Luận văn " CẢI CÁCH HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TRUNG QUỐC VÀ NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM "

530
608
117
80
1.2. Mục tiêu tổng quát của chiến lược tổng thể phát triển ngành NHTM
Việt Nam
Xuất phát từ thực trạng một diện mạo tổng quan của hoạt động tiền tệ
đã trải qua gần 15 năm đổi mới, theo tinh thần nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ
IX là: 10 năm tăng gấp đôi GDP, pháp điển hoá rõ nét cơ chế thị trường có sự
quản mô của Nhà nước theo định hướng XHCN, chuyển mạnh cấu
kinh tế theo hướng Công nghiệp hoá- hiện đại hoá, chủ động hội nhập quốc tế,
đồng thời củng cố quốc phòng an ninh, gi vững chủ quyền dân tộc,n định
chính trvà trật tự xã hội- Tạo chuyển biến mạnh mẽ trong việc xây dựng thể
chế lành mạnh, công bằng, cải thiện rõ rệt đời sống vật chất, văn hoá tinh thần
của nhân dân, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân
chủ văn minh.
Từ đó, xác định mục tiêu tổng quát của chiến lược phát triển ngành
ngân hàng Việt Nam đến năm 2010. Kiên quyết thực hiện cơ cấu lại hệ thống
NHTM theo các đề án được Chính phủ phê duyệt và phợp với cam kết đối
với các tổ chức tài chính quốc tế nhằm tạo ra các ngân hàng có quy mô đủ lớn,
hoạt động an toàn, hiệu quả, đsức cạnh tranh trong nước và quc tế: Cụ thể
là:
- cấu lại tổ chức theo hướng ch hoàn toàn các hot động cho
vay theo chính sách của Nhà nước ra khỏi hoạt động kinh doanh của các
NHTM thông qua việc thành lập một số ngân hàng chính sách để các NHTM
chủ động thực hiện tốt chức năng kinh doanh theo nguyên tắc thị trường. Nâng
cao quyền tự chủ, tự quyết và t chịu trách nhiệm kinh doanh của các NHTM,
giảm thiểu bao cấp và bảo hộ trong hệ thống ngân hàng.
- cấu lại về tài chính: Thực hiện tăng vốn điều lệ và x lý dứt
điểm nợ tồn đọng của các NHTM nhằm lành mạnh hoá tài chính, nâng cao kh
năng chống chọi rủi ro và khnăng cạnh tranh. Đối vối NHTM QD, thực hện
bsung đủ vốn điều lệ để dần đạt được tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu 8%, phấn
80 1.2. Mục tiêu tổng quát của chiến lược tổng thể phát triển ngành NHTM Việt Nam Xuất phát từ thực trạng một diện mạo tổng quan của hoạt động tiền tệ đã trải qua gần 15 năm đổi mới, theo tinh thần nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX là: 10 năm tăng gấp đôi GDP, pháp điển hoá rõ nét cơ chế thị trường có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước theo định hướng XHCN, chuyển mạnh cơ cấu kinh tế theo hướng Công nghiệp hoá- hiện đại hoá, chủ động hội nhập quốc tế, đồng thời củng cố quốc phòng an ninh, giữ vững chủ quyền dân tộc, ổn định chính trị và trật tự xã hội- Tạo chuyển biến mạnh mẽ trong việc xây dựng thể chế lành mạnh, công bằng, cải thiện rõ rệt đời sống vật chất, văn hoá tinh thần của nhân dân, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh. Từ đó, xác định mục tiêu tổng quát của chiến lược phát triển ngành ngân hàng Việt Nam đến năm 2010. Kiên quyết thực hiện cơ cấu lại hệ thống NHTM theo các đề án được Chính phủ phê duyệt và phù hợp với cam kết đối với các tổ chức tài chính quốc tế nhằm tạo ra các ngân hàng có quy mô đủ lớn, hoạt động an toàn, hiệu quả, đủ sức cạnh tranh trong nước và quốc tế: Cụ thể là: - Cơ cấu lại tổ chức theo hướng tách hoàn toàn các hoạt động cho vay theo chính sách của Nhà nước ra khỏi hoạt động kinh doanh của các NHTM thông qua việc thành lập một số ngân hàng chính sách để các NHTM chủ động thực hiện tốt chức năng kinh doanh theo nguyên tắc thị trường. Nâng cao quyền tự chủ, tự quyết và tự chịu trách nhiệm kinh doanh của các NHTM, giảm thiểu bao cấp và bảo hộ trong hệ thống ngân hàng. - Cơ cấu lại về tài chính: Thực hiện tăng vốn điều lệ và xử lý dứt điểm nợ tồn đọng của các NHTM nhằm lành mạnh hoá tài chính, nâng cao khả năng chống chọi rủi ro và khả năng cạnh tranh. Đối vối NHTM QD, thực hện bổ sung đủ vốn điều lệ để dần đạt được tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu 8%, phấn
81
đấu đến cuối năm 2005, hoàn thành x nợ tồn đọng. Đối với NHTM CP,
cần tăng vốn điều lệ thông qua sáp nhập, hợp nhất, phát hành b sung cổ
phiếu. Những NHTM CP hoạt động quá yếu kém, không thể tăng vốn điều lệ
và không khắc phục được những yếu kém về tài chính thì có thể bị thu hồi giấy
phép hoạt động. Nâng cao chất lượng và hiệu quả kinh doanh, giảm tỷ lệ nợ
quá hạn xuống mức an toàn (dưới 2%). Phối hợp đồng bộ giữa cải cách ngân
hàng và ci cách hệ thống doanh nghiệp, nhất là DNNN, trong đó trọng tâm là
gắn xử lý nợ của hệ thống ngân hàng với xử lý nợ của DNNN.
-cấu lại hoạt động và giám sát ngân hàng: Từng ngân hàng phải
xây dựng và thực hiện chiến lược kinh doanh mới, trong đó chú trọng việc mở
rộng quy hoạt động, nâng cao khả năng cạnh tranh, hiện đại hoá công
nghệ, đa dạng hoá nâng cao tiện ích các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng hiện
đại dựa trên nn kỹ thuật công nghệ tiên tiến. y dựng các định chế quản
và đảm bảo an toàn hoạt động phù hợp với chuẩn mực quốc tế như quản trị rủi
ro, quản trị tài sản nợ/có, quản trị vốn, kiểm toán nội bộ…Xây dựng hệ thống
kế toán và thiết lập các chỉ tiêu, o cáo tài chính phợp với chuẩn mực kế
toán hiện đại. Có kế hoạch phát triển nguồn nhân lực, cả về chuyên môn, ngoại
ngữ, tin học, đáp ứng yêu cầu hội nhập và cạnh tranh quốc tế.
2. Chiến lược hội nhập quốc tế của ngành ngân hàng
2.1. Quan điểm chiến lược về hội nhập kinh tế quốc tế ngành ngân hàng
Nền kinh tế thế giới đang trong quá trình toàn cầu hoá, các nước
đang rất tích cực tham gia vào quá trình hội nhập nền kinh tế quốc tế. Việt
Nam cũng đang chủ động tham gia vào quá trình hi nhập ấy, trong đó có hội
nhập quốc tế về ngân hàng. Việt Nam đã tham gia các thoả thuận song phương
đa phương như AFTA, WTO, APEC, Hiệp định Thương mại Việt Mỹ và
đang trong quá trình đàm phán gia nhập WTO.
Quán triệt quan điểm và chtrương hội nhập quốc tế lĩnh vực ngân
hàng, ci cách ngân hàng phải được tiến hành toàn diện đồng bộ với cải
81 đấu đến cuối năm 2005, hoàn thành xử lý nợ tồn đọng. Đối với NHTM CP, cần tăng vốn điều lệ thông qua sáp nhập, hợp nhất, phát hành bổ sung cổ phiếu. Những NHTM CP hoạt động quá yếu kém, không thể tăng vốn điều lệ và không khắc phục được những yếu kém về tài chính thì có thể bị thu hồi giấy phép hoạt động. Nâng cao chất lượng và hiệu quả kinh doanh, giảm tỷ lệ nợ quá hạn xuống mức an toàn (dưới 2%). Phối hợp đồng bộ giữa cải cách ngân hàng và cải cách hệ thống doanh nghiệp, nhất là DNNN, trong đó trọng tâm là gắn xử lý nợ của hệ thống ngân hàng với xử lý nợ của DNNN. - Cơ cấu lại hoạt động và giám sát ngân hàng: Từng ngân hàng phải xây dựng và thực hiện chiến lược kinh doanh mới, trong đó chú trọng việc mở rộng quy mô hoạt động, nâng cao khả năng cạnh tranh, hiện đại hoá công nghệ, đa dạng hoá và nâng cao tiện ích các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng hiện đại dựa trên nền kỹ thuật công nghệ tiên tiến. Xây dựng các định chế quản lý và đảm bảo an toàn hoạt động phù hợp với chuẩn mực quốc tế như quản trị rủi ro, quản trị tài sản nợ/có, quản trị vốn, kiểm toán nội bộ…Xây dựng hệ thống kế toán và thiết lập các chỉ tiêu, báo cáo tài chính phù hợp với chuẩn mực kế toán hiện đại. Có kế hoạch phát triển nguồn nhân lực, cả về chuyên môn, ngoại ngữ, tin học, đáp ứng yêu cầu hội nhập và cạnh tranh quốc tế. 2. Chiến lược hội nhập quốc tế của ngành ngân hàng 2.1. Quan điểm chiến lược về hội nhập kinh tế quốc tế ngành ngân hàng Nền kinh tế thế giới đang trong quá trình toàn cầu hoá, các nước đang rất tích cực tham gia vào quá trình hội nhập nền kinh tế quốc tế. Việt Nam cũng đang chủ động tham gia vào quá trình hội nhập ấy, trong đó có hội nhập quốc tế về ngân hàng. Việt Nam đã tham gia các thoả thuận song phương và đa phương như AFTA, WTO, APEC, Hiệp định Thương mại Việt Mỹ và đang trong quá trình đàm phán gia nhập WTO. Quán triệt quan điểm và chủ trương hội nhập quốc tế lĩnh vực ngân hàng, cải cách ngân hàng phải được tiến hành toàn diện và đồng bộ với cải
82
cách các khu vực kinh tế khác, coi đó là cơ sở để nhanh chóng củng cố và tăng
cường sức mạnh của hệ thống ngân hàng, đảm bảo khả năng cạnh tranh trên th
trường trong nước và quốc tế. Mặt khác, phải cải cách triệt để thông qua việc
hoàn thiện hệ thống luật pháp nhằm tạo hành lang pháp hiệu lực, đảm
bảo sự bình đẳng giữa các đối tác, gây sức ép đổi mới và tăng hiêu quả lên các
NHTM như giảm chi phí, nâng cao chất lượng dịch vụ, có khả năng tự bảo vệ
trước cạnh tranh quốc tế trong quá trình hội nhập. Các chính sách đưa ra phải
gắn với điều kiện quốc tế, nhất là về tỷ giá, lãi suất và phải đảm bảo quyền lợi
của các quốc gia đối tác
Tự do hoá có trật tự, trong đó việc xoá bỏ bảo hộ và sự phân biệt đối
xử về hoạt động ngân hàng trong nước phải đi trước một bước so với cơ chế tự
do hoá áp dụng chung đối với các định chế tài chính nước ngoài. Trước hết
chuyển đổi cơ chế và thchế hoạt động ngân hàng trong nước nhằm tăng sức
cạnh tranh, tạo điều kiện tự do hoá thương mại, dịch vụ và đầu tư đã cam kết.
Trong quá trình hội nhập, Việt Nam phải tận dụng tối đa vị thế của
một nước đang phát triển trong đàm pn song phương và đa phương để được
hưởng những ưu đãi hoặc nhượng bộ trong việc thực hiện nghĩa vụ của một
thành viên (về phạm vi, mức độ, lộ trình cam kết), có đủ thời gian để tái cơ cấu
tăng cường sức cạnh tranh quốc tế, bước chuẩn bị cần thiết cho một thị
trường được tự do hoá hoàn toàn. Việc mở cửa và nới lỏng ràng buộc tài chính
đối với các ngân hàng nước ngoài nên được bắt đầu từ các quy định v tín
dụng- lĩnh vực các NHTM trong nước khả năng cạnh tranh và từng
bước mở rộng sang các lĩnh vực khác dựa trên sự lớn mạnh của hệ thống ngân
hàng Việt Nam.
2.2. Nội dung hội nhập
(1)- Tdo hoá hoạt động ngân hàng, tạo sân chơi bình đẳng về ngân
hàng: Nới lỏng điều kiện tham gia các hoạt động NHTM đi đôi với việc thiết
lập một cơ chế thị trường hoạt động hiệu quả gồm: tự do hoá lãi suất, chuyển
82 cách các khu vực kinh tế khác, coi đó là cơ sở để nhanh chóng củng cố và tăng cường sức mạnh của hệ thống ngân hàng, đảm bảo khả năng cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế. Mặt khác, phải cải cách triệt để thông qua việc hoàn thiện hệ thống luật pháp nhằm tạo hành lang pháp lý có hiệu lực, đảm bảo sự bình đẳng giữa các đối tác, gây sức ép đổi mới và tăng hiêu quả lên các NHTM như giảm chi phí, nâng cao chất lượng dịch vụ, có khả năng tự bảo vệ trước cạnh tranh quốc tế trong quá trình hội nhập. Các chính sách đưa ra phải gắn với điều kiện quốc tế, nhất là về tỷ giá, lãi suất và phải đảm bảo quyền lợi của các quốc gia đối tác Tự do hoá có trật tự, trong đó việc xoá bỏ bảo hộ và sự phân biệt đối xử về hoạt động ngân hàng trong nước phải đi trước một bước so với cơ chế tự do hoá áp dụng chung đối với các định chế tài chính nước ngoài. Trước hết chuyển đổi cơ chế và thể chế hoạt động ngân hàng trong nước nhằm tăng sức cạnh tranh, tạo điều kiện tự do hoá thương mại, dịch vụ và đầu tư đã cam kết. Trong quá trình hội nhập, Việt Nam phải tận dụng tối đa vị thế của một nước đang phát triển trong đàm phán song phương và đa phương để được hưởng những ưu đãi hoặc nhượng bộ trong việc thực hiện nghĩa vụ của một thành viên (về phạm vi, mức độ, lộ trình cam kết), có đủ thời gian để tái cơ cấu và tăng cường sức cạnh tranh quốc tế, là bước chuẩn bị cần thiết cho một thị trường được tự do hoá hoàn toàn. Việc mở cửa và nới lỏng ràng buộc tài chính đối với các ngân hàng nước ngoài nên được bắt đầu từ các quy định về tín dụng- lĩnh vực mà các NHTM trong nước có khả năng cạnh tranh và từng bước mở rộng sang các lĩnh vực khác dựa trên sự lớn mạnh của hệ thống ngân hàng Việt Nam. 2.2. Nội dung hội nhập (1)- Tự do hoá hoạt động ngân hàng, tạo sân chơi bình đẳng về ngân hàng: Nới lỏng điều kiện tham gia các hoạt động NHTM đi đôi với việc thiết lập một cơ chế thị trường hoạt động hiệu quả gồm: tự do hoá lãi suất, chuyển
83
tín dụng sang chế thị trường thực sự, đảm bảo quyền tự quyết của các
NHTM trong cho vay, đảm bảo một môi trường kinh doanh ngân hàng bình
đẳng và thống nhất.
(2)- Từng bước nới lỏng quản lý ngoại hối và thả nổi tỷ giá hối đoái:
Cải cách chế độ quản lý ngoại hối với tiến trình t do hoá các giao dịch vãng
lai t do hoá chọn lọc các giao dịch vốn; Thiết lập khuôn khổ pháp
cho chu chuyển vốn quốc tế dễ dàng và khuyến khích đầu nước ngoài; Cải
cách chế độ tỷ giá hối đoái phù hợp với quan hệ cung cầu ngoại tệ, từng bước
tiến tới áp dụng chế độ tỷ giá thả nổi có kiểm soát theo nguyên tắc thị trường.
(3)- Tham gia các tchức thương mại quốc tế và khu vực, ký kết các
hiệp định song phương và đa phương.
2.3. Lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế của ngành ngân hàng Việt Nam
th chia ltrình hội nhập kinh tế quốc tế về ngân hàng theo ba
giai đoạn quan trọng với các nội dung như sau:
(1)- Giai đoạn từ nay đến năm 2005. Trọng tâm của giai đoạn này là
thực hiện các cam kết trong Hiệp định Thương mại Việt M, cụ thể là từng
bước cho phép các nhà cung cấp dịch vụ tài chính Hoa Kcung cấp 12 phân
ngành dịch vụ tại Việt Nam theo lộ trình 7 mc. Trước mắt, nới lỏng các hạn
chế đối với ngân hàng Hoa K v nhận tiền gửi, cho phép phát triển một số
loại hình tín dụng và thanh toán, tiếp cận nghiệp vụ tái cấp vốn của NHTW,
tham gia hoạt động vấn và i giới kinh doanh ngoại tệ. Trong giai đoạn
này, Việt Nam cũng chuẩn bị đàm phán theo yêu cầu của GATS để gia nhập
WTO.
(2)- Giai đoạn 2006-2010. Nội dung quan trọng về hội nhập kinh tế
quốc tế của giai đoạn này tiếp tục thực thi các cam kết trong Hiệp định
Thương mại Việt- Mỹ, bắt đầu thực hiện Hiệp định chung về thương mại dịch
vụ (GATS) của WTO theo hướng thực hiện các hiệp định song phương đã
kết với các nước thành viên WTO, đồng thời bắt đầu thực hiện các yêu cầu đã
83 tín dụng sang cơ chế thị trường thực sự, đảm bảo quyền tự quyết của các NHTM trong cho vay, đảm bảo một môi trường kinh doanh ngân hàng bình đẳng và thống nhất. (2)- Từng bước nới lỏng quản lý ngoại hối và thả nổi tỷ giá hối đoái: Cải cách chế độ quản lý ngoại hối với tiến trình tự do hoá các giao dịch vãng lai và tự do hoá có chọn lọc các giao dịch vốn; Thiết lập khuôn khổ pháp lý cho chu chuyển vốn quốc tế dễ dàng và khuyến khích đầu tư nước ngoài; Cải cách chế độ tỷ giá hối đoái phù hợp với quan hệ cung cầu ngoại tệ, từng bước tiến tới áp dụng chế độ tỷ giá thả nổi có kiểm soát theo nguyên tắc thị trường. (3)- Tham gia các tổ chức thương mại quốc tế và khu vực, ký kết các hiệp định song phương và đa phương. 2.3. Lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế của ngành ngân hàng Việt Nam Có thể chia lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế về ngân hàng theo ba giai đoạn quan trọng với các nội dung như sau: (1)- Giai đoạn từ nay đến năm 2005. Trọng tâm của giai đoạn này là thực hiện các cam kết trong Hiệp định Thương mại Việt – Mỹ, cụ thể là từng bước cho phép các nhà cung cấp dịch vụ tài chính Hoa Kỳ cung cấp 12 phân ngành dịch vụ tại Việt Nam theo lộ trình 7 mốc. Trước mắt, nới lỏng các hạn chế đối với ngân hàng Hoa Kỳ về nhận tiền gửi, cho phép phát triển một số loại hình tín dụng và thanh toán, tiếp cận nghiệp vụ tái cấp vốn của NHTW, tham gia hoạt động tư vấn và môi giới kinh doanh ngoại tệ. Trong giai đoạn này, Việt Nam cũng chuẩn bị đàm phán theo yêu cầu của GATS để gia nhập WTO. (2)- Giai đoạn 2006-2010. Nội dung quan trọng về hội nhập kinh tế quốc tế của giai đoạn này là tiếp tục thực thi các cam kết trong Hiệp định Thương mại Việt- Mỹ, bắt đầu thực hiện Hiệp định chung về thương mại dịch vụ (GATS) của WTO theo hướng thực hiện các hiệp định song phương đã ký kết với các nước thành viên WTO, đồng thời bắt đầu thực hiện các yêu cầu đã
84
cam kết trong hiệp định khung về thương mại dịch vụ (AFAS) của ASEAN.
Cthể là tiếp tục mở cửa dịch vụ ngân hàng hình thức pháp trong hoạt
động ngân hàng đối với các trung gian tài chính Hoa Kỳ, đảm bảo đến năm
2010, các ngân hàng Hoa Kỳ được đối xử như đối với các trung gian tài chính
trong ớc. Đối với các nước thành viên WTO (không k Mỹ) các nước
ASEAN, lộ trình mở cửa dịch vụ tài chính- ngân hàng bắt đầu được thực hiện
với nội dung tương tự như giai đoạn 2001-2005. Cạnh tranh quyết liệt hơn
(mặc dù vẫn sự can thiệp nhất định của NHNN do Việt Nam được hưởng
những ưu đãi nhất định đối với nước đang phát triển), cả về loại hình chất
lượng dịch vụ, những khống chế hoạt động đối với các trung gian tài chính
nước ngoài đã giảm rõ rt.
(3)- Giai đoạn 2011-2020. Tiếp tục thực hiện những yêu cầu còn lại
của GATS và AFAS về mở cửa dịch vụ tài chính ngân hàng.
Theo các cam kết quốc tế đó, Việt Nam đã chủ động từng bước tự do
hoá hơn nữa khu vực ngân hàng;
+ Nới lỏng hạn chế đối với ngân hàng nước ngoài: Hiện tại, Việt
Nam vẫn thực hiện hạn chế các ngân hàng nước ngoài vhuy động nội tệ và
phạm vi địa hoạt động. Riêng vgiao dịch VND của các ngân hàng nước
ngoài đã được mở dần: đến nay các ngân hàng liên doanh hoạt động bình đẳng
như các NHTM khác của Việt Nam; các chi nhánh ngân hàng ớc ngoài đã
nới rộng hơn (từ mức được huy động VND của các pháp nhân không quan
htín dụng, không quá 10% n 20% đến 25% mức vốn được cấp; hiện tại
NHNN đã trình Chính phủ tăng mức này lên 50%)
+ Một số nhà đầu tư nước ngoài đã tham gia o NHTM CP, tuy
nhiên mức độ còn thấp (VPBank, ACB và SACOMBANK)
+ L trình cam kết đối với khu vực ngân hàng tnay đến năm 2010
như các cam kết trong hiệp định thương mại Việt Mỹ đang được NHNN chủ
động thực hiện nghiêm chỉnh; không hạn chế các chi nhánh ngân hàng ớc
84 cam kết trong hiệp định khung về thương mại dịch vụ (AFAS) của ASEAN. Cụ thể là tiếp tục mở cửa dịch vụ ngân hàng và hình thức pháp lý trong hoạt động ngân hàng đối với các trung gian tài chính Hoa Kỳ, đảm bảo đến năm 2010, các ngân hàng Hoa Kỳ được đối xử như đối với các trung gian tài chính trong nước. Đối với các nước thành viên WTO (không kể Mỹ) và các nước ASEAN, lộ trình mở cửa dịch vụ tài chính- ngân hàng bắt đầu được thực hiện với nội dung tương tự như giai đoạn 2001-2005. Cạnh tranh quyết liệt hơn (mặc dù vẫn có sự can thiệp nhất định của NHNN do Việt Nam được hưởng những ưu đãi nhất định đối với nước đang phát triển), cả về loại hình và chất lượng dịch vụ, những khống chế hoạt động đối với các trung gian tài chính nước ngoài đã giảm rõ rệt. (3)- Giai đoạn 2011-2020. Tiếp tục thực hiện những yêu cầu còn lại của GATS và AFAS về mở cửa dịch vụ tài chính ngân hàng. Theo các cam kết quốc tế đó, Việt Nam đã chủ động từng bước tự do hoá hơn nữa khu vực ngân hàng; + Nới lỏng hạn chế đối với ngân hàng nước ngoài: Hiện tại, Việt Nam vẫn thực hiện hạn chế các ngân hàng nước ngoài về huy động nội tệ và phạm vi địa lý hoạt động. Riêng về giao dịch VND của các ngân hàng nước ngoài đã được mở dần: đến nay các ngân hàng liên doanh hoạt động bình đẳng như các NHTM khác của Việt Nam; các chi nhánh ngân hàng nước ngoài đã nới rộng hơn (từ mức được huy động VND của các pháp nhân không có quan hệ tín dụng, không quá 10% lên 20% đến 25% mức vốn được cấp; hiện tại NHNN đã trình Chính phủ tăng mức này lên 50%) + Một số nhà đầu tư nước ngoài đã tham gia vào NHTM CP, tuy nhiên mức độ còn thấp (VPBank, ACB và SACOMBANK) + Lộ trình cam kết đối với khu vực ngân hàng từ nay đến năm 2010 như các cam kết trong hiệp định thương mại Việt Mỹ đang được NHNN chủ động thực hiện nghiêm chỉnh; không hạn chế các chi nhánh ngân hàng nước
85
ngoài tại Việt nam (huy động VND, phạm vi hoạt động, dịch vụ ngân hàng,
mua c phần Việt Nam); cho phép các ngân hàng niêm yết trên th trường
chứng khoán để các nhà đầu tư dễ dàng tham gia vào khu vực ngân hàng.
H thống ngân hàng Việt Nam hoạt động bình đẳng với các ngân
hàng nước ngoài đảm bảo hiệu quả, an toàn, đáp ứng nhu cầu về vốn và thanh
toán chủ yếu của nền kinh tế, đồng thời đã có vai trò nhất định trên thị trường
tài chính khu vực và quốc tế.
II. CÁC GIẢI PHÁP NHẰM CẢI CÁCH HỆ THỐNG NHTM VIỆT NAM
Việt Nam và Trung Quốc đều tiến hành cải cách và đổi mới đất nước
trênsở của cuộc khủng hoảng kinh tế và xã hội có nguồn gốc từ cơ chế kế
hoạch hoá tập trung. Nền kinh tế của Trung Quốc và Việt Nam về cơ bản cũng
giống như tất cả những nền kinh tế của hệ thống này, trước hết là về cơ cấu sở
hữu, cách thức tổ chức và vận hành toàn bcác hoạt động kinh tế. Do đó, đòi
hỏi phải một cuộc cải cách toàn diện và triệt để mang tính hệ thống, đặc
biệt, trong lĩnh vực ngân hàng- một lĩnh vực mà cả hai nước đều bị đánh giá là
trì trvà kém phát triển. Trước tình hình ấy, Trung Quốc đã n lực cải cách
toàn diện hệ thống ngân hàng của mình đã đạt được những thành tưu đáng
kể. Từ những kinh nghiệm của Trung Quốc- một đất nước có nhiều nét tương
đồng với Việt Nam, vận dụng vào hoàn cảnh thực tế của nước mình, Vit Nam
đã tiến hành công cuộc cải cách, đổi mới hệ thống ngân hàng nhm đưa hệ
thống ngân hàng Việt Nam hội nhập với khu vực và quốc tế.
1. Cải cách khuôn khổ pháp lý về hoạt động ngân hàng
Trong điều kiện kinh tế thị trường mở cửa hội nhập, đặc biệt là trong
lĩnh vực tài chính, ngân hàng, h thống pháp luật đòi hỏi phải rõ ràng minh
bạch và tính thực thi cao. Theo nguyên tắc đó, Ngân hàng Nhà nước
(NHNN) đã đặc biệt quan tâm đến việc xác lập một i trường, khuôn kh
pháp lý rõ ràng, có hiệu lực cũng như phù hợp với các thông lệ quốc tế. Trong
85 ngoài tại Việt nam (huy động VND, phạm vi hoạt động, dịch vụ ngân hàng, mua cổ phần Việt Nam); cho phép các ngân hàng niêm yết trên thị trường chứng khoán để các nhà đầu tư dễ dàng tham gia vào khu vực ngân hàng. Hệ thống ngân hàng Việt Nam hoạt động bình đẳng với các ngân hàng nước ngoài đảm bảo hiệu quả, an toàn, đáp ứng nhu cầu về vốn và thanh toán chủ yếu của nền kinh tế, đồng thời đã có vai trò nhất định trên thị trường tài chính khu vực và quốc tế. II. CÁC GIẢI PHÁP NHẰM CẢI CÁCH HỆ THỐNG NHTM VIỆT NAM Việt Nam và Trung Quốc đều tiến hành cải cách và đổi mới đất nước trên cơ sở của cuộc khủng hoảng kinh tế và xã hội có nguồn gốc từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung. Nền kinh tế của Trung Quốc và Việt Nam về cơ bản cũng giống như tất cả những nền kinh tế của hệ thống này, trước hết là về cơ cấu sở hữu, cách thức tổ chức và vận hành toàn bộ các hoạt động kinh tế. Do đó, đòi hỏi phải có một cuộc cải cách toàn diện và triệt để mang tính hệ thống, đặc biệt, trong lĩnh vực ngân hàng- một lĩnh vực mà cả hai nước đều bị đánh giá là trì trệ và kém phát triển. Trước tình hình ấy, Trung Quốc đã nỗ lực cải cách toàn diện hệ thống ngân hàng của mình và đã đạt được những thành tưu đáng kể. Từ những kinh nghiệm của Trung Quốc- một đất nước có nhiều nét tương đồng với Việt Nam, vận dụng vào hoàn cảnh thực tế của nước mình, Việt Nam đã tiến hành công cuộc cải cách, đổi mới hệ thống ngân hàng nhằm đưa hệ thống ngân hàng Việt Nam hội nhập với khu vực và quốc tế. 1. Cải cách khuôn khổ pháp lý về hoạt động ngân hàng Trong điều kiện kinh tế thị trường mở cửa hội nhập, đặc biệt là trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, hệ thống pháp luật đòi hỏi phải rõ ràng minh bạch và có tính thực thi cao. Theo nguyên tắc đó, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã đặc biệt quan tâm đến việc xác lập một môi trường, khuôn khổ pháp lý rõ ràng, có hiệu lực cũng như phù hợp với các thông lệ quốc tế. Trong
86
đó nguyên tắc là đảm bảo sự hoạt động an toàn, hiệu quả, tự chịu trách nhiệm,
đảm bảo môi trường cạnh tranh bình đẳng…Cụ thể là:
- Hoàn chỉnh hệ thống pháp luật về ngân hàng, đặc biệt là Luật sửa
đổi Luật các tổ chức tín dụng đang ch phê duyệt; hoàn thiện văn bản pháp
luật về chống rửa tiền
- Các văn bản của Thống đốc NHNN đã được ban hành nhằm xác lập
môi trường kinh doanh ngân hàng bình đẳng hơn giữa các ngân hàng, đảm bảo
sđộc lập trong hoạt động kinh doanh trong khuôn kh pháp luật: Tự quyết
định lãi suất và mức độ rủi ro đối với khách hàng (cơ chế lãi suất thoả thuận-
Quyết định số 546/2002/QĐ-NHNN); t quyết về tài sản bảo đảm tiền vay
(Nghị định 85/2002/NĐ-CP)
- Một số văn bản pháp luật liên quan đến hoạt động ngân hàng như:
Ngh định 05/2001/CP sửa đổi, b sung Nghị định 63 về quản ngoại hối;
Ngh định 16/2001/CP về tổ chức và hoạt động của công ty thuê tài chính;
Nghị định 64/2001/CP về hoạt động thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch
vụ thanh toán; Nghị định 85/2002/CP bổ sung cho Nghị định 178/1999/NĐ-CP
về bảo đảm tiền vay…
- NHNN đã xây dựng một số dự thảo văn bản pháp quy mới nhằm
điều chỉnh những nghiệp vụ mới phát sinh như nghiệp vụ môi giới tiền tệ,
thanh toán trừ; điều chỉnh, sửa đổi một số n bản pháp quy nQuy chế
cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng, điều lệ mẫu về tổ chức và
hoạt động của ngân hàng liên doanh, quy định về quản lý ngoại hối đối với đầu
chứng khoán, thực hiện chuyển Ngân hàng phục vụ người nghèo thành
Ngân hàng chính sách…
- Điều chỉnh một số văn bản pháp luật cho phù hợp với các cam kết
quốc tế, đặc biệt đối với Hiệp định thương mại Việt Mỹ, NHNN đã tiến
hành rà soát các văn bản, đối chiếu với nội dung ký kết, đưa vào kế hoạch sửa
đổi, bổ sung nhằm thực thi Hiệp định theo đúng lộ trình cam kết.
86 đó nguyên tắc là đảm bảo sự hoạt động an toàn, hiệu quả, tự chịu trách nhiệm, đảm bảo môi trường cạnh tranh bình đẳng…Cụ thể là: - Hoàn chỉnh hệ thống pháp luật về ngân hàng, đặc biệt là Luật sửa đổi Luật các tổ chức tín dụng đang chờ phê duyệt; hoàn thiện văn bản pháp luật về chống rửa tiền… - Các văn bản của Thống đốc NHNN đã được ban hành nhằm xác lập môi trường kinh doanh ngân hàng bình đẳng hơn giữa các ngân hàng, đảm bảo sự độc lập trong hoạt động kinh doanh trong khuôn khổ pháp luật: Tự quyết định lãi suất và mức độ rủi ro đối với khách hàng (cơ chế lãi suất thoả thuận- Quyết định số 546/2002/QĐ-NHNN); tự quyết về tài sản bảo đảm tiền vay (Nghị định 85/2002/NĐ-CP) - Một số văn bản pháp luật liên quan đến hoạt động ngân hàng như: Nghị định 05/2001/CP sửa đổi, bổ sung Nghị định 63 về quản lý ngoại hối; Nghị định 16/2001/CP về tổ chức và hoạt động của công ty thuê tài chính; Nghị định 64/2001/CP về hoạt động thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán; Nghị định 85/2002/CP bổ sung cho Nghị định 178/1999/NĐ-CP về bảo đảm tiền vay… - NHNN đã xây dựng một số dự thảo văn bản pháp quy mới nhằm điều chỉnh những nghiệp vụ mới phát sinh như nghiệp vụ môi giới tiền tệ, thanh toán bù trừ; điều chỉnh, sửa đổi một số văn bản pháp quy như Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng, điều lệ mẫu về tổ chức và hoạt động của ngân hàng liên doanh, quy định về quản lý ngoại hối đối với đầu tư chứng khoán, thực hiện chuyển Ngân hàng phục vụ người nghèo thành Ngân hàng chính sách… - Điều chỉnh một số văn bản pháp luật cho phù hợp với các cam kết quốc tế, đặc biệt là đối với Hiệp định thương mại Việt – Mỹ, NHNN đã tiến hành rà soát các văn bản, đối chiếu với nội dung ký kết, đưa vào kế hoạch sửa đổi, bổ sung nhằm thực thi Hiệp định theo đúng lộ trình cam kết.
87
2. Cơ cấu lại tổ chức
Việc cấu lại tổ chức được thực hiện theo hướng ch hoàn toàn
các hoạt động cho vay theo chính sách của Nhà nước ra khỏi hoạt động kinh
doanh của NHTM thông qua việc thành lập một số ngân hàng chính sách để
các NHTM chđộng thực hiện tốt chức năng kinh doanh theo nguyên tắc thị
trường. Nâng cao quyền tự quyết, tự chủ và t chịu trách nhiệm kinh doanh
của các NHTM, giảm thiểu bao cấp và bảo hộ trong hệ thống ngân hàng. Đầu
năm 2003, Ngân hàng chính sách hội chính thức đi vào hoạt động theo
Quyết định số 131/2002/QĐ-TTg với số vốn được cấp ban đầu là 5000 t
đồng
51
. Ngân hàng này được thành lập trên sở ch Ngân hàng phục vụ
người nghèo ra khỏi Ngân hàng NN&PTNT, hoạt động tín dụng chính sách
của các NHTM QD khác, tín dụng giải quyết việc làm và chương trình 135 của
Kho bạc Nhà nước.Việc tách bạch này cũng tạo điều kiện cho việc giám sát,
đánh giá của hoạt động kinh doanh của các quan quản đối với các
NHTM; s ch bạch này cũng nằm trong cam kết của Việt Nam với các tổ
chức quốc tế (như trong Chương trình PRGF) về tách bạch tín dụng chính sách
với tín dụng thương mại
Cơ cấu lại hệ thống tổ chức ngân hàng còn tập trung xử lý về mặt tổ
chức dưới hình thc giải thể hoặc kiểm soát đặc biệt các ngân hàng yếu kém,
sáp nhập hoặc hợp nhất các ngân hàng. Trong năm 2001 2002, việc thực
hiện chính sách trên đây đã đạt được những kết quả hết sức khả quan, giải th
5 ngân hàng, sáp nhập và bán lại 5 ngân hàng đang tiếp tục xử các ngân
hàng yếu kém còn lại
52
.
- Đối với các NHTM QD: Hiện nay, việc cổ phần hoá các NHTM
QD cũng đang được xem xét và sẽ nhanh chóng được tiến hành trong thời gian
tới nhằm giảm bớt sự cồng kềnh trong bộ máy quản lý nhiều cấp, dễ dàng phát
huy tính năng động trong kinh doanh.
51
Tp chí Tài chính Tháng 1+2/2003
52
Tp chí Tài chính S 5/2003
87 2. Cơ cấu lại tổ chức Việc cơ cấu lại tổ chức được thực hiện theo hướng tách hoàn toàn các hoạt động cho vay theo chính sách của Nhà nước ra khỏi hoạt động kinh doanh của NHTM thông qua việc thành lập một số ngân hàng chính sách để các NHTM chủ động thực hiện tốt chức năng kinh doanh theo nguyên tắc thị trường. Nâng cao quyền tự quyết, tự chủ và tự chịu trách nhiệm kinh doanh của các NHTM, giảm thiểu bao cấp và bảo hộ trong hệ thống ngân hàng. Đầu năm 2003, Ngân hàng chính sách xã hội chính thức đi vào hoạt động theo Quyết định số 131/2002/QĐ-TTg với số vốn được cấp ban đầu là 5000 tỷ đồng 51 . Ngân hàng này được thành lập trên cơ sở tách Ngân hàng phục vụ người nghèo ra khỏi Ngân hàng NN&PTNT, hoạt động tín dụng chính sách của các NHTM QD khác, tín dụng giải quyết việc làm và chương trình 135 của Kho bạc Nhà nước.Việc tách bạch này cũng tạo điều kiện cho việc giám sát, đánh giá của hoạt động kinh doanh của các cơ quan quản lý đối với các NHTM; sự tách bạch này cũng nằm trong cam kết của Việt Nam với các tổ chức quốc tế (như trong Chương trình PRGF) về tách bạch tín dụng chính sách với tín dụng thương mại Cơ cấu lại hệ thống tổ chức ngân hàng còn tập trung xử lý về mặt tổ chức dưới hình thức giải thể hoặc kiểm soát đặc biệt các ngân hàng yếu kém, sáp nhập hoặc hợp nhất các ngân hàng. Trong năm 2001 và 2002, việc thực hiện chính sách trên đây đã đạt được những kết quả hết sức khả quan, giải thể 5 ngân hàng, sáp nhập và bán lại 5 ngân hàng và đang tiếp tục xử lý các ngân hàng yếu kém còn lại 52 . - Đối với các NHTM QD: Hiện nay, việc cổ phần hoá các NHTM QD cũng đang được xem xét và sẽ nhanh chóng được tiến hành trong thời gian tới nhằm giảm bớt sự cồng kềnh trong bộ máy quản lý nhiều cấp, dễ dàng phát huy tính năng động trong kinh doanh. 51 Tạp chí Tài chính Tháng 1+2/2003 52 Tạp chí Tài chính Số 5/2003
88
- Đối với các NHTM CP: Năm 1997, số lượng các NHTM CP là 51
ngân hàng, đến nay (30/4/2003) số lượng các NHTM CP là 37 ngân hàng, d
kiến đến năm 2005, số lượng các NHTM CP sẽ là 25 ngân hàng
53
.
Song song với các hoạt động trên, các NHTM cũng đang tích cực
phát triển và mrộng mạng lưới ngân hàng. Trên các nước tiên tiến hiện nay
bình quân khoảng 1000 ngân hàng trên 1 triệu dân trong khi Việt Nam
bình quân chỉ có khoảng 55 ngân hàng trên một triệu dân
54
. Do vậy, các ngân
hàng đang hoàn thiện các chi nhánh cấp II, cấp III tại các tụ điểm dân cư,
trường học, thị xã, thị trấn, các khu công ghiệp… Đồng thời mở thêm các chi
nhánh phục vụ tại các doanh nghiệp lớn, các phòng giao dịch, quỹ tiết kiệm…
3. Cơ cấu lại tài chính
cấu lại tài chính trong hoạt động ngân hàng mt trong những
vấn đề được quan tâm hàng đầu. Mục tiêu của việc cơ cấu này là làm cho việc
quản lý các hoạt động ngân hàng thực sự có hiệu quả. Những nội dung chủ yếu
trong cơ cấu lại tài chính bao gồm:
3.1. Mở rộng quy mô vốn, đảm bảo an toàn về vốn
Nhìn chung cả hai khối NHTM QD và NHTM CP, cvề tỷ lệ an
toan và quy mô vốn đều là những thách thức lớn trong quá trình hội nhập quốc
tế về an toàn hoạt động. Do vậy, các NHTM phải tiếp tục đẩy nhanh tiến trình
cơ cấu lại hệ thống ngân hàng để sáp nhập hoặc giải thể các ngân hàng có mức
vốn quá nhỏ, không đủ sức cạnh tranh. Mặt khác bắt buộc các ngân hàng
không đủ vốn phải có biện pháp bổ sung trong một thời gian nhất định sao cho
ngang bằng với mức trung bình của khu vực đạt mức an toàn tối thiểu là
8%. Khuyến khích và tạo điều kiện cho các ngân hàng s dụng nhiều biện
pháp khác nhau để tăng vốn từ các nguồn bên ngoài kết hợp với phát triển vốn
từ bên trong:
53
Báo cáo tình hình thc hin Ngh Quyết 07-NQ-TW ngày 27/11/2001 ca NHNN
54
Tp chí Tài chính Tháng 8/2003
88 - Đối với các NHTM CP: Năm 1997, số lượng các NHTM CP là 51 ngân hàng, đến nay (30/4/2003) số lượng các NHTM CP là 37 ngân hàng, dự kiến đến năm 2005, số lượng các NHTM CP sẽ là 25 ngân hàng 53 . Song song với các hoạt động trên, các NHTM cũng đang tích cực phát triển và mở rộng mạng lưới ngân hàng. Trên các nước tiên tiến hiện nay bình quân có khoảng 1000 ngân hàng trên 1 triệu dân trong khi ở Việt Nam bình quân chỉ có khoảng 55 ngân hàng trên một triệu dân 54 . Do vậy, các ngân hàng đang hoàn thiện các chi nhánh cấp II, cấp III tại các tụ điểm dân cư, trường học, thị xã, thị trấn, các khu công ghiệp… Đồng thời mở thêm các chi nhánh phục vụ tại các doanh nghiệp lớn, các phòng giao dịch, quỹ tiết kiệm… 3. Cơ cấu lại tài chính Cơ cấu lại tài chính trong hoạt động ngân hàng là một trong những vấn đề được quan tâm hàng đầu. Mục tiêu của việc cơ cấu này là làm cho việc quản lý các hoạt động ngân hàng thực sự có hiệu quả. Những nội dung chủ yếu trong cơ cấu lại tài chính bao gồm: 3.1. Mở rộng quy mô vốn, đảm bảo an toàn về vốn Nhìn chung ở cả hai khối NHTM QD và NHTM CP, cả về tỷ lệ an toan và quy mô vốn đều là những thách thức lớn trong quá trình hội nhập quốc tế về an toàn hoạt động. Do vậy, các NHTM phải tiếp tục đẩy nhanh tiến trình cơ cấu lại hệ thống ngân hàng để sáp nhập hoặc giải thể các ngân hàng có mức vốn quá nhỏ, không đủ sức cạnh tranh. Mặt khác bắt buộc các ngân hàng không đủ vốn phải có biện pháp bổ sung trong một thời gian nhất định sao cho ngang bằng với mức trung bình của khu vực và đạt mức an toàn tối thiểu là 8%. Khuyến khích và tạo điều kiện cho các ngân hàng sử dụng nhiều biện pháp khác nhau để tăng vốn từ các nguồn bên ngoài kết hợp với phát triển vốn từ bên trong: 53 Báo cáo tình hình thực hiện Nghị Quyết 07-NQ-TW ngày 27/11/2001 của NHNN 54 Tạp chí Tài chính Tháng 8/2003
89
(1) Phát triển vốn từ bên trong. Nếu như lợi nhuận của ngân hàng đ
lại có thể đáp ứng được những nhu cầu gia tăng vốn của mình thì thông thường
đây chính là nguồn bổ sung tốt nhất. Vì vậy, các NHTM cần xác định rõ mục
tiêu tăng trưởng tài sản hàng năm và mức vốn cần đạt được để quyết định tỷ lệ
lợi nhuận giữ lại sau khi đã tính toán c ngun bổ sung khác. Để căn cứ
quản lý, phải thiết lập một chế phù hợp buộc các NHTM phải tự tích lu
vốn; bên cạnh các quy định về mức vốn tối thiểu và t lệ an toàn vn, nhất
thiết phải đặt ra chỉ tiêu về tỷ lệ số nhân đòn by tối đa để ràng buộc các ngân
hàng muốn mở rộng quy mô hoạt động phải tích lũy một lượng vốn tương ứng.
Bước đầu, các ngân hàng có thể sử dụng nguồn vốn từ quỹ đầu tư phát triển và
dự phòng tài chính hàng năm chưa dùng đến, số lợi nhuận chưa phân phối đ
b sung vốn. Sau đó, mỗi ngân hàng phải bổ sung vốn đủ mức an toàn tối
thiểu, trong thời gian chưa bổ sung đủ vốn, ngân hàng không được mở rộng
quy hoạt động. Mới đây NHNN đã văn bản đề nghị Văn phòng Chính
phủ và Bộ Tài chính xem xét, trình Thủ tướng Chính phủ cho phép Ngân hàng
Ngoại thương được thực hiện tđiểm giải pháp y, trên sở lấy kết quả
kinh doanh năm 2002 làm gốc và kế hoạch tăng trưởng lợi nhuận trước thuế là
5%/năm. Nếu lợi nhuận thực hiện đạt vượt mức đăng thì ngân hàng s
nộp thuế và trích lập các quỹ trên sở mức lợi nhuận đạt bằng 105% lợi
nhuận thực hiện năm trước, phần lợi nhuận còn lại thì được dùng toàn b số
vượt đó để bổ sung tăng thêm vốn điều lệ
55
.
(2) Gia tăng vốn từ các nguồn bên ngoài. Các nguồn bên ngoài
thgiúp ngân hàng tăng vốn gồm: Vốn từ ngân sách cấp bổ sung, nguồn vay
cho mục đích cấu lại các NHTM của WB và IMF, vốn do phát hành c
phiếu hoặc chứng khoán cấp cao. Cho đến nay, các NHTM QD chủ yếu vẫn
dựa vào ngun ngân sách cấp bổ sung. Từ năm 2002 đến nay, NHNN đã phi
hợp với Bộ Tài chính trình Chính phthực hiện hai đợt cấp bổ sung vốn điều
lệ cho các NHTM QD. Đợt I đã thực hiện trong năm 2002 với số vốn cấp cho
55
Tp chí Ngân hàng S 13/2003
89 (1) Phát triển vốn từ bên trong. Nếu như lợi nhuận của ngân hàng để lại có thể đáp ứng được những nhu cầu gia tăng vốn của mình thì thông thường đây chính là nguồn bổ sung tốt nhất. Vì vậy, các NHTM cần xác định rõ mục tiêu tăng trưởng tài sản hàng năm và mức vốn cần đạt được để quyết định tỷ lệ lợi nhuận giữ lại sau khi đã tính toán các nguồn bổ sung khác. Để có căn cứ quản lý, phải thiết lập một cơ chế phù hợp buộc các NHTM phải tự tích luỹ vốn; bên cạnh các quy định về mức vốn tối thiểu và tỷ lệ an toàn vốn, nhất thiết phải đặt ra chỉ tiêu về tỷ lệ số nhân đòn bẩy tối đa để ràng buộc các ngân hàng muốn mở rộng quy mô hoạt động phải tích lũy một lượng vốn tương ứng. Bước đầu, các ngân hàng có thể sử dụng nguồn vốn từ quỹ đầu tư phát triển và dự phòng tài chính hàng năm chưa dùng đến, số lợi nhuận chưa phân phối để bổ sung vốn. Sau đó, mỗi ngân hàng phải bổ sung vốn đủ mức an toàn tối thiểu, trong thời gian chưa bổ sung đủ vốn, ngân hàng không được mở rộng quy mô hoạt động. Mới đây NHNN đã có văn bản đề nghị Văn phòng Chính phủ và Bộ Tài chính xem xét, trình Thủ tướng Chính phủ cho phép Ngân hàng Ngoại thương được thực hiện thí điểm giải pháp này, trên cơ sở lấy kết quả kinh doanh năm 2002 làm gốc và kế hoạch tăng trưởng lợi nhuận trước thuế là 5%/năm. Nếu lợi nhuận thực hiện đạt và vượt mức đăng ký thì ngân hàng sẽ nộp thuế và trích lập các quỹ trên cơ sở mức lợi nhuận đạt bằng 105% lợi nhuận thực hiện năm trước, phần lợi nhuận còn lại thì được dùng toàn bộ số vượt đó để bổ sung tăng thêm vốn điều lệ 55 . (2) Gia tăng vốn từ các nguồn bên ngoài. Các nguồn bên ngoài có thể giúp ngân hàng tăng vốn gồm: Vốn từ ngân sách cấp bổ sung, nguồn vay cho mục đích cơ cấu lại các NHTM của WB và IMF, vốn do phát hành cổ phiếu hoặc chứng khoán cấp cao. Cho đến nay, các NHTM QD chủ yếu vẫn dựa vào nguồn ngân sách cấp bổ sung. Từ năm 2002 đến nay, NHNN đã phối hợp với Bộ Tài chính trình Chính phủ thực hiện hai đợt cấp bổ sung vốn điều lệ cho các NHTM QD. Đợt I đã thực hiện trong năm 2002 với số vốn cấp cho 55 Tạp chí Ngân hàng Số 13/2003