục thực hiện hỗ trợ chi phí phối giống, thụ tinh giống bò ngoại và lợn nái ngoại". - Chính sách trợ giá thuốc phòng cho đàn gia súc: "Hỗ trợ 50% tiền thuốc tiêm phòng, đối với các hộ nông dân tiêm phòng định kỳ cho trâu, bò, lợn. Riêng đối với các hộ thuộc diện nghèo hỗ trợ 100% đối với việc tiêm phòng dịch bệnh phát sinh, ngân sách hỗ trợ 100% tiền thuốc". - Chính sách miễn giảm thuỷ lợi phí "Thực hiện giảm 30% tiền nước tạo nguồn, trong đó miễn 100% đối với cây vụ đông", mỗi năm ngân sách tỉnh chi cho việc miễn giảm này từ 8 - 9 tỷ đồng. Tỉnh uỷ giao nhiệm vụ cho ngành nông nghiệp, công nghiệp, giao thông, lao động - thương binh xã hội xây dựng các dự án liên quan đến phát triển nông nghiệp như: Dự án chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi nhằm đạt giá trị sản xuất 36 triệu đồng/1ha đất nông nghiệp vào năm 2005; Dự án hướng dẫn nông dân chuyển đổi ruộng đất từ ô thửa nhỏ thành ô thửa lớn; Dự án phát triển chăn nuôi thuỷ sản đến năm 2000 .... Sau khi các dự án được phê duyệt, UBND tỉnh ra quyết định thành lập các ban dự án, các dự án đã có tác dụng thúc đẩy nông nghiệp của tỉnh phát triển mạnh, vững chắc và ngày càng có hiệu quả cao. Thành tựu đạt được trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp Sản xuất nông nghiệp thời kỳ 1996 - 2000 vẫn giữ được nhịp độ tăng trưởng khá. Giá trị sản xuất nông - lâm - thuỷ sản tăng bình quân 5% năm, trong đó Trồng trọt - Lâm nghiệp 3,95%, Chăn nuôi - Thuỷ sản 6,24% năm, dịch vụ nông nghiệp 21,42%/năm. Sản lượng lương thực tăng từ 756.156 tấn năm 1996 lên 842.826 tấn năm 2000. Bình quân lương thực theo đầu người tăng từ 466 kg năm 1996 lên 505 kg năm 2000. Biểu 1.6: Cơ cấu giá trị sản xuất nông nghiệp từ năm 1996 - 2000 Chỉ tiêu ĐV tính 1995 1996 1997 1998 1999 2000 BQ Tổng giá trị SXNN Tỷ. đ 2.159 2.384 2.606 2.693 2.839 2.969 5
- Tỷ lệ % 100 100 100 100 100 100
-Trồng trọt - LN Tỷ. đ
1.596
1.783
1.893
1.950
2.063
2.165
3,95
- Tỷ lệ % 73,92
74,79
72,64
72,40
72,66
72,92
- Chăn nuôi - T. sản Tỷ. đ
521 555 643 660 687 702 6,24
- Tỷ lệ % 24,13
23,28
24,67
24,50
24,19
23,64
- Dịch vụ - N.nghiệp Tỷ. đ
42 46 70 83 89 102 21,42
- Tỷ lệ % 1,95 1,93 2,69 3,10 3,15 3,44
Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Hải Dương năm 2001.
Qua biểu trên cho thấy, tỷ trọng ngành chăn nuôi thuỷ sản đều tăng trưởng khá
trong 5 năm 1996 - 2000 với tốc độ tăng trưởng đạt 6,24%. Đặc biệt các năm từ 1997
đến 2000 tốc độ tăng trưởng nhanh hơn, xu hướng này dự báo tỷ lệ ngày càng phát triển
chứng tỏ rằng việc chuyển dịch cấu kinh tế Hải Dương đã đi đúng hướng. Tuy
nhiên ngành trồng trọt vẫn chiếm một tỷ trọng cao trong cơ cấu ngành nông nghiệp năm
2000 còn chiếm 70%.
Biểu 1.7: Tốc độ chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp
Năm
1996/199
5
1997/199
6
1998/199
7
1999/199
8
2000/199
9
BQ
Tốc độ
chuyển dịch
(%)
1,05 0,85 2,88 1,26 5,4 2,15
Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Hải Dương năm 2001.
Như vậy, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở Hải Dương qua các năm từ
1996 - 2000 là rất chậm, tốc độ chuyển dịch chưa cao bình quân trong giai đoạn này là
2,15%, xu hướng chuyển dịch không ổn định. Để đánh giá một cách toàn diện chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp cần đi sâu vào việc phân tích chuyển dịch cấu của
từng ngành cụ thể như sau:
Ngành trồng trọt đã đạt được tốc độ tăng trưởng bình quân là 3,95%, đạt được kết
quả như vậy là do cơ cấu cây trồng của tỉnh đã có sự thay đổi phù hợp. Trước tiên là sự
thay đổi cơ cấu sử dụng đất theo hướng tăng diện tích đất trồng cây ăn quả, từ năm 1996
là 9.059 ha lên 12.563 ha năm 2000, trong đó vải thiều từ 5.000 ha, năm 1996 lên 6.600
- Tỷ lệ % 100 100 100 100 100 100 -Trồng trọt - LN Tỷ. đ 1.596 1.783 1.893 1.950 2.063 2.165 3,95 - Tỷ lệ % 73,92 74,79 72,64 72,40 72,66 72,92 - Chăn nuôi - T. sản Tỷ. đ 521 555 643 660 687 702 6,24 - Tỷ lệ % 24,13 23,28 24,67 24,50 24,19 23,64 - Dịch vụ - N.nghiệp Tỷ. đ 42 46 70 83 89 102 21,42 - Tỷ lệ % 1,95 1,93 2,69 3,10 3,15 3,44 Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Hải Dương năm 2001. Qua biểu trên cho thấy, tỷ trọng ngành chăn nuôi thuỷ sản đều tăng trưởng khá trong 5 năm 1996 - 2000 với tốc độ tăng trưởng đạt 6,24%. Đặc biệt các năm từ 1997 đến 2000 tốc độ tăng trưởng nhanh hơn, xu hướng này dự báo tỷ lệ ngày càng phát triển chứng tỏ rằng việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Hải Dương đã đi đúng hướng. Tuy nhiên ngành trồng trọt vẫn chiếm một tỷ trọng cao trong cơ cấu ngành nông nghiệp năm 2000 còn chiếm 70%. Biểu 1.7: Tốc độ chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp Năm 1996/199 5 1997/199 6 1998/199 7 1999/199 8 2000/199 9 BQ Tốc độ chuyển dịch (%) 1,05 0,85 2,88 1,26 5,4 2,15 Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Hải Dương năm 2001. Như vậy, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở Hải Dương qua các năm từ 1996 - 2000 là rất chậm, tốc độ chuyển dịch chưa cao bình quân trong giai đoạn này là 2,15%, xu hướng chuyển dịch không ổn định. Để đánh giá một cách toàn diện chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp cần đi sâu vào việc phân tích chuyển dịch cơ cấu của từng ngành cụ thể như sau: Ngành trồng trọt đã đạt được tốc độ tăng trưởng bình quân là 3,95%, đạt được kết quả như vậy là do cơ cấu cây trồng của tỉnh đã có sự thay đổi phù hợp. Trước tiên là sự thay đổi cơ cấu sử dụng đất theo hướng tăng diện tích đất trồng cây ăn quả, từ năm 1996 là 9.059 ha lên 12.563 ha năm 2000, trong đó vải thiều từ 5.000 ha, năm 1996 lên 6.600
ha năm 2000. Diện tích cây lương thực xu hướng giảm qua các năm từ 167.089 ha
năm 1997 xuống còn 160.565 ha, bình quân trong giai đoạn này giảm 0,55%. diện tích
cây thực phẩm tương đối ổn định, cây công nghiệp tăng không đáng kể, diện tích cây
công nghiệp có xu ớng giảm năm 1995 4.266 ha nhưng đến năm 2000 chỉ còn
3.716 ha bình quân giảm 1,18%, diện tích cây ăn quả tăng 5,17% từ năm 1996 có 9.509
ha, đến năm 2000 có 12.563 ha tăng 5,7%.
Biểu 1.7: Cơ cấu diện tích cây trồng qua các năm 1996 - 2000
Đơn vị tính: ha
Chỉ tiêu 1995 1996 1997 1998 1999 2000 BQ
Tổng diện tích
195.59
0
198.52
0
200.41
3
199.12
8
199.52
1
198.79
1
0,33
Tỷ lệ 100 100 100 100 100 100
DT cây lương thực
164.69
9
167.80
4
167.09
8
162.50
4
164.02
3
160.56
5
- 0,55
Tỷ lệ 84,2 84,52 83,37 81,6 82,2 80,77
DT cây thực phẩm 17.725 17.568 19.701 21.933 21.077 21.947 4,26
Tỷ lệ 9,06 8,85 9,83 11,01 10,56 11,04
DT cây công nghiệp 4.266 3.639 3.594 4.245 3.549 3.716 - 1,18
Tỷ lệ 2,18 1,83 1,79 2,13 1,78 1,87
DT cây ăn quả 8.900 9.509 10.020 10.446 10.875 12.563 5,7
Tỷ lệ 4,56 4,80 5,01 5,26 5,46 6,32
Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Hải Dương 2001.
Đối với lâm nghiệp, trong 6 năm thực hiện chương trình 327 ở tỉnh (1993 -1998)
Nhà nước đã đầu tư 16,2 tỷ đồng cho công tác trồng rừng và xây dựng cơ sở hạ tầng, đã
trồng được 6763,4 ha rừng ở 2 huyện Chí Linh và Kinh Môn, về cơ bản đến năm 2000
Hải Dương đã phủ xanh đất trống đồi trọc. Toàn bộ diện tích rừng trồng đã được giao
cho 4.564 hộ nhận khoán lâu dài.
Cơ cấu trong sử dụng đất có sự chuyển đổi, do đó dẫn tới giá trị GDP của ngành
trồng trọt cũng thay đổi.
Biểu 1.8: Cơ cấu GDP của ngành trồng trọt Hải Dương
giai đoạn 1997 -2000
Năm 1996 1997 1998 1999 2000
ha năm 2000. Diện tích cây lương thực có xu hướng giảm qua các năm từ 167.089 ha năm 1997 xuống còn 160.565 ha, bình quân trong giai đoạn này giảm 0,55%. diện tích cây thực phẩm tương đối ổn định, cây công nghiệp tăng không đáng kể, diện tích cây công nghiệp có xu hướng giảm năm 1995 có 4.266 ha nhưng đến năm 2000 chỉ còn 3.716 ha bình quân giảm 1,18%, diện tích cây ăn quả tăng 5,17% từ năm 1996 có 9.509 ha, đến năm 2000 có 12.563 ha tăng 5,7%. Biểu 1.7: Cơ cấu diện tích cây trồng qua các năm 1996 - 2000 Đơn vị tính: ha Chỉ tiêu 1995 1996 1997 1998 1999 2000 BQ Tổng diện tích 195.59 0 198.52 0 200.41 3 199.12 8 199.52 1 198.79 1 0,33 Tỷ lệ 100 100 100 100 100 100 DT cây lương thực 164.69 9 167.80 4 167.09 8 162.50 4 164.02 3 160.56 5 - 0,55 Tỷ lệ 84,2 84,52 83,37 81,6 82,2 80,77 DT cây thực phẩm 17.725 17.568 19.701 21.933 21.077 21.947 4,26 Tỷ lệ 9,06 8,85 9,83 11,01 10,56 11,04 DT cây công nghiệp 4.266 3.639 3.594 4.245 3.549 3.716 - 1,18 Tỷ lệ 2,18 1,83 1,79 2,13 1,78 1,87 DT cây ăn quả 8.900 9.509 10.020 10.446 10.875 12.563 5,7 Tỷ lệ 4,56 4,80 5,01 5,26 5,46 6,32 Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Hải Dương 2001. Đối với lâm nghiệp, trong 6 năm thực hiện chương trình 327 ở tỉnh (1993 -1998) Nhà nước đã đầu tư 16,2 tỷ đồng cho công tác trồng rừng và xây dựng cơ sở hạ tầng, đã trồng được 6763,4 ha rừng ở 2 huyện Chí Linh và Kinh Môn, về cơ bản đến năm 2000 Hải Dương đã phủ xanh đất trống đồi trọc. Toàn bộ diện tích rừng trồng đã được giao cho 4.564 hộ nhận khoán lâu dài. Cơ cấu trong sử dụng đất có sự chuyển đổi, do đó dẫn tới giá trị GDP của ngành trồng trọt cũng thay đổi. Biểu 1.8: Cơ cấu GDP của ngành trồng trọt Hải Dương giai đoạn 1997 -2000 Năm 1996 1997 1998 1999 2000
Tỷ lệ % 100 100 100 100 100
Cây lương thực 69,0 70,3 69,2 70,0 70,0
Cây thực phẩm 15,1 15,2 16,0 16,3 17,0
Cây ăn quả 7,9 8,1 8,5 8,7 9,0
Cây công nghiệp 3,5 3,1 2,2 2,0 2,0
Cây khác 4,5 3,3 4,1 3,0 2,0
Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Hải Dương năm 2001
Qua số liệu trên cho thấy tổng giá trị GDP trong ngành trồng trọt tăng, đặc biệt từ
năm 1997 đến năm 2000, còn tỷ trọng cây lương thực tương đối ổn định khoảng 70%,
mặc diện tích cây lương thực giảm nhưng cây lương thực vẫn chiếm một vị trí
quan trọng trong cơ cấu cây trồng vì nó vốn là cây chủ yếu đảm bảo an toàn lương thực,
đáp ứng nhu cầu xã hội dùng để phát triển chăn nuôi, dự trữ và xuất khẩu. Tuy diện tích
cây lương thực giảm nhưng do áp dụng những biện pháp kthuật như: giống, k
thuật canh tác, thuỷ lợi,.... cho nên sản lượng lương thực vẫn tăng qua các năm, m
2000 sản lượng lương thực bình quân đầu người đạt 505 kg/người. Trong giá trị sản
lượng cây lương thực thì cây lúa vẫn chiếm tỷ trọng cao chiếm 98% năm 2000 còn lại là
tỷ trọng của các cây lương thực khác như ngô, khoai,... Cây ăn quả của tỉnh chủ yếu
vải, nhãn, chuối tuy diện tích trồng cây ăn quả chiếm một tỷ lệ khá khiêm tốn trong diện
tích đất trồng trọt nhưng những năm gần đây do tỉnh thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh
tế nông nghiệp cho nên các hộ nông dân đã tính toán chuyển dịch từ đất trồng lúa
sang trồng cây ăn quả hiệu quả kinh tế bởi trồng cây ăn quả một số địa phương
hiệu quả cao hơn gấp ít nhất 3 lần trồng lúa (huyện Thanh Hà) trên cùng một diện
tích đất nông nghiệp. Bên cạnh đó người dân đã cải tạo vườn tạp, quy hoạch các vùng
trồng cây ăn quả, khai thác vùng đất đồi còn bỏ trống trước đây (huyện Chí Linh) để
trồng cây ăn quả do đó diện tích và sản lượng cây ăn quả qua các năm đều tăng nhất là
cây vải thiều. Như vậy, trong giai đoạn từ 1997 - 2000 ngành trồng trọt của tỉnh Hải
Dương đã sự chuyển dịch theo hướng tăng diện tích cây ăn quả, giảm diện tích cây
lương thực. Đây là xu hướng tích cực để Hải Dương tiếp tục đẩy mạnh chuyển dịch
cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng CNH - HĐH trong những năm tiếp theo.
Về chăn nuôi: Đàn trâu giảm 4,37%/năm, từ 46.728 con năm 1996 xuống còn
35.628 con năm 2000. Đàn bò tăng 1,38%/năm, từ 35.438 con năm 1996 lên 37.896 con
Tỷ lệ % 100 100 100 100 100 Cây lương thực 69,0 70,3 69,2 70,0 70,0 Cây thực phẩm 15,1 15,2 16,0 16,3 17,0 Cây ăn quả 7,9 8,1 8,5 8,7 9,0 Cây công nghiệp 3,5 3,1 2,2 2,0 2,0 Cây khác 4,5 3,3 4,1 3,0 2,0 Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Hải Dương năm 2001 Qua số liệu trên cho thấy tổng giá trị GDP trong ngành trồng trọt tăng, đặc biệt từ năm 1997 đến năm 2000, còn tỷ trọng cây lương thực tương đối ổn định khoảng 70%, mặc dù diện tích cây lương thực có giảm nhưng cây lương thực vẫn chiếm một vị trí quan trọng trong cơ cấu cây trồng vì nó vốn là cây chủ yếu đảm bảo an toàn lương thực, đáp ứng nhu cầu xã hội dùng để phát triển chăn nuôi, dự trữ và xuất khẩu. Tuy diện tích cây lương thực có giảm nhưng do áp dụng những biện pháp kỹ thuật như: giống, kỹ thuật canh tác, thuỷ lợi,.... cho nên sản lượng lương thực vẫn tăng qua các năm, năm 2000 sản lượng lương thực bình quân đầu người đạt 505 kg/người. Trong giá trị sản lượng cây lương thực thì cây lúa vẫn chiếm tỷ trọng cao chiếm 98% năm 2000 còn lại là tỷ trọng của các cây lương thực khác như ngô, khoai,... Cây ăn quả của tỉnh chủ yếu là vải, nhãn, chuối tuy diện tích trồng cây ăn quả chiếm một tỷ lệ khá khiêm tốn trong diện tích đất trồng trọt nhưng những năm gần đây do tỉnh thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp cho nên các hộ nông dân đã tính toán và chuyển dịch từ đất trồng lúa sang trồng cây ăn quả có hiệu quả kinh tế bởi vì trồng cây ăn quả một số địa phương hiệu quả cao hơn gấp ít nhất là 3 lần trồng lúa (huyện Thanh Hà) trên cùng một diện tích đất nông nghiệp. Bên cạnh đó người dân đã cải tạo vườn tạp, quy hoạch các vùng trồng cây ăn quả, khai thác vùng đất đồi còn bỏ trống trước đây (huyện Chí Linh) để trồng cây ăn quả do đó diện tích và sản lượng cây ăn quả qua các năm đều tăng nhất là cây vải thiều. Như vậy, trong giai đoạn từ 1997 - 2000 ngành trồng trọt của tỉnh Hải Dương đã có sự chuyển dịch theo hướng tăng diện tích cây ăn quả, giảm diện tích cây lương thực. Đây là xu hướng tích cực để Hải Dương tiếp tục đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng CNH - HĐH trong những năm tiếp theo. Về chăn nuôi: Đàn trâu giảm 4,37%/năm, từ 46.728 con năm 1996 xuống còn 35.628 con năm 2000. Đàn bò tăng 1,38%/năm, từ 35.438 con năm 1996 lên 37.896 con
năm 2000. Sản lượng thịt lợn hơi tăng từ 4,5%/năm, từ 36.783 tấn năm 1996 lên 44.976
tấn năm 2000. Đàn gia cầm tăng 6,4 triệu con năm 1996 lên 7 triệu con năm 2000. Sản
lượng thịt gia cầm tăng 4,9%/năm, năm 1996 có 8.965 tấn đến năm 2000 có 10.281 tấn.
Chất lượng đàn gia súc, gia cầm đã từng bước được nâng cao. Hiện toàn tỉnh đã
khoảng trên 2% số lợn nái ngoại được nuôi theo công nghiệp, gần 40% số bò là lai
Sind khoảng gần 10% số gia cầm các giống gà, vịt, ngan có năng suất cao, chất
lượng tốt (gà Tam Hoàng, vịt siêu thịt, siêu trứng, ngan Pháp...) được nuôi theo quy
công nghiệp.
Về nuôi trồng thuỷ sản: Diện tích mặt nước khả năng nuôi trồng thuỷ sản
khoảng trên 11 nghìn ha bao gồm: ao hồ, ng cụt, hồ chứa đầm triều trũng. Diện
tích đưa vào sử dụng đến năm 2000 là 6.747,3 ha, tốc độ bình quân 4 năm (1997-2000)
là 3,9%/năm. Đặc biệt diện tích chuyển đổi từ vùng triều cấy lúa 1 vụ bấp bênh sang lập
vườn, đào ao nuôi thả (khoảng 2 nghìn ha mặt nước) đã mang lại hiệu quả kinh tế
gấp 3-4 lần cấy lúa.
Về giống thusản: ngoài các loại các truyền thống đã được thuần hoá, chọn lọc
sản xuất giống nhân tạo đáp ứng nhu cầu giống nuôi cho các loại mặt nước ở các vùng
sinh thái như mè, trôi, trắm, chép.
Năng suất nuôi trồng thuỷ sản bình quân chung toàn tỉnh đạt từ 1,46 tấn/ha (năm
1997) lên 1,72 tấn/ha (năm 2000). Sản lượng nuôi đạt từ 8.250 tấn (năm 1997) lên
11.200 tấn (năm 2000), tăng 35,8%.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp dẫn đến kinh tế HTX nông nghiệp của tỉnh
Hải Dương ng dần được đổi mới và hoạt động ny càng hiệu qu
Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị (1988) và đặc biệt là Nghị quyết 21 của Tỉnh uỷ
(8/1994) về đổi mới và tổ chức quản HTX đã đưa phong trào HTX nông nghiệp
tỉnh Hải Dương lên giai đoạn phát triển mới. Trước khi có luật HTX (1996) Hải Dương
đã có 490 HTX được đổi mới gồm 316 HTX nông nghiệp, 174 HTX phi nông nghiệp.
Tuy nhiên, hoạt động của HTX trong thời kỳ này phát triển chưa cao, đa số chỉ duy trì
dịch vụ cho kinh tế hộ trong khâu nước, điện. Chỉ có khoảng 17% số HTX tổ chức thêm
được những khâu khác như giống, vật tư, làm đất.....Theo thống kê vào thời điểm tháng
6/1994 trong 345 HTX đến 52% không vốn để hoạt động sản xuất, kinh doanh,
năm 2000. Sản lượng thịt lợn hơi tăng từ 4,5%/năm, từ 36.783 tấn năm 1996 lên 44.976 tấn năm 2000. Đàn gia cầm tăng 6,4 triệu con năm 1996 lên 7 triệu con năm 2000. Sản lượng thịt gia cầm tăng 4,9%/năm, năm 1996 có 8.965 tấn đến năm 2000 có 10.281 tấn. Chất lượng đàn gia súc, gia cầm đã từng bước được nâng cao. Hiện toàn tỉnh đã có khoảng trên 2% số lợn nái ngoại được nuôi theo công nghiệp, gần 40% số bò là bò lai Sind và khoảng gần 10% số gia cầm là các giống gà, vịt, ngan có năng suất cao, chất lượng tốt (gà Tam Hoàng, vịt siêu thịt, siêu trứng, ngan Pháp...) được nuôi theo quy mô công nghiệp. Về nuôi trồng thuỷ sản: Diện tích mặt nước có khả năng nuôi trồng thuỷ sản khoảng trên 11 nghìn ha bao gồm: ao hồ, sông cụt, hồ chứa và đầm triều trũng. Diện tích đưa vào sử dụng đến năm 2000 là 6.747,3 ha, tốc độ bình quân 4 năm (1997-2000) là 3,9%/năm. Đặc biệt diện tích chuyển đổi từ vùng triều cấy lúa 1 vụ bấp bênh sang lập vườn, đào ao nuôi thả cá (khoảng 2 nghìn ha mặt nước) đã mang lại hiệu quả kinh tế gấp 3-4 lần cấy lúa. Về giống thuỷ sản: ngoài các loại các truyền thống đã được thuần hoá, chọn lọc sản xuất giống nhân tạo đáp ứng nhu cầu giống nuôi cho các loại mặt nước ở các vùng sinh thái như mè, trôi, trắm, chép. Năng suất nuôi trồng thuỷ sản bình quân chung toàn tỉnh đạt từ 1,46 tấn/ha (năm 1997) lên 1,72 tấn/ha (năm 2000). Sản lượng cá nuôi đạt từ 8.250 tấn (năm 1997) lên 11.200 tấn (năm 2000), tăng 35,8%. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp dẫn đến kinh tế HTX nông nghiệp của tỉnh Hải Dương cũng dần được đổi mới và hoạt động ngày càng hiệu quả Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị (1988) và đặc biệt là Nghị quyết 21 của Tỉnh uỷ (8/1994) về đổi mới và tổ chức quản lý HTX đã đưa phong trào HTX nông nghiệp ở tỉnh Hải Dương lên giai đoạn phát triển mới. Trước khi có luật HTX (1996) Hải Dương đã có 490 HTX được đổi mới gồm 316 HTX nông nghiệp, 174 HTX phi nông nghiệp. Tuy nhiên, hoạt động của HTX trong thời kỳ này phát triển chưa cao, đa số chỉ duy trì dịch vụ cho kinh tế hộ trong khâu nước, điện. Chỉ có khoảng 17% số HTX tổ chức thêm được những khâu khác như giống, vật tư, làm đất.....Theo thống kê vào thời điểm tháng 6/1994 trong 345 HTX có đến 52% không có vốn để hoạt động sản xuất, kinh doanh,
28% số HTX yếu kém, tồn tại chỉ là hình thức, bình quân mỗi HTX nợ đọng 128 triệu
đồng, không khả năng thanh toán. Nhìn chung vai trò của HTX ngày càng mờ nhạt,
xã viên không gắn bó với HTX. Từ thực tế đó nhiều nơi có xu hướng giải thể HTX hoặc
giao lại HTX cho UBND xã điều hành các khâu dịch vụ. Do đó đã làm lẫn lộn các chức
năng quản nhà nước về kinh tế của chính quyền chức năng quản kinh doanh sản
xuất của HTX.
Trước tình hình đó, xuất phát từ yêu cầu khách quan của của sản xuất ngày
4/8/1994 Tỉnh uỷ Hải Dương ra Nghị quyết 21 nhằm đẩy mạnh đổi mới tổ chức và quản
lý HTX (trong đó tập trung trước hết vào khu vực nông nghiệp, nông thôn) với nội dung
bản là: bảo đảm nguyên tắc tự nguyện, dân chủ, cùng lợi trong tổ chức hoạt
động của HTX, mọi viên đều phải góp vốn hưởng theo lao động, thu nhập theo
lao động. Một hộ hoặc một lao động thể tham gia vào nhiều HTX không phụ thuộc
vào địa giới hành chính. Quy và hình thức của HTX tuỳ thuộc vào yêu cầu của sản
xuất kinh doanh. Đối với HTX yếu, kém thì kiên quyết giải thể. Như vậy, Nghị quyết 21
của Tỉnh uỷ nhằm khuyến khích thành lập và phát triển đa dạng các loại hình HTX hoạt
động có hiệu quả. Tính đến cuối năm 1996
Toàn tỉnh đã chuyển đổi và thành lập mới 316 HTX dịch vụ nông nghiệp, trong đó
183 HTX quy mô toàn xã, 133 HTX quy mô toàn thôn và liên thôn. Về loại hình có 295
HTX dịch vụ tổng hợp và 21 HTX dịch vụ chuyên khâu đã thu hút 291.809 xã viên, chiếm
89% số hộ nông dân trong đó xã viên trực tiếp lao động ở các khâu dịch vụ là 8.357 người,
chiếm 3% tổng số xã viên.
Quá trình hoạt động của HTX trong thời gian này cho thấy, lao động trong các HTX
chuyển đổi được phân công và sử dụng hợp lý, giá thành dịch vụ giảm, phương thức được
xây dựng có tính khả thi, sát thực tế hơn, nhiều HTX hoạt động có lãi, tài sản vốn, quỹ
được bảo toàn, giữ vững và phát triển, thu nhập của xã viên được trả xứng với ngày công
lao động, vốn góp cổ phần được sử dụng đúng mục đích có hiệu quả và được trả lãi sau khi
kết thúc vụ sản xuất, các dịch vụ hoạt động kịp thời, bảo đảm tiến độ sản xuất, được xã viên
đồng tình ủng hộ. Tuy nhiên cũng còn gặp một số khó khăn trong quá trình hoạt động: vốn
bình quân của các HTX rất thấp, vốn cố định bình quân 355 triệu đồng/HTX, trong đó chủ
yếu là giá trị tài sản của hệ thống công trình điện và công trình thuỷ nông mà tài sản này đã
qua thời gian sử dụng khá dài, hầu như đã nát và hư hỏng nhiều. Vốn lưu động bình
28% số HTX yếu kém, tồn tại chỉ là hình thức, bình quân mỗi HTX nợ đọng 128 triệu đồng, không có khả năng thanh toán. Nhìn chung vai trò của HTX ngày càng mờ nhạt, xã viên không gắn bó với HTX. Từ thực tế đó nhiều nơi có xu hướng giải thể HTX hoặc giao lại HTX cho UBND xã điều hành các khâu dịch vụ. Do đó đã làm lẫn lộn các chức năng quản lý nhà nước về kinh tế của chính quyền chức năng quản lý kinh doanh sản xuất của HTX. Trước tình hình đó, xuất phát từ yêu cầu khách quan của của sản xuất ngày 4/8/1994 Tỉnh uỷ Hải Dương ra Nghị quyết 21 nhằm đẩy mạnh đổi mới tổ chức và quản lý HTX (trong đó tập trung trước hết vào khu vực nông nghiệp, nông thôn) với nội dung cơ bản là: bảo đảm nguyên tắc tự nguyện, dân chủ, cùng có lợi trong tổ chức và hoạt động của HTX, mọi xã viên đều phải góp vốn và hưởng theo lao động, thu nhập theo lao động. Một hộ hoặc một lao động có thể tham gia vào nhiều HTX không phụ thuộc vào địa giới hành chính. Quy mô và hình thức của HTX tuỳ thuộc vào yêu cầu của sản xuất kinh doanh. Đối với HTX yếu, kém thì kiên quyết giải thể. Như vậy, Nghị quyết 21 của Tỉnh uỷ nhằm khuyến khích thành lập và phát triển đa dạng các loại hình HTX hoạt động có hiệu quả. Tính đến cuối năm 1996 Toàn tỉnh đã chuyển đổi và thành lập mới 316 HTX dịch vụ nông nghiệp, trong đó 183 HTX quy mô toàn xã, 133 HTX quy mô toàn thôn và liên thôn. Về loại hình có 295 HTX dịch vụ tổng hợp và 21 HTX dịch vụ chuyên khâu đã thu hút 291.809 xã viên, chiếm 89% số hộ nông dân trong đó xã viên trực tiếp lao động ở các khâu dịch vụ là 8.357 người, chiếm 3% tổng số xã viên. Quá trình hoạt động của HTX trong thời gian này cho thấy, lao động trong các HTX chuyển đổi được phân công và sử dụng hợp lý, giá thành dịch vụ giảm, phương thức được xây dựng có tính khả thi, sát thực tế hơn, nhiều HTX hoạt động có lãi, tài sản vốn, quỹ được bảo toàn, giữ vững và phát triển, thu nhập của xã viên được trả xứng với ngày công lao động, vốn góp cổ phần được sử dụng đúng mục đích có hiệu quả và được trả lãi sau khi kết thúc vụ sản xuất, các dịch vụ hoạt động kịp thời, bảo đảm tiến độ sản xuất, được xã viên đồng tình ủng hộ. Tuy nhiên cũng còn gặp một số khó khăn trong quá trình hoạt động: vốn bình quân của các HTX rất thấp, vốn cố định bình quân 355 triệu đồng/HTX, trong đó chủ yếu là giá trị tài sản của hệ thống công trình điện và công trình thuỷ nông mà tài sản này đã qua thời gian sử dụng khá dài, hầu như đã cũ nát và hư hỏng nhiều. Vốn lưu động bình