LUẬN VĂN: Đảng bộ tỉnh Hải Dương lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa từ 1997 đến 2004
2,823
130
98
Đại hội khẳng định: "Mục tiêu của CNH, HĐH là xây dựng nước ta thành một nước
công nghiệp có cơ sở vật chất-kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ
sản xuất
tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật
chất và tinh
thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
văn
minh.
Từ nay: "Đến năm 2020, ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước
công nghiệp" [25, tr.80]. Đại hội VIII đề ra nội dung cơ bản của CNH, HĐH trong
những năm còn lại của thập kỷ 90 là: "Đặc biệt coi trọng công nghiệp hóa, hiện
đại hóa
nông nghiệp và nông thôn; phát triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp gắn với
công
nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản; phát triển công nghiệp sản xuất hàng tiêu
dùng và
hàng xuất khẩu" [25, tr.86]. Đại hội chỉ rõ: "Phát triển toàn diện nông, lâm,
ngư nghiệp,
hình thành các vùng tập trung chuyên canh, có cơ cấu hợp lý về cây trồng, vật
nuôi, có
sản phẩm hàng hóa nhiều về số lượng, tốt về chất lượng, bảo đảm an toàn về lương
thực
trong xã hội, đáp ứng được yêu cầu của công nghiệp chế biến và của thị trường
trong,
ngoài nước.
Thực hiện thuỷ lợi hoá, hiện đại hoá, cơ giới hoá, sinh học hoá...
Phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản với công nghệ ngày càng
cao, gắn với nguồn nguyên liệu và liên kết với công nghiệp ở đô thị.
Phát triển các ngành nghề, làng nghề truyền thống và các ngành nghề mới bao
gồm tiểu, thủ công nghiệp, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu,
công
nghiệp khai thác và chế biến các nguồn nguyên liệu phi nông nghiệp, các loại
hình dịch
vụ phục vụ sản xuất và đời sống nhân dân.
Xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội, từng bước hình thành nông thôn mới
văn minh, hiện đại.
Hoàn thành cơ bản việc giao đất, khoán rừng cho hộ nông dân. Điều chỉnh việc
phân bổ vốn và huy động thêm nhiều nguồn vốn cho phát triển nông, lâm, ngư
nghiệp
và kinh tế nông thôn. Có chính sách khuyến khích và trợ giúp nông dân trong xây
dựng
kết cấu hạ tầng, chuyển giao công nghệ, giải quyết các khó khăn về vốn, về giá
cả vật tư
nông nghiệp và hàng nông sản, về thị trường tiêu thụ sản phẩm...
Thực hiện Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng. Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khoá VIII (tháng 12-1997) ra Nghị quyết: "Tiếp tục đẩy mạnh công
cuộc đổi mới, phát huy nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, cần kiệm để
CNH,
HĐH, phấn đấu hoàn thành các mục tiêu kinh tế-xã hội đến năm 2000". Nghị quyết
chỉ
rõ: Phát triển nông nghiệp và nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hóa
và
hợp tác hoá, dân chủ hoá.
Nghị quyết xác định những việc cần tập trung thực hiện. Đó là: Đẩy nhanh quá
trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn với phân công lao động ở nông thôn, giải quyết
vấn đề thị
trường tiêu thụ nông sản; phát triển mạnh các hình thức kinh tế hợp tác, đổi mới
hoạt động
của các cơ sở quốc doanh trong nông nghiệp và nông thôn, phát triển các cơ sở
quốc
doanh ở vùng sâu, vùng xa.
Ngày 10-11-1998, Bộ Chính trị khoá VIII đã ra Nghị quyết số 06-NQ/TW về một số
vấn đề phát triển nông nghiệp và nông thôn. Nghị quyết đã chỉ rõ những thành tựu
và những
yếu kém, đồng thời chỉ ra nguyên nhân trong việc phát triển nông nghiệp và nông
thôn và đề
ra 4 quan điểm và 6 mục tiêu phát triển.
- Quan điểm
Một là: Coi trọng thực hiện CNH, HĐH trong phát triển nông nghiệp (gồm cả lâm
nghiệp, ngư nghiệp, diêm nghiệp) và xây dựng nông thôn, đưa nông nghiệp và kinh
tế
nông thôn lên sản xuất lớn là nhiệm vụ cực kỳ quan trọng cả trước mắt và lâu
dài, là cơ
sở để ổn định tình hình kinh tế, chính trị, xã hội, củng cố liên minh giai cấp
công nhân
với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Hai là: Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, gắn phát triển nông nghiệp với
công nghiệp chế biến, ngành nghề, gắn sản xuất với thị trường để hình thành sự
liên kết
nông-công nghiệp-dịch vụ và thị trường ngay trên địa bàn nông thôn và trên phạm
vi cả
nước; gắn phát triển nông nghiệp với xây dựng nông thôn mới; gắn công nghiệp hoá
với
thực hiện dân chủ hoá và nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực ở nông thôn; tạo ra
sự phân
công lao động mới, đào tạo nhân lực ở nông thôn; tạo ra sự phân công lao động
mới,
giải quyết việc làm, nâng cao đời sống, xóa đói giảm nghèo, thu hẹp dần khoảng
về mức
sống giữa thành thị và nông thôn, thực hiện có kết quả mục tiêu phát triển dân
số.
Ba là: Phát huy lợi thế của từng vùng và cả nước, áp dụng nhanh các tiến bộ KH-
CN để phát triển nông nghiệp hàng hóa đa dạng, đáp ứng ngày càng cao nhu cầu
nông
sản thực phẩm và nguyên liệu công nghiệp, hướng mạnh ra xuất khẩu.
Bốn là: Phát triển nền nông nghiệp với nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh
tế
nhà nước giữ vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế HTX dần trờ thành nền tảng, hợp
tác và
hướng dẫn kinh tế tư nhân phát triển theo đúng pháp luật. Tiếp tục phát triển
nhiều hình
thức kinh tế hợp tác; các loại hình HTX dịch vụ cho kinh tế hộ nông dân, từng
bước xây
dựng các HTX nông nghiệp theo Luật Hợp tác xã; chú trọng liên kết kinh tế nhà
nước
với các thành phần kinh tế khác. Tạo điều kiện và khuyến khích mạnh mẽ hộ nông
dân
và những người có khả năng đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh nông nghiệp,
công
nghiệp, dịch vụ ở nông thôn.
- Mục tiêu
Một là: Bảo đảm an ninh lương thực quốc gia trong mọi tình huống. Từng bước
cải thiện cơ cấu và chất lượng bữa an, tiến tới đạt tiêu chuẩn về dinh dưỡng.
Hai là: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng CNH, HĐH, tăng
nhanh khối lượng sản phẩm hàng hóa, nhất là hàng nông sản, lâm, thủy sản qua chế
biến; tăng kim ngạch xuất khẩu; giảm tỷ lệ lao động nông nghiệp, tăng tỷ trọng
công
nghiệp, dịch vụ trong cơ cấu kinh tế nông thôn.
Ba là: Bằng nhiều biện pháp để giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập của dân cư
nông thôn; xoá hộ đói (vào năm 2000), giảm tỷ lệ hộ nghèo; phát triển cơ sở hạ
tầng
kinh tế-xã hội nông thôn, chú trọng phát triển hệ thống thuỷ lợi, bảo đảm đường
giao
thông thông suốt đến trung tâm xã, có đủ trường học, trạm y tế và nước sạch cho
sinh
hoạt.
Bốn là: Bảo vệ môi trường sinh thái. Ngăn chặn nạn phá rừng; có chính sách để
huy động nhân dân và các thành phần kinh tế tích cực khoanh nuôi, tái sinh, bảo
vệ và
trồng rừng, đưa tỷ lệ che phủ của rừng đạt 43% vào năm 2010.
Năm là: Nâng cao hiệu quả và năng lực đánh bắt, chú trọng thâm canh và đẩy
mạnh nuôi trồng thuỷ sản, hải sản phục vụ xuất khẩu; phấn đấu để sớm đứng vào
hàng
ngũ những quốc gia có sản lượng thuỷ, hải sản lớn của thế giới.
Sáu là: Thực hiện tốt quy chế dân chủ, bảo đảm ổn định chính trị - xã hội và
đoàn
kết nông thôn.
Thứ ba: Tính tất yếu của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
Nông nghiệp là một ngành kinh tế quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế
đối
với mọi quốc gia, dân tộc. Sự phát triển của sản xuất nông nghiệp không chỉ cần
thiết để
tăng thêm nguồn lương thực, thực phẩm để nuôi sống xã hội mà còn tác động mạnh
đến
phát triển công nghiệp, các ngành dịch vụ, các lĩnh vực chính trị-xã hội khác,
là yêu cầu
không thể thiếu tạo ra sự ổn định trong đời sống chính trị, xã hội, an ninh quốc
phòng
của đất nước, là yếu tố quan trọng để bảo đảm môi trường sinh thái.
Đối với nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu, đi lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua
chế độ tư bản chủ nghĩa. Do đó nông nghiệp càng có vị trí vai trò hết sức quan
trọng,
được thể hiện trên các nội dung sau đây:
Nông nghiệp là ngành kinh tế quan trọng của nền kinh tế nước ta hiện nay vì
nông nghiệp sản xuất ra lương thực, thực phẩm để nuôi sống xã hội, nông nghiệp
có ổn
định và phát triển thì các ngành kinh tế và các lĩnh vực chính trị-xã hội mới ổn
định phát
triển. Bởi vì ở nước ta chiếm khoảng 60 % lao động sản xuất trong ngành nông
nghiệp
và GDP của ngành nông nghiệp trong GDP của toàn nền kinh tế là 23%. Tỷ lệ đô thị
hoá của Việt Nam mới đạt 25%, còn lại 75% là nông thôn.
- Nông nghiệp cung cấp nguyên liệu cho nhiều ngành công nghiệp, nhất là công
nghiệp chế biến, trên cơ sở đó góp phàn đáp ứng nhu cầu về các mặt hàng tiêu
dùng
thiết yếu, đa dạng cho nhân dân .
- Khu vực nông nghiệp có vai trò to lớn trong việc giải quyết việc làm cho lao
động nông nghiệp tại các địa phương, đồng thời còn cung cấp một lượng lớn lao
động
cho các ngành kinh tế khác.
- Nông nghiệp là khu vực góp phần quan trọng trong việc tăng kim ngạch xuất
khẩu, tạo điều kiện, mở rộng, phân công và hợp tác quốc tế để Nhà nước tăng
nguồn thu
ngoại tệ, nhập khẩu các loại máy móc, vật tư thiết bị, cũng như các kỹ thuật cần
thiết
khác để phát triển nền kinh tế quốc dân nói chung và kinh tế nông nghiệp nói
riêng.
Ngành kinh tế nông nghiệp phát triển, do đó đời sống vật chất, tinh thần của
nhân dân
không ngừng được cải thiện là điều kiện tiên quyết thúc đẩy các ngành kinh tế
khác
cùng phát triển.
- Sự phát triển hợp lý của ngành kinh tế nông nghiệp sẽ góp phần tích cực bảo
vệ,
giữ gìn và cải thiện môi trường sinh thái, đảm bảo cho quá trình phát triển bền
vững,
xây dựng môi trường ngày càng trong sạch.
Trước vị trí, vai trò quan trọng của ngành kinh tế nông nghiệp đối với quá trình
phát triển nền kinh tế quốc dân. Nước ta với xuất phát điểm từ một nước nông
nghiệp
lạc hậu, tự cấp là chủ yếu, khi chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ
nghĩa, để thúc đẩy quá trình phát triển đòi hỏi chúng ta phải giải quyết hàng
loạt vấn đề
kinh tế, kỹ thuật, tổ chức, xã hội... Trong đó việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông
nghiệp nhằm xây dựng một cơ cấu kinh tế hợp lý, hiệu quả để khai thác tối đa
tiềm
năng, lợi thế của một nền nông nghiệp nhiệt đới là quá trình có vai trò hết sức
quan
trọng.
Thứ tư: Nội dung của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
Xuất phát từ đặc điểm của nước ta vốn là một nước nông nghiệp. Dân số chiếm
khoảng 68% và lao động nông nghiệp chiếm 60% so với dân số và lực lượng lao động
của cả nước. Đồng thời nông nghiệp là nguồn cung cấp lương thực, nguyên liệu,
nguồn
xuất khẩu quan trọng, là thị trường tiêu thụ lớn nhất hiện nay. Do vậy trong
thời gian tới
để tiếp tục phát triển và đưa nông nghiệp lên một trình độ mới, quá trình chuyển
dịch cơ
cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn nước ta phải có nội dung chính như sau:
- Xây dựng cơ cấu kinh tế nông-lâm-ngư nghiệp hợp lý:
Cơ cấu kinh tế nông nghiệp phải được chuyển dịch theo hướng từ cơ cấu độc
canh, thuần nông sang chuyên môn hoá và kinh doanh tổng hợp, chuyển từ cơ cấu
mang
tính tự cung tự cấp sang sản xuất hàng hóa trong quá trình CNH, HĐH. Chuyển từ
cơ
cấu sử dụng nhiều lao động, hiệu quả thấp sang nền nông nghiệp sử dụng khai thác
ít
lao động, hiệu quả cao.
Cụ thể là: Phát triển một nền nông nghiệp toàn diện, lấy sản xuất lương thực làm
trọng tâm. Điều chỉnh quy hoạch sản xuất lương thực phù hợp với nhu cầu và khả
năng
tiêu thụ, tăng năng suất đi đôi với nâng cấp chất lượng, bảo đảm an ninh lương
thực
trong mọi tình huống bởi sản xuất lương thực giữ vị trí rất quan trọng để đảm
bảo "An
toàn lương thực quốc gia". Đó là cơ sở đầu tiên để ổn định chính trị-xã hội.
Phát triển
sản xuất lương thực không phải bằng con đường quảng canh (khai thác chiều rộng)
mà
phải đầu tư thâm canh (khai thác chiều sâu).
Thực hiện chuyên môn hoá kết hợp kinh doanh tổng hợp, xây dựng các vùng sản
xuất tập trung hàng hóa, tận dụng điều kiện thích hợp của các địa bàn khác để
sản xuất
lương thực có hiệu quả. Nâng cao giá trị và hiệu quả sản xuất gạo, có chính sách
bảo
đảm lợi ích của người sản xuất lương thực.
Phát triển theo quy hoạch và chú trọng đầu tư thâm canh các vùng cây công
nghiệp như chè, dâu tằm, mía, lạc... Mở rộng diện tích cây ăn quả, cây đặc sản
có giá trị
cao gắn với phát triển cơ sở bảo quản chế biến nhằm phát huy lợi thế so sánh về
điều
kiện tự nhiên và lao động, tiến tới đảm bảo cung cấp đầy đủ nguyên liệu cho công
nghiệp chế biến và hướng mạnh xuất khẩu.
Phát triển và nâng cao hiệu quả, chất lượng chăn nuôi gia súc, gia cầm; mở rộng
phương pháp nuôi công nghiệp gắn với chế biến sản phẩm, tăng tỷ trọng ngành chăn
nuôi trong nông nghiệp.
Phát huy lợi thế về thuỷ sản, tạo thành một ngành kinh tế mũi nhọn, vươn lên
hàng đầu trong khu vực. Phát triển mạnh nuôi trồng thuỷ sản nước ngọt, nước lợ
và
nước mặn, nhất là nuôi tôm theo phương thức tiến bộ, hiệu quả và bền vững môi
trường.
Tăng cường năng lực và nâng cao hiệu quả khai thác hải sản xa bờ; chuyển đổi cơ
cấu
nghề nghiệp, ổn định khai thác gần bờ, nâng cao năng lực bảo quản, chế biến sản
phẩm
đáp ứng yêu cầu thị trường quốc tế và trong nước. Mở rộng và nâng cấp các cơ sở
hạ
tầng, dịch vụ nghề cá. Giữ gìn môi trường biển và sông nước , bảo đảm cho sự tái
tạo,
phát triển nguồn lợi thuỷ sản.
Bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng, nâng độ che phủ của rừng lên 43%. Hoàn
thành việc giao đất, giao rừng ổn định và lâu dài theo hướng xã hội hoá lâm
nghiệp,
nâng cao hiệu quả nghề rừng. Kết hợp lâm nghiệp với nông nghiệp và có chính sách
hỗ
trợ để định canh, định cư, ổn đinh, cải thiện đời sống nhân dân miền núi. Ngăn
chặn nạn
đốt, phá rừng. Đẩy mạnh trồng rừng kinh tế, tạo nguồn gỗ trụ mỏ, nguyên liệu cho
công
nghiệp, bột giấy, công nghiệp chế biến gỗ và làm hàng mỹ nghệ xuất khẩu, nâng
cao giá trị
sản phẩm rừng.
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp gắn với cải biến cơ cấu kinh tế nông
thôn
Cơ cấu kinh tế mới ở nông thôn không chỉ bao gồm nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư
nghiệp mà còn bao gồm các ngành như: công nghiệp, thương nghiệp, tài chính, ngân
hàng,
du lịch và các dịch vụ khác. Do vậy cơ cấu kinh tế nông thôn phải được chuyển
đổi theo
hướng phát triển mạnh các ngành nghề, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch
vụ. Đặc
biệt phát triển đa dạng các ngành công nghiệp, nhất là công nghiệp chế biến, các
ngành
nghề truyền thống có giá trị xuất khẩu cao. Hình thành các khu vực tập trung
công nghiệp,
các điểm công nghiệp ở nông thôn, các làng nghề gắn với thị trường trong nước và
xuất
khẩu. Chuyển một phần doanh nghiệp gia công (may mặc, da giày...) và chế biến
nông sản
ở thành phố về nông thôn. Có chính sách ưu đãi để thu hút đầu tư của mọi thành
phần kinh
tế vào phát triển công nghiệp, dịch vụ ở nông thôn.
Trên cơ sở chuyển một bộ phận lao động nông nghiệp sang các ngành nghề khác,
từng bước tăng quỹ đất canh tác cho mỗi lao động nông nghiệp mở rộng quy mô sản
xuất, tăng việc làm và thu nhập cho dân cư nông thôn.
- Đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn theo hướng hình thành nền nông
nghiệp sản xuất hàng hóa lớn phù hợp với nhu cầu thị trường và điều kiện sinh
thái của
từng vùng, chuyển dịch cơ cấu ngành nghề, cơ cấu lao động, tạo việc làm thu hút
nhiều
lao động ở nông thôn. Đưa nhanh tiến bộ KH-CN vào sản xuất nông nghiệp đạt mức
tiên tiến trong khu vực về trình độ, công nghệ và về thu nhập trên một đơn vị
diện tích.
Tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của sản phẩm. Mở
rộng
thị trường tiêu thụ nông sản trong và ngoài nước, tăng đáng kể thị phần của các
nông
sản chủ lực trên thị trường thế giới.
Chú trọng điện khí hoá, cơ giới hoá ở nông thôn, phát triển mạnh công nghiệp chế
biến gắn với vùng nguyên liệu, cơ khí phục vụ nông nghiệp, công nghiệp gia công
và
dịch vụ; liên kết nông nghiệp-công nghiệp-dịch vụ trên từng địa bàn và trong cả
nước.
Tăng cường tiềm lực KH-CN trong nông nghiệp nhất là công nghệ sinh học kết
hợp với công nghệ thông tin. Chú trọng tạo và sử dụng giống cây, con có năng
suất,
chất lượng và giá trị cao. Đưa nhanh công nghệ mới vào sản xuất, thu hoạch, bảo
quản,
chế biến, vận chuyển và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, ứng dụng công nghệ sạch
trong
nuôi trồng, chế biến rau quả, thực phẩm. Hạn chế việc sử dụng hoá chất độc hại
trong
nông nghiệp, xây dựng một số khu nông nghiệp công nghệ cao, tăng cường đội ngũ,
nâng cao năng lực và phát huy tác dụng của cán bộ khuyến nông, khuyến lâm,
khuyến
ngư.
Tiếp tục phát triển và hoàn thiện hệ thống thuỷ lợi ngăn mặn, giữ ngọt, kiểm
soát
lũ, bảo đảm tưới, tiêu an toàn, chủ động cho sản xuất nông nghiệp (kể cả cây
công
nghiệp, nuôi trồng thủy sản) và đời sống nông dân. Đối với những khu vực thường
bị
bão lũ, cùng với các giải pháp hạn chế tác hại thiên tai, phải điều chỉnh quy
hoạch sản
xuất và dân cư thích nghi với điều kiện thiên nhiên, nâng cao năng lực dự báo
thời tiết
và khả năng chủ động phòng chống thiên tai, hạn chế thiệt hại.
Tăng đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội nông thôn, quy hoạch hợp lý
và nâng cao hiệu quả việc sử dụng quỹ đất, nguồn nước, vốn rừng gắn với bảo vệ
môi
trường. Quy hoạch các khu dân cư, phát triển các thị trấn, thị tứ, các điểm văn
hóa ở
làng xã, nâng cao đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần, xây dựng cuộc sống dân
chủ,
công bằng, văn minh ở nông thôn.
Thứ năm: Yêu cầu của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
Từ nội dung cụ thể của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp khiến
cho quá trình này phải tuân thủ những yêu cầu sau:
- Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp phải tạo ra được một cơ cấu
kinh tế mới hợp lý và có hiệu quả tức phải có khả năng tạo ra quá trình tái sản
xuất mở
rộng. Cơ cấu kinh tế phải đảm bảo được các tiêu chí sau:
Phải phù hợp với sự vận động của các quy luật kinh tế, chính trị - xã hội và tự
nhiên.
Phản ánh được khả năng khai thác nguồn nhân lực trong nước bao gồm cả tài
nguyên thiên nhiên, lao động, cơ sở vật chất kỹ thuật đáp ứng nhu cầu hội nhập
và hợp
tác kinh tế quốc tế.
Phù hợp với xu thế chính trị, kinh tế-xã hội của khu vực và thế giới.
- Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải đảm bảo ổn định, tạo ra sự cân đối
trong quá trình sản xuất, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của xã hội, phát triển và
chuyển
dịch cơ cấu kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội, khuyến khích
làm
giầu chính đáng theo pháp luật, đồng thời hỗ trợ người dân thoát nghèo, bảo đảm
phát
triển bền vững.
- Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải nhằm duy trì nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần. Trong đó kinh tế nhà nước (kể cả trong công nghiệp và dịch vụ
phục
vụ nông nghiệp) giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tập thể được đổi mới và phát triển
có hiệu
quả. Kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể từng bước vươn lên làm nền tảng từ đó
tạo điều
kiện phát huy vai trò của kinh tế hộ và củng cố khối liên minh công nhân, nông
dân, trí
thức.
- Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải nhằm đảm bảo triển khai thành công
quá trình CNH, HĐH thực hiện chiến lược hướng về xuất khẩu, gắn sản xuất với thị
trường, mở rộng sản xuất đi đôi với mở rộng thị trường tiêu thụ nông sản, đẩy
mạnh ứng
dụng tiến bộ KH-KT và công nghệ mới, nhất là công nghệ sinh học để nâng cao năng
suất, hạ giá thành. Không ngừng nâng cao hiệu quả kinh doanh trong nông nghiệp,
tăng
sức cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước, tăng sức mua của thị trường
nội địa.
Tạo ra nhiều sản phẩm hàng hóa để đẩy mạnh xuất khẩu, thay thế xuất khẩu những
mặt
hàng trong nước sản xuất có hiệu quả. Có chính sách khuyến khích và bảo hộ hợp
lý sản
xuất trong nước.
- Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải gắn với phát triển văn hóa xã hội:
Nâng cao dân trí, đào tạo nhân tài, bảo tài nguyên, cải thiện môi trường sinh
thái, xây
dựng nông thôn mới... Đổi mới kinh tế đi đôi với củng cố và hoàn thiện hệ thống
chính
trị ở nông thôn.
1.2.2. Đảng bộ tỉnh Hải Dương lãnh đạo thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa
1.2.2.1. Những thuận lợi và khó khăn
- Thuận lợi
Hải Dương nằm trong khu vực kinh tế trọng điểm phía Bắc, có vị trí địa lý thuận
lợi, hệ thống giao thông thuỷ, bộ phân bố tương đối hợp lý cho nên có nhiều lợi
thế
trong việc giao lưu hàng hóa từ vùng Bắc bộ với các nước trong khu vực và thế
giới.
Có điều kiện tự nhiên: đất đai, khí hậu, sông ngòi, nguồn nước ngọt, ... thuận
lợi cho
việc phát triển nông nghiệp. Sản phẩm lương thực, thực phẩm lớn không chỉ đáp
ứng nhu
cầu tiêu dùng nội tỉnh mà còn cung cấp cho các tỉnh, thành trong khu vực và
hướng mạnh
đến xuất khẩu. Trong khi đó nhu cầu của thị trường đối với các mặt hàng này tiếp
tục tăng.
Nếu Hải Dương tạo ra được năng lực mạnh trong chế biến thì các sản phẩm này sẽ
có khả
năng mở rộng thị trường.
Lực lượng lao động dồi dào, cần cù, trình độ dân trí khá, có truyền thống và
kinh
nghiệm trong sản xuất nông nghiệp, có khả năng tiếp thu tiến bộ KH-CN nhanh, khả
năng sáng tạo cao, có một bộ phận dân cư và đội ngũ cán bộ quản lý đã bước đầu
tiếp
cận và làm quen với nền sản xuất hàng hóa và cơ chế thị trường. Nếu được đào
tạo, bồi
dưỡng và có chính sách sử dụng tốt thì nguồn nhân lực của tỉnh sẽ trở thành một
trong
những nội lực quan trọng góp phần đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông
nghiệp theo hướng CNH, HĐH.
- Khó khăn
Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp đã có dấu hiệu khởi sắc nhưng còn
chậm, quy mô sản xuất nhỏ lẻ, manh mún, trong nông nghiệp tỷ trọng chăn nuôi,
cây công
nghiệp và rau quả tăng chậm. Các vùng chuyên canh chưa được hình thành rõ rệt,
kinh tế
hộ phát triển song mang nặng tính tiểu nông, chưa chuyển mạnh sang kinh tế hàng
hóa,
chưa có nhiều mô hình tốt, dẫn tới chủng loại nông sản thì nhiều nhưng khối
lượng từng
loại ít, chất lượng thấp, giá thành cao, không đáp ứng được nhu cầu của công
nghiệp chế
biến và tổ chức tiêu thụ.
Trình độ sản xuất trong nông nghiệp còn lạc hậu, chủ yếu vẫn là lao động thủ
công, sản xuất nhỏ, phân tán. Tỷ trọng cơ giới hoá, điện khí hoá trong các khâu
sản xuất
còn thấp, lao động thủ công vẫn chiếm tỷ trọng lớn.
Tiềm năng trong nông nghiệp chưa được phát huy, hiệu quả thấp. Giá trị thu nhập
bình quân/ha đất canh tác còn thấp, bình quân toàn tỉnh đạt 22 - 25 triệu
đồng/năm. Các cây
công nghiệp, rau màu, thực phẩm có giá trị cao phát triển chưa mạnh. Diện tích
đất trũng
ven sông, ao hồ trong khu dân cư, vườn trong đất thổ cư, đất trồng rừng,....
nhiều nơi chưa
được khai thác có hiệu quả, còn lãng phí lớn, tỷ lệ lao động trong nông nghiệp
còn cao
chiếm gần 80%, ruộng đất bình quân đầu người thấp (543 m
2
/nhân khẩu), chăn nuôi, ngành
nghề tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ chưa phát triển, sản xuất nông nghiệp mang
tính thời vụ
nên lao động nông nghiệp, nông thôn sử dụng tối đa 70% thời gian làm việc, tình
trạng
thiếu việc làm trong nông thôn còn là vấn đề gay gắt. Lực lượng cán bộ có trình
độ đại học,
cao đẳng, trung học nông nghiệp chưa được quản lý sử dụng hiệu quả. Chưa có
chính sách
khuyến khích họ về làm việc tại nông thôn.
Việc khai thác, huy động các nguồn vốn để đầu tư trong nhân dân chưa tốt. Vốn
ngân sách đầu tư chưa tập trung, dứt điểm. Nguồn vốn tín dụng chưa được khai
thác
triệt để, giải ngân chậm có lúc có nơi ngân hàng ứ đọng vốn, nông dân thì thiếu
vốn sản
xuất. Việc khuyến khích thu hút vốn đầu tư từ bên ngoài vào nông nghiệp còn hạn
chế.
Cơ sở hạ tầng phục vụ nông nghiệp chưa đồng bộ, chất lượng thấp như một số
công trình thuỷ lợi phục vụ tưới, tiêu nước được thiết kế với hệ số tiêu chí
không hợp lý
gây lãng phí vốn đầu tư.
Sức cạnh tranh của nông sản hàng hóa thấp, việc tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp
theo hướng xuất khẩu hàng hóa chưa được quan tâm đúng mức, thiếu sức hấp dẫn và
cuốn hút phát triển nông nghiệp.