LUẬN VĂN: Báo nông nghiệp trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn
1,887
516
64
người dân địa phương. Phản ánh những mặt tích cực của tập thể, cá nhân ở địa
phương
mình, độc giả Châu Giang, huyện Tân Yên, Bắc Giang có bài: “Xử lý rác thải tại
nguồn,
một mô hình cần được nhân rộng” (7.1.2002). Tác giả khẳng định: Đây là mô hình
tốt,
một phương pháp hay cần được nhân rộng để đảm bảo vệ sinh môi trường. Qua gần 3
tháng thực hiện 100% hộ dân đều hưởng ứng và làm theo phương pháp xử lý rác thải
tại
nguồn do Trung tâm KHCN- MT huyện Tân Yên triển khai. Cách làm này tạo thói quen
cho mọi người trong hoạt động bảo vệ môi trường. Độc giả Hồ Quang, số 68. 2001
có ghi
nhận: “Việc làm tốt của Trạm Vật tư nông nghiệp Nghĩa Đàn”. Bằng nhiều hình thức
cởi mở như đầu vụ sản xuất, trạm bán chịu phân cho nông dân không lấy lãi, và
trợ giá
cước vận chuyển, Trạm VTNN Nghĩa Đàn, Nghệ An đã xuất kho gần được 3000 tấn phân
các loại cho người nông dân. Nhờ đó bà con nông dân huyện đã có đủ điều kiện để
chăm
bón cho 8.238 ha mía, 2.773 ha lúa, 975 ha ngô, 520 ha lạc và 680 ha đậu, đỗ...
Còn tại Sóc
Trăng, tác giả Phương Nghi có bài: “Rừng ngập mặn ở Sóc Trăng đang được phục
hồi”
(26.8.2002), phản ánh những kết quả bước đầu của công tác phục hồi rừng ngập mặn
tại
đây, là tín hiệu đáng mừng khi mà rừng tại đây đang ngày càng bị tàn phá.
Tuy vậy, còn không ít những nghịch lý, bất cập đang tồn tại ở hầu hết các địa
phương trong cả nước, ảnh hưởng đến đời sống và quyền lợi của người nông dân
được
độc giả phản ánh qua trang báo NNVN. Đó là những bất hợp lý trong quản lý của
một số
lãnh đạo địa phương, lợi dụng chức vụ để làm trái quy định của pháp luật, cửa
quyền và
trù dập nông dân, nổi lên là vấn đề mất dân chủ mà người dân phải gánh chịu. Đã
không
ít những trường hợp nông dân phải chịu thiệt thòi vì cấp lãnh đạo trì trệ, chậm
giải quyết
hoặc giải quyết quyền lợi người nông dân được hưởng, một số còn bị mất trắng đất
đai,
chịu nộp phí trên mức quy định...Bài viết “Một đòi hỏi chính đáng bị trả giá
bằng...18
tháng tù và mất toàn bộ đất đai”- Vũ Hữu Sự (4.3.2002) là một ví dụ điển hình.
Nội
dung bài báo phản ánh sự vô lý và sai trái rõ ràng của cán bộ xã Bạch Xa đối với
gia đình
bà Liên. Gia đình bà được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 469, đứng tên
ông
Trần Xuân Hảo, chồng bà. Ngày 14.4.1997, UBND tỉnh Tuyên Quang ra quyết định thu
hồi 1,842m
2
đất tại thửa 18b của gia đình bà làm công trình Văn hóa và trụ sở UBND xã
Bạch Xa. Nhưng khi bà chưa nhận được quyết định thu hồi và nhận tiền đền bù thì
ngày
16.5.1998 UBND xã đã tổ chức san ủi đất. Bà Liên thấy bất bình nên cản trở, bị
công an
huyện bắt giam với tội danh “Gây rối trật tự công công”. Tháng 11.1998 CA huyện
đưa
bà ra xét xử với tội danh trên và tuyên phạt 18 tháng tù...Mặc dù xã Bạch Xa làm
trái quy
định của pháp luật nhưng huyện vẫn dung túng, không có biện pháp xử phạt những
người
có liên quan, gây bất bình cho người dân địa phương. Hay tại Đồng Than, Yên Mĩ,
Hưng
Yên, ông Trần Văn Hậu, lạm dụng chức quyền, ngang nhiên lấy đất của ông Lê Văn
Tế
làm đường đi cho ông Phong, dù đã có đơn khiếu nại nhưng vẫn không được giải
quyết.
“Xã xẻ đất của người này chia cho người khác”- Lê Văn Tế (Đồng Than, Yên Mĩ,
Hưng Yên), 17.1.2002. Rồi thì “Nạn tham nhũng của các quan xã” (12.3.2002), lợi
dụng chức quyền, trong 4 nâm làm chủ nhiệm HTX Đồ Đông (1992- 1995) ông Nguyễn
Đăng Tuấn đã tự ý thu tăng thuỷ lợi phí của dân 4,5kg/sào (Thực thu là
13,5kg/sào,
nhưng hợp đồng ký với Công ty Thuỷ nông La Khê chỉ có 9kg/sào). Ông Cao Văn Thật
lên làm chủ nhiệm (1996-2001) tiếp tục làm trái quy định đã có. Ngoài ra còn bán
trái
thẩm quyền 33.000m
2
đất với hàng trăm suất, mỗi suất thu từ 2-15 triệu đồng dù khu đất
xã bán chưa có quyết định của UBND tỉnh. Những việc làm trên của xã Đồ Động,
Thanh
Oai, Hà Tây đã khiến người dân không tin vào chính quyền, người dân bất bình,
lên án
mạnh mẽ.
Bên cạnh đó là những bài viết, nói lên tiếng nói của người dân, cảnh báo, lên án
về những vấn đề, sự việc có ảnh hưởng đến đời sống, môi trường của chính người
dân:
“Không nên bảo quản hành khô bằng loại bột trắng chết người ấy”- Cao Xuân
Lương (Thị xã Sóc Trăng. 17.9.2002), ““Đảo cò” kêu cứu”- Trần Xuân Thân (Hà Nam.
5.3.2002). Từ những phản ánh của độc giả, toà soạn căn cứ và cử phóng viên xuống
hiện
trường, điều tra làm rõ, trả lại công bằng và giải đáp thắc mắc thoả đáng cho
người dân.
Nhờ tiếng nói của báo NNVN, ở nhiều địa phương đã có sự can thiệp kịp thời của
chính
quyền để giải quyết những vụ việc của vốn đã bị lãng quên từ lâu. Người dân được
sự
ủng hộ của báo Nông nghiệp đã tự tin đấu tranh đến cùng cho quyền lợi của mình.
Các
bài như: “Một nhóm công an Quế Phong đánh người theo kiểu “côn đồ”, coi thường
pháp luật”- Tổ phóng viên Bắc Trung Bộ (7.10.2002), “Viện kiểm soát, luật sư và
nhân dân đều có ý kiến trái ngược về kết luận của toà án”- Nghiêm Thị Hằng
(16.8.2002)v.v.. đã cung cấp đầy đủ thông tin cho người đọc và nói lên tiếng nói
của
người nông dân, được dân tin và ủng hộ. Chính điều đó đã khích lệ, động viên tập
thể toà
soạn vững tin hơn trong công tác và hoàn thành suất sắc nhiệm vụ vì sự phát
triển nông
nghiệp và nâng cao dân trí nông thôn của mình.
4.2. Biểu dương gương người tốt, việc tốt.
Biểu dương người tốt, việc tốt đang là việc làm đầy ý nghĩa, thể hiện tinh thần
nhân đạo, tương thân tương ái vốn có của dân tộc Việt Nam. Báo NNVN đã phản ánh
về
những tập thể, cá nhân đã hết lòng vì người khác, sẵn sàng góp sức mình vào công
cuộc
xây dựng một nông thôn mới, giúp đỡ người nghèo khó có được cuộc sống tốt đẹp
hơn.
Bài viết “Người suốt đời vì nụ cười trẻ thơ”- Nguyễn Thế Trường (Hải Dương. Số
165,
5.9.2002) viết về tấm lòng của bác sĩ Nguyễn Hữu Phần, Trưởng khoa Răng- Hàm-
Mặt,
Bệnh viện Đa khoa Hải Dương, người đã cải tiến thiết bị phanh để dùng mổ hàm ếch
cho
trẻ. Hay như bài “Tấm lòng của một cụ già 80 tuổi”- Vũ Minh Việt (14.1.2002) ghi
nhận lòng tốt của cụ Bùi Đức Cố, xóm 1, xã Thinh Liệt, huyện Thanh Trì, Hà Nội
hàng
ngày đan lát lấy tiền ủng hộ những gia đình có con em bị nhiễm chất độc màu da
cam.
Mỗi năm cụ hiện cho Quỹ tấm lòng vàng từ ba đến bốn trăm ngàn đồng. Trưởng thôn
Nguyễn Duy Ban ở Báo Đáp, Trấn Yên, Yên Bái, nhận thấy hệ thống mương máng của
thôn đã có từ lâu nhưng hư hỏng nặng, anh đặt vấn đề với UBND xã để sửa sang. Xã
nhất
trí cho thôn anh xây dựng kiên cố hoá kênh mương với công thức 6/4 (60% vốn của
nhà
nước, 40% tự túc của nhân dân), anh huy động bà con đóng góp ngày công, cùng xây
dựng hệ thống kênh mương của mình. Anh còn tìm mua các loại phân bón hoá học,
giống
cây mới có năng suất vận chuyển về tận thôn cho bà con. “Người trưởng thôn công
tác
tốt, lao động giỏi”- Sở Hữu (31.1.2002).
Chương 3
Hình thức thể hiện trên báo nông nghiệp việt nam
1. đánh giá chung.
Thể loại báo chí là hình thức để truyền tải nội dung thông tin mà bất kỳ phương
tiện báo chí nào cũng đều phải sử dụng. Có nhiều cách hiểu khác nhau về thể
loại: “Thể
loại báo chí là hình thức biểu hiện cơ bản thống nhất và ổn định của nhóm lớn
các bài
báo, là cách lựa chọn công cụ, phương tiện, phương pháp và hình thức trình bày
tác phẩm
báo chí sao cho phù hợp với nội dung, thích ứng với từng tình huống sự kiện, đặc
biệt là
sao cho thể nó có thể chứa đựng nội dung bài báo cần trình bày” [6, 4]. Tác giả
Đinh
Hường, trong bài “Một số vấn đề thể loại báo chí” cho rằng: “Thể loại báo chí là
hình
thức biểu hiện cơ bản thống nhất và tương đối ổn định của các bài báo, được phân
chia
theo phương thức phản ánh hiện thực, sử dụng ngôn ngữ và các công cụ khác để
truyền
tải nội dung mang tính chính trị- tư tưởng nhất định” [7, 402].
Từ điển Bách khoa toàn thư của Liên Xô giải thích: “Thể loại là khái quát hoá
một loạt tác phẩm có cùng thuộc tính về nội dung, hình thức, cách biểu hiện tác
phẩm của
một thời đại, một dân tộc, một giai đoạn hay một nền nghệ thuật thế giới” [6,
2]. Quan
niệm này cho thấy: Muốn nhận thức được thể loại cần thiết phải “khái quát hoá”,
nghĩa là
dùng trí tưởng tượng để tìm thấy những sự giống nhau (cùng thuộc tính) của loạt
tác phẩm
đang giữ vai trò là “tính trội” so với một loạt tác phẩm khác. Nói cách khác là
cần căn cứ
vào một số tiêu chí để phân biệt thể loại này với thể loại khác. Đó là: 1. Đặc
thù của đối
tượng mô tả, 2. Chắc năng và nhiệm vụ của tác phẩm báo chí, 3. Phạm vi của sự mô
tả và ý
nghĩa của sự khái quát và các kết luận, 4. Các phương tiện tái hiện hình ảnh và
mức độ
truyển cảm.
Thể loại báo chí được hình thành và tồn tại tương đối ổn định và được chia làm
ba nhóm chính: Nhóm Thông tấn, Nhóm Chính luận, Nhóm Chính luận nghệ thuật.
Trong mỗi nhóm đều có những đặc điểm của hệ thống thể loại và đều có chức năng
truyền tải nội dung thông tin. Các thể loại được sử dụng trên báo NNVN đa dạng
và
phong phú và phân bổ đều trong cả ba nhóm thể loại: Thể loại thông tấn (Tin,
phỏng vấn,
tường thuật...), Chính luận (Xã luận, bình luận, điểu tra...), Chính luận nghệ
thuật (Phóng
sự, ký chân dung, ghi chép...). Sự phân bố này tạo ra sự đa dạng trong hình thức
truyền
tải và thu được hiệu quả trong mục đích tuyên truyền của tờ báo. Bên cạnh đó có
sự giao
thoa giữa các thể loại với nhau để tạo ra sự đa dạng trong hình thức thể hiện
của báo chí.
Ngoài ra, tất cả các thể loại đều đảm bảo nguyên tắc truyền tải sự kiện, sự việc
có thật,
phản ánh chân thực đời sống xã hội và có tác động đến nhận thức của con người.
Qua khảo sát trong 2 năm (2001-2002) của báo NNVN, chúng ta có số liệu
thống kê thể loại báo chí trong mỗi kỳ như sau.
Năm
Thể loại
Năm 2001 Năm 2002
Tin 54 (%) 47 (%)
Bài phản ánh 16 21,3
Ghi chép 6,5 5,3
Điều tra 1,6- 3,3 4
Phóng sự 1,6 1,3-2,7
Câu chuyện báo chí 1,6 1,3
Các thể loại khác 17-18,7 17,4-18,8
Các thể loại xuất hiện trên báo NNVN trong hai năm qua không có sự biến động
lớn. Thể loại chủ đạo trên báo NNVN là tin, bài phản ánh, ghi chép. Do khuân khổ
khóa luận nên tác giả chỉ đi sâu tìm hiểu những thể loại báo chí thường xuyên
xuất
hiện trên báo NNVN trong 2 năm (2001- 2002).
2. hệ thống Các thể loại thường xuyên xuất hiện.
2.1. Tin.
Tin là thể loại thuộc nhóm thông tấn, được sử dụng với tần suất lớn nhất trên
báo chí, bởi thông tin gắn gọn, cô đúc, phản ánh nhanh và kịp thời các sự kiện,
hiện
tượng có thực, tiêu biểu vừa xảy ra, đang xảy ra trong đời sống, có ý nghĩa
chính trị xã
hội nhất định. Do đó, tin có tác động trực tiếp đến nhận thức của con người, dễ
hiểu, dễ
nhớ. Tin trên báo NNVN chiếm số lượng lớn nhất trên báo (khoảng 50%), đây là yêu
cầu
khách quan đối với loại hình báo chí nói chung, tuy nhiên tin trên báo NNVN
không
mạnh bởi đây là tờ báo thuộc chuyên ngành, phát hành định kỳ, tập trung chủ yếu
phản
ánh các vấn đề liên quan đến nông nghiệp, nông thôn và nông dân có tính định kỳ,
lâu
dài, nên tin không phải là thế mạnh của tờ báo. Các loạt tin được sử dụng trên
NNVN chủ
yếu là tin vắn, tin tổng hợp và tin bình và nội dung phản ánh chủ yếu là các
hoạt động
liên quan đến nông nghiệp, nông thôn và nông dân. Đặc biệt trên báo NNVN, hầu
hết đều
có tin chuyên đề của trang báo như: trang “Khuyến nông” luôn có chùm tin mang
tên “
Hoạt động Khuyến nông- lâm- ngư”, trang “Thời sự” có chùm tin “Đọc nhanh”...
* Tin vắn.
Là dạng tin có dung lượng ngắn gọn, được đăng tải trên các loại hình báo chí,
thông báo một cách ngắn gọn nhất về sự kiện với độ dài từ 3- 5 dòng, trong vòng
100 chữ.
Tin vắn sử dụng để thông báo về chi tiết, tính chất... mới, đang xảy ra. Như
tin: “Cấp 17
tấn gạo cho trẻ em nghèo” (4.1.2002), còn bài: “Bạc Liêu: Khánh thành nhà máy
chế
biến thức ăn gia súc”- Phương Giang. (số 151 16.8.2002), tác giả đã trả lời câu
hỏi: Ai?
Làm gì? ở đâu? Khi nào? Tại sao?
Ai? Nhà máy chế biến thức ăn gia súc
Làm gì? Khánh thành
ở đâu? Khánh Hoà
Khi nào? ngày 16.8.2002
Tại sao? Đáp ứng nhu cầu của vùng chuyển dịch cơ cấu kinh tế
* Tin tổng hợp.
Là tin nêu tóm tắt những sự kiện, hiện tượng có tầm quan trọng ngang nhau
trong thời gian nhất định. Đó là “tóm tắt tin trong ngày”, “thời sự thế giới
tuần qua”,
“tình hình sản xuất thời gian qua”...Các chi tiết trong tin tổng hợp thường được
bố trí
theo một trật tự nhất định. Dạng tin này được sử dụng rộng rãi trên NNVN vì nó
đáp ứng
nhu cầu khách quan của công chúng tiếp nhận thông tin, phù hợp với mục đích
tuyên
truyền của tờ báo trong việc điều hành phát triển nông nghiệp, nông thôn, chính
sách mới
hay tin khắp mọi miền. “Sắp phát hành thẻ Card di động mệnh giá thấp”- N.C,
“90.000 nhãn hàng hoá được đăng ký bảo hộ sở hữu”- NC (1.5.2002)
* Chùm tin.
Là tập hợp những tin bài có cùng chủ đề thống nhất, gây ấn tượng sâu sắc, có ý
nghĩa cổ động tuyên truyền. Trên báo NNVN, các chính sách mới đối với nông
nghiệp,
nông thông, thông tin Khắp mọi miền đều được đăng tải dưới dạng chùm tin. Điển
hình
như số ra ngày 4.1.2002. T6. Đó là tin khắp mọi miền, cùng chủ đề kinh tế nông
thôn, với
số liệu chính xác, chân thực: “Kiên Giang: Thêm 8.000 hộ nông dân sản xuất
giỏi”-
Hoàng Đường, “Quảng Bình: Hoàn thành 64 công trình 135”- Võ Thanh Mai. Hay số
báo ra ngày 1.5.2001, T24 có chùm tin về hoạt động Khuyến Nông- Lâm- Ngư:
“Đăklắk: Sẽ thành lập 58 CLB khuyến nông”- Đào Đình Phượng
* Tin bình (tin sâu).
Là tin thể hiện các sự kiện hiện tượng, quá trình con người quan trọng nhưng
chưa đến mức viết thành bài bình luận. Tin bình thường sử dụng khi phản ánh các
vấn
đề, mối quan hệ trong nước, khu vực, thế giới hay một vấn đề nào đó. Tìm hiểu
tin “Bình
Định: Xây dựng đập dâng theo công nghệ mới”, (12.9.2002), chúng ta thấy tin ngắn
gọn, xúc tích, mang đủ các yếu tố cấu thành một tin, phản ánh đầy đủ những thông
điệp
đặc trưng về nội dung, hình thức của sự kiện mang tính thời sự. Tác giả đánh
giá: “Đây là
công trình đầu tiên tại địa phương được BQL dự án thuỷ lợi tỉnh xây dựng theo
công nghệ
chỉ một cửa đóng- xả lắp đặt bằng túi cao su và hệ thống bơm, vận hành đơn giản,
nhưng
thoát lũ nhanh”.
Theo cấu trúc thì cái gì mới nhất, có ý nghĩa nhất được đưa lên đầu. Sau đó các
chi tiết khác lần lượt được chi tiết hoá. Báo NNVN đã sử dụng khá nhiều loại tin
này, đăng
tải trên trang 2 của báo. Một số tin bình khác như: “Long An: Trích 1,5% tiền
thu thuế
sử dụng đất nông nghiệp để chi cho công tác khuyến nông”- Đoàn Văn Minh
(21.1.2002), “Tp. HCM: Các chủ trang trại Nhật Bản tham quan trang trại Việt
Nam”- Ngô Sơn (15.1.2002)...
2.2. Bài phản ánh.
Là dạng xuất hiện nhiều trên báo NNVN, chỉ sau thể loại tin. Bài phản ánh
không chỉ dừng lại ở sự mô tả các sự kiện, hiện tượng, vấn đề của cuộc sống mà
còn lý
giải, khái quát, so sánh và phân tích các sự kiện đó. Tuy nhiên bài phản ánh
chưa được
coi là một thể loại báo chí mà thường được dùng với nghĩa để khu biệt với Tin về
mặt
dung lượng. Tác giả Đức Dũng cho rằng: “Bài phản ánh được đề cập tới ở đây không
phải là một thể loại báo chí. Đây chỉ là những dạng bài thông tin phản ánh tuy
vẫn đáp
ứng những tiêu chí của một tác phẩm báo chí (như tính xác thực, tính thời sự...)
nhưng
chưa đạt tới tiêu chuẩn của thể loại” [8, 73]. Nội dung bài phản ánh khá phong
phú vì nó
thích hợp phản ánh nhiều vấn đề trong đời sống xã hội. Đề tài của bài phản ánh
đa dạng,
giúp người tiếp nhận hiểu và nhận biết vấn đề theo đúng những gì phản ánh trong
tác
phẩm. Dung lượng của bài phản ánh ngắn gọn, kết cấu gắn liền với sự kiện, ngôn
ngữ
gần với đời sống hiện thực, phù hợp với đối tượng tiếp nhận của báo NNVN là đa
phần
người nông dân. Bài phản ánh được chia làm 3 nhóm lớn đó là: Bài phản ánh thông
tin,
bài phản ánh phân tích và bài phản ánh nêu vấn đề. Các dạng bài phản ánh trên
NNVN đã
phát huy hiệu quả trong việc đi sâu phản ánh hoạt động mới của các cơ sở, địa
phương
trong việc phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới và chúng được sử
dụng
ngang nhau trên tờ báo.
Các bài “Bao giờ Bắc Sơn hêt nghèo?” (Mạnh Đồng- Số 10. 2001), “Điện về
nông thôn làm sao gỡ rối” (Hữu Đức- 26.1.2001), “Vệ sinh an toàn thực phẩm.
Thách
thức và trăn trở...!” (Ngô Sơn. Số 22.2002), “Văn hoá nông thôn- bài toán chưa
có lời
giải” (Tiến Đạt. S104.2001)... là những bài phản ánh nêu vấn đề. Các tác giả của
bài viết
đã đưa ra các sự kiện, hiện tượng, vấn đề và từ đó đưa ra các dự báo, phán đoán
đối với
các vấn đề tác giả đề cập tới. Tìm hiểu bài “Suy nghĩ về phát triển nông nghiệp
theo
hướng sản xuất hàng hoá ở thị xã Bắc Giang” của Đỗ Thành Nam, Số 37 ngày
5.3.2002, sau khi đưa ra những thành tích đã đạt được về nông nghiệp của thị xã
Bắc
Giang do mạnh dạn đưa các loại rau giống mới có năng suất, chất lượng cao vào
sản xuất,
tác giả nêu lên thực trạng: “Do nhận thức của một số người dân chưa cao về kỹ
thuật
chăm sóc, phòng trừ sâu bệnh những giống lúa mới, nên đã phần nào làm ảnh hưởng
đến
hiệu quả các loại giống lúa này. Vấn đề phát triển cây vụ đông cũng chưa được
nhiều
người dân “thiết tha” lắm. Thực tế những năm vừa qua, nhiều diện tích đất canh
tác đã bị
bỏ không, làm giảm tổng thu nhập trên một đơn vị diện tích đất canh tác”. Trên
cơ sở
phân tích những tồn đọng ở đây tác giả đã đưa ra đề nghị: Để khắc phục khó khăn
trên,
trước hết TX Bắc Giang cần có quy hoạch khoanh vùng cụ thể hơn trong diện chuyển
đổi
diện tích cấy lúa 1 vụ không ăn chắc sang nuôi thả cá tới tận thôn, xóm để mọi
người dân
được biết. Thị xã cần có cơ chế chính sách cụ thể về vốn, giống, KHKT, xây dựng
các
mô hình trình diễn về nuôi thả cá để giới thiệu cho mọi người tham quan, học
tập... Bài
“Văn hoá nông thôn: Bài toán chưa có lời giải” của Tiến Đạt đã nêu lên thực
trạng về
đói kinh phí hoạt động văn hoá ở cơ sở, tất cả kinh phí đều kêu gọi dân đóng
góp. Đây là
vấn đề chung đã tồn tại ở nông thôn hiện nay.
Với dạng bài phản ánh thông tin là dạng bài rất gần với thể loại tin nhưng nó
lại
bao hàm lượng thông tin lớn hơn, phân tích tỷ mỉ về một vấn đề nhất định, cung
cấp cho
công chúng những thông tin đầy đủ, từ đó rút ra được những kinh nghiệm cần thiết
sau
khi tiếp nhận thông tin. Bút pháp phân tích trong dạng bài này sử dụng ít, chủ
yếu là sử
dụng kết quả và cách thức về kết quả đó. Trong bài “Phong Điền: Hình thành CLB
nông dân sản xuất kinh doanh” (1.5.2001), tác giả Nguyễn Vũ Anh đã cung cấp cho
độc giả những thông tin về hoạt động khuyến nông ở Phong Điền: “Qua gần hai năm
hoạt
động, CLB mở được 3 lớp tập huấn chuyển giao KHKT. Từ khi thành lập đến nay,
năng
suất lúa của nhiều thành viên đạt trên 45 tạ/ ha...”. Hay bài “Con trai dùng bả
chuột giết
hại cả bố lẫn mẹ” số 8.2002, tác giả Vũ Đình Thư đã cung cấp cho người đọc thông
tin
về chuyện không thể tin, xảy ra ở Thái Bình, thôn Thượng Liệt xã Đông Tân, Đông
Hưng. Đó là vụ anh Ngô Văn Thao dùng thuốc chuột giết chết bố mẹ ruột, gây chấn
động
dư luận. Bài báo là tiếng chuông cảnh tỉnh những con người mất hết nhân tính,
làm suy
đồi giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc, đồng thời cũng phản ánh
thực trạng
của nền văn hóa truyền thống đang dần mai một ở nông thôn, sự xâm nhập của lỗi
sống
thực dụng, chủ nghĩa cá nhân, coi trọng đồng tiền và mất hết nhân tính. Phản ánh
kịp thời
của bài báo đã có tác dụng tích cực trong việc giáo dục đạo đức, lối sống trong
gia đình
và các mối quan hệ khác trong xã hội hiện nay. Các bài: “ứng dụng KHCN phục vụ
nông thôn và miền núi- một mô hình bước đầu có hiệu quả ở miền Trung”- Minh
Trung (5.3.2002), “Diễn biến hàng nông sản 4 tháng qua”- Thu Hường. (1.5.2001),
“Con gái làng tôi...”- Vũ Phong. Số 8. 2001 là những bài phản ánh thông tin được
giới
thiệu trên báo NNVN trong hai năm qua.
Dạng bài phản ánh phân tích tác giả lại tập trung vào phân tích, chỉ ra các
nguyên nhân của sự kiện. Và từ đó tác giả đưa ra chính kiến của mình trước vấn
đề phân
tích. Trong bài “Không cải cách hành chính sẽ không cải cách được tiền lương”
tác
giả NTH, (Số 59.2001) phân tích: “ Muốn cải cách tiền lương phải dựa trên tiềm
lực của
ngân sách Nhà nước. Trong lúc nguồn lực Nhà nước còn khó khăn muốn cải cách tiền
lương chỉ còn cách phải cải cách hành chính Nhà nước ngay. Thực tế những năm qua
Ban tổ chức cán bộ Chính phủ cũng đã có chương trình cải cách hành chính, nhưng
các
Bộ, ngành và các địa phương thực hiện còn khó khăn bởi vấn đề lao động dôi dư sẽ
bố trí
ra sao, họ được hưởng những quyền lợi gì để ổn định cuộc sống không trở thành
gánh
nặng cho xã hội”. Hay bài “Cà phê xuống giá- cơ hội để phá bỏ diện tích cà phê
kém
hiệu quả”, số 34.2002 của tác giả Mạnh Hùng là một trong những bài phản ánh phân
tích
được đăng tải trên NNVN. Tác giả phân tích những cơ hội mở ra khi Đăklắk xoá bỏ
cây
cà phê, chuyển sang trồng cây lương thực khác. Đây là hướng phát triển hợp với
quy luật,
nhất là trong giai đoạn hiện nay khi Đảng, Nhà nước đang khuyến khích chuyển
dịch cơ
cấu cây trồng, vât nuôi cho phù hợp với nhu cầu cung cầu của thị trường, xoá bỏ
những
diện tích cây trồng không đem lại năng suất cao: “Trong bối cảnh hiện nay, khi
hạt cà phê
đang ngày càng mất giá và lợi nhuận từ cây cà phê mang lại không còn được như
trước sẽ
là cơ hội để tỉnh Đăklắk có thể thực hiện chủ trương phá bỏ những vườn cây kém
hiệu
quả, chuyển sang trồng cây khác phù hợp hơn”.
2.3. Thể loại phóng sự.
Là thể loại nằm trong nhóm Chính luận nghệ thuật, nội dung thể hiện là các sự
kiện, vấn đề khách quan tồn tại trong thực tiến, mang tính chất thời sự, có ý
nghĩa giáo
dục, định hướng hành vi của con người. “Phóng sự là một thể loại hình ký. Phóng
sự ghi
chép kịp thời các sự việc, sự kiện làm sáng tỏ trước công luận một sự kiện, một
vấn đề
nào đó có liên quan đến số phận một số những người và có ý nghĩa thời sự đối với
một
địa phương hay toàn xã hội” [6, 22]. Ngoài ra, phóng sự là thể loại đứng giữa
văn học và
báo chí, vừa có khả năng trình bày, diễn tả những con người, sự kiện điển hình
trong quá
trình phát sinh, phát triển, đồng thời thẩm định lại hiện thực, qua đó “cái tôi”
trần thuật
vừa lý trí, vừa cảm xúc với bút pháp giàu chất văn học. Giọng điệu phóng sự
phong phú,
linh hoạt nhằm phản ánh hiện thực vừa sinh động vừa thể hiện được quan điểm,
thái độ
trước hiện thực đó. Qua đó tác giả có thể đề xuất, trình bày ý kiến chủ quan của
mình
Có nhiều dạng phóng sự như: Phóng sự điều tra, phóng sự vấn đề, phóng sự
ảnh, phóng sự chân dung... Nhưng trên báo NNVN phóng sự thường xuất hiện là
phóng
sự xã hội (tập trung trên trang Văn hóa), phóng sự vấn đề và phóng sự chân dung.
Trong
phóng sự “Kỳ Anh sau cơn đại họa” (22.5.2001), tác giả Võ Thanh Mai đã mô tả hết
sức chân thực diễn biến, thiệt hại của Kỳ Anh, Hà Tĩnh trong cơn đại hoạ dịch
bệnh
đốm trắng, đầu vàng ở tôm. Bài báo cũng phản ánh sự quan tâm của Đảng, Nhà nước
và
chính quyền địa phương trong chiến dịch chống lại bệnh trên tôm cũng như sự phối
hợp
đồng bộ giữa các cấp các ngành trong chiến dịch nuôi trồng và phát triển nghề
nuôi trồng
thuỷ sản. “Thứ trưởng Bộ thuỷ sản, Nguyễn Việt Thắng đã cùng với các chuyên gia
các