LUẬN VĂN: Báo nông nghiệp trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn

1,865
516
64
người dân địa phương. Phản ánh những mặt tích cực của tập thể, cá nhân địa phương
mình, độc giả Châu Giang, huyện Tân Yên, Bắc Giang có bài: “Xử lý rác thải tại nguồn,
một mô hình cần được nhân rộng(7.1.2002). Tác giả khẳng định: Đây là mô hình tốt,
một phương pháp hay cần được nhân rộng để đảm bảo vệ sinh môi trường. Qua gần 3
tháng thực hiện 100% hộ dân đều hưởng ứng và làm theo phương pháp xử lý rác thải tại
nguồn do Trung tâm KHCN- MT huyện Tân Yên triển khai. Cách làm này tạo thói quen
cho mọi người trong hoạt động bảo vệ môi trường. Độc giả Hồ Quang, số 68. 2001 có ghi
nhận: “Việc làm tốt của Trạm Vật tư nông nghiệp Nghĩa Đàn”. Bằng nhiều hình thức
cởi mở như đầu vụ sản xuất, trạm bán chịu phân cho nông dân không lấy lãi, trợ giá
cước vận chuyển, Trạm VTNN Nghĩa Đàn, Nghệ An đã xuất kho gần được 3000 tấn phân
các loại cho người nông dân. Nhờ đó bà con nông dân huyện đã có đủ điều kiện để chăm
bón cho 8.238 ha mía, 2.773 ha lúa, 975 ha ngô, 520 ha lạc và 680 ha đậu, đỗ... Còn tại Sóc
Trăng, tác giả Phương Nghi có bài: “Rừng ngập mặn ở Sóc Trăng đang được phục hồi
(26.8.2002), phản ánh những kết quả bước đầu của công tác phục hồi rừng ngập mặn tại
đây, là tín hiệu đáng mừng khi mà rừng tại đây đang ngày càng bị tàn phá.
Tuy vậy, còn không ít những nghịch lý, bất cập đang tồn tại hầu hết các địa
phương trong cả nước, ảnh hưởng đến đời sống quyền lợi của người nông dân được
độc giả phản ánh qua trang báo NNVN. Đó là những bất hợp lý trong quản lý của một số
lãnh đạo địa phương, lợi dụng chức vụ để làm trái quy định của pháp luật, cửa quyền
trù dập nông dân, nổi lên là vấn đề mất dân chủ mà người dân phải gánh chịu. Đã không
ít những trường hợp nông dân phải chịu thiệt thòi vì cấp lãnh đạo trì trệ, chậm giải quyết
hoặc giải quyết quyền lợi người nông dân được hưởng, một số còn bị mất trắng đất đai,
chịu nộp phí trên mức quy định...Bài viết “Một đòi hỏi chính đáng bị trả giá bằng...18
tháng tù mất toàn bộ đất đai”- Hữu Sự (4.3.2002) một dụ điển hình. Nội
dung bài báo phản ánh sự vô lý và sai trái rõ ràng của cán bộ xã Bạch Xa đối với gia đình
bà Liên. Gia đình bà được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 469, đứng tên ông
Trần Xuân Hảo, chồng bà. Ngày 14.4.1997, UBND tỉnh Tuyên Quang ra quyết định thu
hồi 1,842m
2
đất tại thửa 18b của gia đình bà làm công trình Văn hóa và trụ sở UBND
Bạch Xa. Nhưng khi bà chưa nhận được quyết định thu hồi và nhận tiền đền bù thì ngày
16.5.1998 UBND xã đã tổ chức san ủi đất.Liên thấy bất bình nên cản trở, bị công an
huyện bắt giam với tội danh “Gây rối trật tự công công”. Tháng 11.1998 CA huyện đưa
người dân địa phương. Phản ánh những mặt tích cực của tập thể, cá nhân ở địa phương mình, độc giả Châu Giang, huyện Tân Yên, Bắc Giang có bài: “Xử lý rác thải tại nguồn, một mô hình cần được nhân rộng” (7.1.2002). Tác giả khẳng định: Đây là mô hình tốt, một phương pháp hay cần được nhân rộng để đảm bảo vệ sinh môi trường. Qua gần 3 tháng thực hiện 100% hộ dân đều hưởng ứng và làm theo phương pháp xử lý rác thải tại nguồn do Trung tâm KHCN- MT huyện Tân Yên triển khai. Cách làm này tạo thói quen cho mọi người trong hoạt động bảo vệ môi trường. Độc giả Hồ Quang, số 68. 2001 có ghi nhận: “Việc làm tốt của Trạm Vật tư nông nghiệp Nghĩa Đàn”. Bằng nhiều hình thức cởi mở như đầu vụ sản xuất, trạm bán chịu phân cho nông dân không lấy lãi, và trợ giá cước vận chuyển, Trạm VTNN Nghĩa Đàn, Nghệ An đã xuất kho gần được 3000 tấn phân các loại cho người nông dân. Nhờ đó bà con nông dân huyện đã có đủ điều kiện để chăm bón cho 8.238 ha mía, 2.773 ha lúa, 975 ha ngô, 520 ha lạc và 680 ha đậu, đỗ... Còn tại Sóc Trăng, tác giả Phương Nghi có bài: “Rừng ngập mặn ở Sóc Trăng đang được phục hồi” (26.8.2002), phản ánh những kết quả bước đầu của công tác phục hồi rừng ngập mặn tại đây, là tín hiệu đáng mừng khi mà rừng tại đây đang ngày càng bị tàn phá. Tuy vậy, còn không ít những nghịch lý, bất cập đang tồn tại ở hầu hết các địa phương trong cả nước, ảnh hưởng đến đời sống và quyền lợi của người nông dân được độc giả phản ánh qua trang báo NNVN. Đó là những bất hợp lý trong quản lý của một số lãnh đạo địa phương, lợi dụng chức vụ để làm trái quy định của pháp luật, cửa quyền và trù dập nông dân, nổi lên là vấn đề mất dân chủ mà người dân phải gánh chịu. Đã không ít những trường hợp nông dân phải chịu thiệt thòi vì cấp lãnh đạo trì trệ, chậm giải quyết hoặc giải quyết quyền lợi người nông dân được hưởng, một số còn bị mất trắng đất đai, chịu nộp phí trên mức quy định...Bài viết “Một đòi hỏi chính đáng bị trả giá bằng...18 tháng tù và mất toàn bộ đất đai”- Vũ Hữu Sự (4.3.2002) là một ví dụ điển hình. Nội dung bài báo phản ánh sự vô lý và sai trái rõ ràng của cán bộ xã Bạch Xa đối với gia đình bà Liên. Gia đình bà được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 469, đứng tên ông Trần Xuân Hảo, chồng bà. Ngày 14.4.1997, UBND tỉnh Tuyên Quang ra quyết định thu hồi 1,842m 2 đất tại thửa 18b của gia đình bà làm công trình Văn hóa và trụ sở UBND xã Bạch Xa. Nhưng khi bà chưa nhận được quyết định thu hồi và nhận tiền đền bù thì ngày 16.5.1998 UBND xã đã tổ chức san ủi đất. Bà Liên thấy bất bình nên cản trở, bị công an huyện bắt giam với tội danh “Gây rối trật tự công công”. Tháng 11.1998 CA huyện đưa
bà ra xét xử với tội danh trên và tuyên phạt 18 tháng tù...Mặc dù xã Bạch Xa làm trái quy
định của pháp luật nhưng huyện vẫn dung túng, không có biện pháp xử phạt những người
có liên quan, gây bất bình cho người dân địa phương. Hay tại Đồng Than, Yên Mĩ, Hưng
Yên, ông Trần Văn Hậu, lạm dụng chức quyền, ngang nhiên lấy đất của ông Văn Tế
làm đường đi cho ông Phong, dù đã có đơn khiếu nại nhưng vẫn không được giải quyết.
xẻ đất của người này chia cho người khác”- Văn Tế (Đồng Than, Yên Mĩ,
Hưng Yên), 17.1.2002. Rồi thì “Nạn tham nhũng của các quan (12.3.2002), lợi
dụng chức quyền, trong 4 nâm làm chủ nhiệm HTX Đồ Đông (1992- 1995) ông Nguyễn
Đăng Tuấn đã tự ý thu tăng thuỷ lợi phí của dân 4,5kg/sào (Thực thu 13,5kg/sào,
nhưng hợp đồng ký với Công ty Thuỷ nông La Khê chỉ có 9kg/sào). Ông Cao Văn Thật
lên làm chủ nhiệm (1996-2001) tiếp tục làm trái quy định đã có. Ngoài ra còn bán trái
thẩm quyền 33.000m
2
đất với hàng trăm suất, mỗi suất thu từ 2-15 triệu đồng dù khu đất
xã bán chưa có quyết định của UBND tỉnh. Những việc làm trên của xã Đồ Động, Thanh
Oai, Hà Tây đã khiến người dân không tin vào chính quyền, người dân bất bình, lên án
mạnh mẽ.
Bên cạnh đó là những bài viết, nói lên tiếng nói của người dân, cảnh báo, lên án
về những vấn đề, sự việc ảnh hưởng đến đời sống, môi trường của chính người dân:
Không nên bảo quản hành khô bằng loại bột trắng chết người ấy”- Cao Xuân
Lương (Thị xã Sóc Trăng. 17.9.2002), ““Đảo cò” kêu cứu”- Trần Xuân Thân (Hà Nam.
5.3.2002). Từ những phản ánh của độc giả, toà soạn căn cứ và cử phóng viên xuống hiện
trường, điều tra làm rõ, trả lại công bằng và giải đáp thắc mắc thoả đáng cho người dân.
Nhờ tiếng nói của báo NNVN, nhiều địa phương đã có sự can thiệp kịp thời của chính
quyền để giải quyết những vụ việc của vốn đã bị lãng quên từ lâu. Người dân được sự
ủng hộ của báo Nông nghiệp đã tự tin đấu tranh đến cùng cho quyền lợi của mình. Các
bài như: Một nhóm công an Quế Phong đánh người theo kiểu “côn đồ”, coi thường
pháp luật”- Tổ phóng viên Bắc Trung Bộ (7.10.2002), Viện kiểm soát, luật
nhân dân đều ý kiến trái ngược về kết luận của toà án”- Nghiêm Thị Hằng
(16.8.2002)v.v.. đã cung cấp đầy đủ thông tin cho người đọc nói lên tiếng nói của
người nông dân, được dân tin và ủng hộ. Chính điều đó đã khích lệ, động viên tập thể toà
soạn vững tin hơn trong công tác và hoàn thành suất sắc nhiệm vụ vì sự phát triển nông
nghiệp và nâng cao dân trí nông thôn của mình.
bà ra xét xử với tội danh trên và tuyên phạt 18 tháng tù...Mặc dù xã Bạch Xa làm trái quy định của pháp luật nhưng huyện vẫn dung túng, không có biện pháp xử phạt những người có liên quan, gây bất bình cho người dân địa phương. Hay tại Đồng Than, Yên Mĩ, Hưng Yên, ông Trần Văn Hậu, lạm dụng chức quyền, ngang nhiên lấy đất của ông Lê Văn Tế làm đường đi cho ông Phong, dù đã có đơn khiếu nại nhưng vẫn không được giải quyết. “Xã xẻ đất của người này chia cho người khác”- Lê Văn Tế (Đồng Than, Yên Mĩ, Hưng Yên), 17.1.2002. Rồi thì “Nạn tham nhũng của các quan xã” (12.3.2002), lợi dụng chức quyền, trong 4 nâm làm chủ nhiệm HTX Đồ Đông (1992- 1995) ông Nguyễn Đăng Tuấn đã tự ý thu tăng thuỷ lợi phí của dân 4,5kg/sào (Thực thu là 13,5kg/sào, nhưng hợp đồng ký với Công ty Thuỷ nông La Khê chỉ có 9kg/sào). Ông Cao Văn Thật lên làm chủ nhiệm (1996-2001) tiếp tục làm trái quy định đã có. Ngoài ra còn bán trái thẩm quyền 33.000m 2 đất với hàng trăm suất, mỗi suất thu từ 2-15 triệu đồng dù khu đất xã bán chưa có quyết định của UBND tỉnh. Những việc làm trên của xã Đồ Động, Thanh Oai, Hà Tây đã khiến người dân không tin vào chính quyền, người dân bất bình, lên án mạnh mẽ. Bên cạnh đó là những bài viết, nói lên tiếng nói của người dân, cảnh báo, lên án về những vấn đề, sự việc có ảnh hưởng đến đời sống, môi trường của chính người dân: “Không nên bảo quản hành khô bằng loại bột trắng chết người ấy”- Cao Xuân Lương (Thị xã Sóc Trăng. 17.9.2002), ““Đảo cò” kêu cứu”- Trần Xuân Thân (Hà Nam. 5.3.2002). Từ những phản ánh của độc giả, toà soạn căn cứ và cử phóng viên xuống hiện trường, điều tra làm rõ, trả lại công bằng và giải đáp thắc mắc thoả đáng cho người dân. Nhờ tiếng nói của báo NNVN, ở nhiều địa phương đã có sự can thiệp kịp thời của chính quyền để giải quyết những vụ việc của vốn đã bị lãng quên từ lâu. Người dân được sự ủng hộ của báo Nông nghiệp đã tự tin đấu tranh đến cùng cho quyền lợi của mình. Các bài như: “Một nhóm công an Quế Phong đánh người theo kiểu “côn đồ”, coi thường pháp luật”- Tổ phóng viên Bắc Trung Bộ (7.10.2002), “Viện kiểm soát, luật sư và nhân dân đều có ý kiến trái ngược về kết luận của toà án”- Nghiêm Thị Hằng (16.8.2002)v.v.. đã cung cấp đầy đủ thông tin cho người đọc và nói lên tiếng nói của người nông dân, được dân tin và ủng hộ. Chính điều đó đã khích lệ, động viên tập thể toà soạn vững tin hơn trong công tác và hoàn thành suất sắc nhiệm vụ vì sự phát triển nông nghiệp và nâng cao dân trí nông thôn của mình.
4.2. Biểu dương gương người tốt, việc tốt.
Biểu dương người tốt, việc tốt đang là việc làm đầy ý nghĩa, thể hiện tinh thần
nhân đạo, tương thân tương ái vốn có của dân tộc Việt Nam. Báo NNVN đã phản ánh về
những tập thể, cá nhân đã hết lòng vì người khác, sẵn sàng góp sức mình vào công cuộc
xây dựng một nông thôn mới, giúp đỡ người nghèo khó được cuộc sống tốt đẹp hơn.
Bài viết “Người suốt đời vì nụ cười trẻ thơ”- Nguyễn Thế Trường (Hải Dương. Số 165,
5.9.2002) viết về tấm lòng của bác sĩ Nguyễn Hữu Phần, Trưởng khoa Răng- Hàm- Mặt,
Bệnh viện Đa khoa Hải Dương, người đã cải tiến thiết bị phanh để dùng mổ hàm ếch cho
trẻ. Hay như bài Tấm lòng của một cụ già 80 tuổi”- Vũ Minh Việt (14.1.2002) ghi
nhận lòng tốt của cụ Bùi Đức Cố, xóm 1, Thinh Liệt, huyện Thanh Trì, Nội hàng
ngày đan lát lấy tiền ủng hộ những gia đình con em bị nhiễm chất độc màu da cam.
Mỗi năm cụ hiện cho Quỹ tấm lòng vàng từ ba đến bốn trăm ngàn đồng. Trưởng thôn
Nguyễn Duy Ban Báo Đáp, Trấn Yên, Yên Bái, nhận thấy hệ thống mương máng của
thôn đã có từ lâu nhưng hư hỏng nặng, anh đặt vấn đề với UBND xã để sửa sang. Xã nhất
trí cho thôn anh xây dựng kiên cố hoá kênh mương với công thức 6/4 (60% vốn của nhà
nước, 40% tự túc của nhân dân), anh huy động con đóng góp ngày công, cùng xây
dựng hệ thống kênh mương của mình. Anh còn tìm mua các loại phân bón hoá học, giống
cây mới có năng suất vận chuyển về tận thôn cho bà con. Người trưởng thôn công tác
tốt, lao động giỏi”- Sở Hữu (31.1.2002).
4.2. Biểu dương gương người tốt, việc tốt. Biểu dương người tốt, việc tốt đang là việc làm đầy ý nghĩa, thể hiện tinh thần nhân đạo, tương thân tương ái vốn có của dân tộc Việt Nam. Báo NNVN đã phản ánh về những tập thể, cá nhân đã hết lòng vì người khác, sẵn sàng góp sức mình vào công cuộc xây dựng một nông thôn mới, giúp đỡ người nghèo khó có được cuộc sống tốt đẹp hơn. Bài viết “Người suốt đời vì nụ cười trẻ thơ”- Nguyễn Thế Trường (Hải Dương. Số 165, 5.9.2002) viết về tấm lòng của bác sĩ Nguyễn Hữu Phần, Trưởng khoa Răng- Hàm- Mặt, Bệnh viện Đa khoa Hải Dương, người đã cải tiến thiết bị phanh để dùng mổ hàm ếch cho trẻ. Hay như bài “Tấm lòng của một cụ già 80 tuổi”- Vũ Minh Việt (14.1.2002) ghi nhận lòng tốt của cụ Bùi Đức Cố, xóm 1, xã Thinh Liệt, huyện Thanh Trì, Hà Nội hàng ngày đan lát lấy tiền ủng hộ những gia đình có con em bị nhiễm chất độc màu da cam. Mỗi năm cụ hiện cho Quỹ tấm lòng vàng từ ba đến bốn trăm ngàn đồng. Trưởng thôn Nguyễn Duy Ban ở Báo Đáp, Trấn Yên, Yên Bái, nhận thấy hệ thống mương máng của thôn đã có từ lâu nhưng hư hỏng nặng, anh đặt vấn đề với UBND xã để sửa sang. Xã nhất trí cho thôn anh xây dựng kiên cố hoá kênh mương với công thức 6/4 (60% vốn của nhà nước, 40% tự túc của nhân dân), anh huy động bà con đóng góp ngày công, cùng xây dựng hệ thống kênh mương của mình. Anh còn tìm mua các loại phân bón hoá học, giống cây mới có năng suất vận chuyển về tận thôn cho bà con. “Người trưởng thôn công tác tốt, lao động giỏi”- Sở Hữu (31.1.2002).
Chương 3
Hình thức thể hiện trên báo nông nghiệp việt nam
1. đánh giá chung.
Thể loại báo chí là hình thức để truyền tải nội dung thông tin mà bất kỳ phương
tiện báo chí nào cũng đều phải sử dụng. Có nhiều cách hiểu khác nhau về thể loại: “Thể
loại báo chí hình thức biểu hiện bản thống nhất ổn định của nhóm lớn các bài
báo, là cách lựa chọn công cụ, phương tiện, phương pháp và hình thức trình bày tác phẩm
báo chí sao cho phù hợp với nội dung, thích ứng với từng tình huống sự kiện, đặc biệt là
sao cho th thể chứa đựng nội dung bài báo cần trình bày” [6, 4]. Tác giả Đinh
Hường, trong bài “Một số vấn đề thể loại báo chí” cho rằng: “Thể loại báo chí hình
thức biểu hiện bản thống nhất tương đối ổn định của các bài báo, được phân chia
theo phương thức phản ánh hiện thực, sử dụng ngôn ngữ và các công cụ khác để truyền
tải nội dung mang tính chính trị- tư tưởng nhất định” [7, 402].
Từ điển Bách khoa toàn thư của Liên giải thích: “Thể loại khái quát hoá
một loạt tác phẩm có cùng thuộc tính về nội dung, hình thức, cách biểu hiện tác phẩm của
một thời đại, một dân tộc, một giai đoạn hay một nền nghệ thuật thế giới” [6, 2]. Quan
niệm này cho thấy: Muốn nhận thức được thể loại cần thiết phải “khái quát hoá”, nghĩa là
dùng trí tưởng tượng để tìm thấy những sự giống nhau (cùng thuộc tính) của loạt tác phẩm
đang giữ vai trò là “tính trội” so với một loạt tác phẩm khác. Nói cách khác là cần căn cứ
vào một số tiêu chí để phân biệt thể loại này với thể loại khác. Đó là: 1. Đặc thù của đối
tượng mô tả, 2. Chắc năng và nhiệm vụ của tác phẩm báo chí, 3. Phạm vi của sự mô tả và ý
nghĩa của sự khái quát các kết luận, 4. Các phương tiện tái hiện hình ảnh mức độ
truyển cảm.
Thể loại báo chí được hình thành và tồn tại tương đối ổn định và được chia làm
ba nhóm chính: Nhóm Thông tấn, Nhóm Chính luận, Nhóm Chính luận nghệ thuật.
Trong mỗi nhóm đều những đặc điểm của hệ thống thể loại đều chức năng
truyền tải nội dung thông tin. Các thể loại được sử dụng trên báo NNVN đa dạng và
phong phú và phân bổ đều trong cả ba nhóm thể loại: Thể loại thông tấn (Tin, phỏng vấn,
tường thuật...), Chính luận (Xã luận, bình luận, điểu tra...), Chính luận nghệ thuật (Phóng
sự, ký chân dung, ghi chép...). Sự phân bố này tạo ra sự đa dạng trong hình thức truyền
tải và thu được hiệu quả trong mục đích tuyên truyền của tờ báo. Bên cạnh đó có sự giao
Chương 3 Hình thức thể hiện trên báo nông nghiệp việt nam 1. đánh giá chung. Thể loại báo chí là hình thức để truyền tải nội dung thông tin mà bất kỳ phương tiện báo chí nào cũng đều phải sử dụng. Có nhiều cách hiểu khác nhau về thể loại: “Thể loại báo chí là hình thức biểu hiện cơ bản thống nhất và ổn định của nhóm lớn các bài báo, là cách lựa chọn công cụ, phương tiện, phương pháp và hình thức trình bày tác phẩm báo chí sao cho phù hợp với nội dung, thích ứng với từng tình huống sự kiện, đặc biệt là sao cho thể nó có thể chứa đựng nội dung bài báo cần trình bày” [6, 4]. Tác giả Đinh Hường, trong bài “Một số vấn đề thể loại báo chí” cho rằng: “Thể loại báo chí là hình thức biểu hiện cơ bản thống nhất và tương đối ổn định của các bài báo, được phân chia theo phương thức phản ánh hiện thực, sử dụng ngôn ngữ và các công cụ khác để truyền tải nội dung mang tính chính trị- tư tưởng nhất định” [7, 402]. Từ điển Bách khoa toàn thư của Liên Xô giải thích: “Thể loại là khái quát hoá một loạt tác phẩm có cùng thuộc tính về nội dung, hình thức, cách biểu hiện tác phẩm của một thời đại, một dân tộc, một giai đoạn hay một nền nghệ thuật thế giới” [6, 2]. Quan niệm này cho thấy: Muốn nhận thức được thể loại cần thiết phải “khái quát hoá”, nghĩa là dùng trí tưởng tượng để tìm thấy những sự giống nhau (cùng thuộc tính) của loạt tác phẩm đang giữ vai trò là “tính trội” so với một loạt tác phẩm khác. Nói cách khác là cần căn cứ vào một số tiêu chí để phân biệt thể loại này với thể loại khác. Đó là: 1. Đặc thù của đối tượng mô tả, 2. Chắc năng và nhiệm vụ của tác phẩm báo chí, 3. Phạm vi của sự mô tả và ý nghĩa của sự khái quát và các kết luận, 4. Các phương tiện tái hiện hình ảnh và mức độ truyển cảm. Thể loại báo chí được hình thành và tồn tại tương đối ổn định và được chia làm ba nhóm chính: Nhóm Thông tấn, Nhóm Chính luận, Nhóm Chính luận nghệ thuật. Trong mỗi nhóm đều có những đặc điểm của hệ thống thể loại và đều có chức năng truyền tải nội dung thông tin. Các thể loại được sử dụng trên báo NNVN đa dạng và phong phú và phân bổ đều trong cả ba nhóm thể loại: Thể loại thông tấn (Tin, phỏng vấn, tường thuật...), Chính luận (Xã luận, bình luận, điểu tra...), Chính luận nghệ thuật (Phóng sự, ký chân dung, ghi chép...). Sự phân bố này tạo ra sự đa dạng trong hình thức truyền tải và thu được hiệu quả trong mục đích tuyên truyền của tờ báo. Bên cạnh đó có sự giao
thoa giữa các thể loại với nhau để tạo ra sự đa dạng trong hình thức thể hiện của báo chí.
Ngoài ra, tất cả các thể loại đều đảm bảo nguyên tắc truyền tải skiện, sviệc có thật,
phản ánh chân thực đời sống xã hội và có tác động đến nhận thức của con người.
Qua khảo sát trong 2 năm (2001-2002) của báo NNVN, chúng ta số liệu
thống kê thể loại báo chí trong mỗi kỳ như sau.
Năm
Thể loại
Năm 2001 Năm 2002
Tin 54 (%) 47 (%)
Bài phản ánh 16 21,3
Ghi chép 6,5 5,3
Điều tra 1,6- 3,3 4
Phóng sự 1,6 1,3-2,7
Câu chuyện báo chí 1,6 1,3
Các thể loại khác 17-18,7 17,4-18,8
Các thể loại xuất hiện trên báo NNVN trong hai năm qua không có sự biến động
lớn. Thể loại chủ đạo trên báo NNVN tin, bài phản ánh, ghi chép. Do khuân khổ
khóa luận nên tác giả chỉ đi sâu tìm hiểu những thể loại báo chí thường xuyên xuất
hiện trên báo NNVN trong 2 năm (2001- 2002).
2. hệ thống Các thể loại thường xuyên xuất hiện.
2.1. Tin.
Tin thể loại thuộc nhóm thông tấn, được sử dụng với tần suất lớn nhất trên
báo chí, bởi thông tin gắn gọn, đúc, phản ánh nhanh và kịp thời các sự kiện, hiện
tượng có thực, tiêu biểu vừa xảy ra, đang xảy ra trong đời sống, ý nghĩa chính trị
hội nhất định. Do đó, tin có tác động trực tiếp đến nhận thức của con người, dễ hiểu, dễ
nhớ. Tin trên báo NNVN chiếm số lượng lớn nhất trên báo (khoảng 50%), đây là yêu cầu
khách quan đối với loại hình báo chí nói chung, tuy nhiên tin trên báo NNVN không
mạnh bởi đây tờ báo thuộc chuyên ngành, phát hành định kỳ, tập trung chủ yếu phản
thoa giữa các thể loại với nhau để tạo ra sự đa dạng trong hình thức thể hiện của báo chí. Ngoài ra, tất cả các thể loại đều đảm bảo nguyên tắc truyền tải sự kiện, sự việc có thật, phản ánh chân thực đời sống xã hội và có tác động đến nhận thức của con người. Qua khảo sát trong 2 năm (2001-2002) của báo NNVN, chúng ta có số liệu thống kê thể loại báo chí trong mỗi kỳ như sau. Năm Thể loại Năm 2001 Năm 2002 Tin 54 (%) 47 (%) Bài phản ánh 16 21,3 Ghi chép 6,5 5,3 Điều tra 1,6- 3,3 4 Phóng sự 1,6 1,3-2,7 Câu chuyện báo chí 1,6 1,3 Các thể loại khác 17-18,7 17,4-18,8 Các thể loại xuất hiện trên báo NNVN trong hai năm qua không có sự biến động lớn. Thể loại chủ đạo trên báo NNVN là tin, bài phản ánh, ghi chép. Do khuân khổ khóa luận nên tác giả chỉ đi sâu tìm hiểu những thể loại báo chí thường xuyên xuất hiện trên báo NNVN trong 2 năm (2001- 2002). 2. hệ thống Các thể loại thường xuyên xuất hiện. 2.1. Tin. Tin là thể loại thuộc nhóm thông tấn, được sử dụng với tần suất lớn nhất trên báo chí, bởi thông tin gắn gọn, cô đúc, phản ánh nhanh và kịp thời các sự kiện, hiện tượng có thực, tiêu biểu vừa xảy ra, đang xảy ra trong đời sống, có ý nghĩa chính trị xã hội nhất định. Do đó, tin có tác động trực tiếp đến nhận thức của con người, dễ hiểu, dễ nhớ. Tin trên báo NNVN chiếm số lượng lớn nhất trên báo (khoảng 50%), đây là yêu cầu khách quan đối với loại hình báo chí nói chung, tuy nhiên tin trên báo NNVN không mạnh bởi đây là tờ báo thuộc chuyên ngành, phát hành định kỳ, tập trung chủ yếu phản
ánh các vấn đề liên quan đến nông nghiệp, nông thôn nông dân tính định kỳ, lâu
dài, nên tin không phải là thế mạnh của tờ báo. Các loạt tin được sử dụng trên NNVN chủ
yếu tin vắn, tin tổng hợp tin bình nội dung phản ánh chủ yếu là các hoạt động
liên quan đến nông nghiệp, nông thôn và nông dân. Đặc biệt trên báo NNVN, hầu hết đều
có tin chuyên đề của trang báo như: trang “Khuyến nông” luôn có chùm tin mang tên
Hoạt động Khuyến nông- lâm- ngư”, trang “Thời sự” có chùm tin “Đọc nhanh”...
* Tin vắn.
dạng tin dung lượng ngắn gọn, được đăng tải trên các loại hình báo chí,
thông báo một cách ngắn gọn nhất về sự kiện với độ dài từ 3- 5 dòng, trong vòng 100 chữ.
Tin vắn sử dụng để thông báo về chi tiết, tính chất... mới, đang xảy ra. Như tin: Cấp 17
tấn gạo cho trẻ em nghèo” (4.1.2002), còn bài: Bạc Liêu: Khánh thành nhà máy chế
biến thức ăn gia súc”- Phương Giang. (số 151 16.8.2002), tác giả đã trả lời câu hỏi: Ai?
Làm gì? ở đâu? Khi nào? Tại sao?
Ai? Nhà máy chế biến thức ăn gia súc
Làm gì? Khánh thành
ở đâu? Khánh Hoà
Khi nào? ngày 16.8.2002
Tại sao? Đáp ứng nhu cầu của vùng chuyển dịch cơ cấu kinh tế
* Tin tổng hợp.
tin nêu tóm tắt những sự kiện, hiện tượng tầm quan trọng ngang nhau
trong thời gian nhất định. Đó “tóm tắt tin trong ngày”, “thời sự thế giới tuần qua”,
“tình hình sản xuất thời gian qua”...Các chi tiết trong tin tổng hợp thường được bố trí
theo một trật tự nhất định. Dạng tin này được sử dụng rộng rãi trên NNVN vì nó đáp ứng
nhu cầu khách quan của công chúng tiếp nhận thông tin, phù hợp với mục đích tuyên
truyền của tờ báo trong việc điều hành phát triển nông nghiệp, nông thôn, chính sách mới
hay tin khắp mọi miền. Sắp phát hành thẻ Card di động mệnh giá thấp”- N.C,
90.000 nhãn hàng hoá được đăng ký bảo hộ sở hữu”- NC (1.5.2002)
* Chùm tin.
Là tập hợp những tin bài có cùng chủ đề thống nhất, gây ấn tượng sâu sắc, có ý
nghĩa cổ động tuyên truyền. Trên báo NNVN, các chính sách mới đối với nông nghiệp,
nông thông, thông tin Khắp mọi miền đều được đăng tải dưới dạng chùm tin. Điển hình
ánh các vấn đề liên quan đến nông nghiệp, nông thôn và nông dân có tính định kỳ, lâu dài, nên tin không phải là thế mạnh của tờ báo. Các loạt tin được sử dụng trên NNVN chủ yếu là tin vắn, tin tổng hợp và tin bình và nội dung phản ánh chủ yếu là các hoạt động liên quan đến nông nghiệp, nông thôn và nông dân. Đặc biệt trên báo NNVN, hầu hết đều có tin chuyên đề của trang báo như: trang “Khuyến nông” luôn có chùm tin mang tên “ Hoạt động Khuyến nông- lâm- ngư”, trang “Thời sự” có chùm tin “Đọc nhanh”... * Tin vắn. Là dạng tin có dung lượng ngắn gọn, được đăng tải trên các loại hình báo chí, thông báo một cách ngắn gọn nhất về sự kiện với độ dài từ 3- 5 dòng, trong vòng 100 chữ. Tin vắn sử dụng để thông báo về chi tiết, tính chất... mới, đang xảy ra. Như tin: “Cấp 17 tấn gạo cho trẻ em nghèo” (4.1.2002), còn bài: “Bạc Liêu: Khánh thành nhà máy chế biến thức ăn gia súc”- Phương Giang. (số 151 16.8.2002), tác giả đã trả lời câu hỏi: Ai? Làm gì? ở đâu? Khi nào? Tại sao? Ai? Nhà máy chế biến thức ăn gia súc Làm gì? Khánh thành ở đâu? Khánh Hoà Khi nào? ngày 16.8.2002 Tại sao? Đáp ứng nhu cầu của vùng chuyển dịch cơ cấu kinh tế * Tin tổng hợp. Là tin nêu tóm tắt những sự kiện, hiện tượng có tầm quan trọng ngang nhau trong thời gian nhất định. Đó là “tóm tắt tin trong ngày”, “thời sự thế giới tuần qua”, “tình hình sản xuất thời gian qua”...Các chi tiết trong tin tổng hợp thường được bố trí theo một trật tự nhất định. Dạng tin này được sử dụng rộng rãi trên NNVN vì nó đáp ứng nhu cầu khách quan của công chúng tiếp nhận thông tin, phù hợp với mục đích tuyên truyền của tờ báo trong việc điều hành phát triển nông nghiệp, nông thôn, chính sách mới hay tin khắp mọi miền. “Sắp phát hành thẻ Card di động mệnh giá thấp”- N.C, “90.000 nhãn hàng hoá được đăng ký bảo hộ sở hữu”- NC (1.5.2002) * Chùm tin. Là tập hợp những tin bài có cùng chủ đề thống nhất, gây ấn tượng sâu sắc, có ý nghĩa cổ động tuyên truyền. Trên báo NNVN, các chính sách mới đối với nông nghiệp, nông thông, thông tin Khắp mọi miền đều được đăng tải dưới dạng chùm tin. Điển hình
như số ra ngày 4.1.2002. T6. Đó là tin khắp mọi miền, cùng chủ đề kinh tế nông thôn, với
số liệu chính xác, chân thực: Kiên Giang: Thêm 8.000 hộ nông dân sản xuất giỏi”-
Hoàng Đường, Quảng Bình: Hoàn thành 64 công trình 135”- Võ Thanh Mai. Hay số
báo ra ngày 1.5.2001, T24 chùm tin về hoạt động Khuyến Nông- Lâm- Ngư:
“Đăklắk: Sẽ thành lập 58 CLB khuyến nông”- Đào Đình Phượng
* Tin bình (tin sâu).
tin thể hiện các sự kiện hiện tượng, quá trình con người quan trọng nhưng
chưa đến mức viết thành bài bình luận. Tin bình thường sử dụng khi phản ánh các vấn
đề, mối quan hệ trong nước, khu vực, thế giới hay một vấn đề nào đó. Tìm hiểu tin “Bình
Định: Xây dựng đập dâng theo công nghệ mới”, (12.9.2002), chúng ta thấy tin ngắn
gọn, xúc tích, mang đủ các yếu tố cấu thành một tin, phản ánh đầy đủ những thông điệp
đặc trưng về nội dung, hình thức của sự kiện mang tính thời sự. Tác giả đánh giá: “Đây
công trình đầu tiên tại địa phương được BQL dự án thuỷ lợi tỉnh xây dựng theo công nghệ
chỉ một cửa đóng- xả lắp đặt bằng túi cao su và hệ thống bơm, vận hành đơn giản, nhưng
thoát lũ nhanh”.
Theo cấu trúc thì cái gì mới nhất, có ý nghĩa nhất được đưa lên đầu. Sau đó các
chi tiết khác lần lượt được chi tiết hoá. Báo NNVN đã sử dụng khá nhiều loại tin này, đăng
tải trên trang 2 của báo. Một số tin bình khác như: “Long An: Trích 1,5% tiền thu thuế
sử dụng đất nông nghiệp để chi cho công tác khuyến nông”- Đoàn Văn Minh
(21.1.2002), Tp. HCM: Các chủ trang trại Nhật Bản tham quan trang trại Việt
Nam”- Ngô Sơn (15.1.2002)...
2.2. Bài phản ánh.
dạng xuất hiện nhiều trên báo NNVN, chỉ sau thể loại tin. Bài phản ánh
không chỉ dừng lại ở sự tả các sự kiện, hiện tượng, vấn đề của cuộc sống mà còn lý
giải, khái quát, so sánh phân tích các sự kiện đó. Tuy nhiên bài phản ánh chưa được
coi một thể loại báo chí thường được dùng với nghĩa để khu biệt với Tin về mặt
dung lượng. Tác giả Đức Dũng cho rằng: “Bài phản ánh được đề cập tới đây không
phải một thể loại báo chí. Đây chỉ những dạng bài thông tin phản ánh tuy vẫn đáp
ứng những tiêu chí của một tác phẩm báo chí (như tính xác thực, tính thời sự...) nhưng
chưa đạt tới tiêu chuẩn của thể loại” [8, 73]. Nội dung bài phản ánh khá phong phú vì nó
thích hợp phản ánh nhiều vấn đề trong đời sống xã hội. Đề tài của bài phản ánh đa dạng,
như số ra ngày 4.1.2002. T6. Đó là tin khắp mọi miền, cùng chủ đề kinh tế nông thôn, với số liệu chính xác, chân thực: “Kiên Giang: Thêm 8.000 hộ nông dân sản xuất giỏi”- Hoàng Đường, “Quảng Bình: Hoàn thành 64 công trình 135”- Võ Thanh Mai. Hay số báo ra ngày 1.5.2001, T24 có chùm tin về hoạt động Khuyến Nông- Lâm- Ngư: “Đăklắk: Sẽ thành lập 58 CLB khuyến nông”- Đào Đình Phượng * Tin bình (tin sâu). Là tin thể hiện các sự kiện hiện tượng, quá trình con người quan trọng nhưng chưa đến mức viết thành bài bình luận. Tin bình thường sử dụng khi phản ánh các vấn đề, mối quan hệ trong nước, khu vực, thế giới hay một vấn đề nào đó. Tìm hiểu tin “Bình Định: Xây dựng đập dâng theo công nghệ mới”, (12.9.2002), chúng ta thấy tin ngắn gọn, xúc tích, mang đủ các yếu tố cấu thành một tin, phản ánh đầy đủ những thông điệp đặc trưng về nội dung, hình thức của sự kiện mang tính thời sự. Tác giả đánh giá: “Đây là công trình đầu tiên tại địa phương được BQL dự án thuỷ lợi tỉnh xây dựng theo công nghệ chỉ một cửa đóng- xả lắp đặt bằng túi cao su và hệ thống bơm, vận hành đơn giản, nhưng thoát lũ nhanh”. Theo cấu trúc thì cái gì mới nhất, có ý nghĩa nhất được đưa lên đầu. Sau đó các chi tiết khác lần lượt được chi tiết hoá. Báo NNVN đã sử dụng khá nhiều loại tin này, đăng tải trên trang 2 của báo. Một số tin bình khác như: “Long An: Trích 1,5% tiền thu thuế sử dụng đất nông nghiệp để chi cho công tác khuyến nông”- Đoàn Văn Minh (21.1.2002), “Tp. HCM: Các chủ trang trại Nhật Bản tham quan trang trại Việt Nam”- Ngô Sơn (15.1.2002)... 2.2. Bài phản ánh. Là dạng xuất hiện nhiều trên báo NNVN, chỉ sau thể loại tin. Bài phản ánh không chỉ dừng lại ở sự mô tả các sự kiện, hiện tượng, vấn đề của cuộc sống mà còn lý giải, khái quát, so sánh và phân tích các sự kiện đó. Tuy nhiên bài phản ánh chưa được coi là một thể loại báo chí mà thường được dùng với nghĩa để khu biệt với Tin về mặt dung lượng. Tác giả Đức Dũng cho rằng: “Bài phản ánh được đề cập tới ở đây không phải là một thể loại báo chí. Đây chỉ là những dạng bài thông tin phản ánh tuy vẫn đáp ứng những tiêu chí của một tác phẩm báo chí (như tính xác thực, tính thời sự...) nhưng chưa đạt tới tiêu chuẩn của thể loại” [8, 73]. Nội dung bài phản ánh khá phong phú vì nó thích hợp phản ánh nhiều vấn đề trong đời sống xã hội. Đề tài của bài phản ánh đa dạng,
giúp người tiếp nhận hiểu và nhận biết vấn đề theo đúng những gì phản ánh trong tác
phẩm. Dung lượng của bài phản ánh ngắn gọn, kết cấu gắn liền với sự kiện, ngôn ngữ
gần với đời sống hiện thực, phù hợp với đối tượng tiếp nhận của báo NNVN đa phần
người nông dân. Bài phản ánh được chia làm 3 nhóm lớn đó là: Bài phản ánh thông tin,
bài phản ánh phân tích và bài phản ánh nêu vấn đề. Các dạng bài phản ánh trên NNVN đã
phát huy hiệu quả trong việc đi sâu phản ánh hoạt động mới của các sở, địa phương
trong việc phát triển nông nghiệp xây dựng nông thôn mới chúng được sử dụng
ngang nhau trên tờ báo.
Các bài Bao giờ Bắc Sơn hêt nghèo?” (Mạnh Đồng- Số 10. 2001), “Điện về
nông thôn làm sao gỡ rối” (Hữu Đức- 26.1.2001), “Vệ sinh an toàn thực phẩm. Thách
thức và trăn trở...!” (Ngô Sơn. Số 22.2002), Văn hoá nông thôn- bài toán chưa có lời
giải” (Tiến Đạt. S104.2001)... là những bài phản ánh nêu vấn đề. Các tác giả của bài viết
đã đưa ra các sự kiện, hiện tượng, vấn đề và từ đó đưa ra các dự báo, phán đoán đối với
các vấn đề tác giả đề cập tới. Tìm hiểu bài Suy nghĩ về phát triển nông nghiệp theo
hướng sản xuất hàng hoá thị Bắc Giang của Đỗ Thành Nam, Số 37 ngày
5.3.2002, sau khi đưa ra những thành tích đã đạt được về nông nghiệp của thị xã Bắc
Giang do mạnh dạn đưa các loại rau giống mới có năng suất, chất lượng cao vào sản xuất,
tác giả nêu lên thực trạng: “Do nhận thức của một số người dân chưa cao về kỹ thuật
chăm sóc, phòng trừ sâu bệnh những giống lúa mới, nên đã phần nào làm ảnh hưởng đến
hiệu quả các loại giống lúa này. Vấn đề phát triển cây vụ đông cũng chưa được nhiều
người dân “thiết tha” lắm. Thực tế những năm vừa qua, nhiều diện tích đất canh tác đã bị
bỏ không, làm giảm tổng thu nhập trên một đơn vị diện tích đất canh tác”. Trên sở
phân tích những tồn đọng ở đây tác giả đã đưa ra đề nghị: Để khắc phục khó khăn trên,
trước hết TX Bắc Giang cần có quy hoạch khoanh vùng cụ thể hơn trong diện chuyển đổi
diện tích cấy lúa 1 vụ không ăn chắc sang nuôi thả cá tới tận thôn, xóm để mọi người dân
được biết. Thị cần chế chính sách cụ thể về vốn, giống, KHKT, xây dựng các
mô hình trình diễn về nuôi thả để giới thiệu cho mọi người tham quan, học tập... Bài
Văn hoá nông thôn: Bài toán chưa có lời giảicủa Tiến Đạt đã nêu lên thực trạng về
đói kinh phí hoạt động văn hoá ở cơ sở, tất cả kinh phí đều kêu gọi dân đóng góp. Đây là
vấn đề chung đã tồn tại ở nông thôn hiện nay.
giúp người tiếp nhận hiểu và nhận biết vấn đề theo đúng những gì phản ánh trong tác phẩm. Dung lượng của bài phản ánh ngắn gọn, kết cấu gắn liền với sự kiện, ngôn ngữ gần với đời sống hiện thực, phù hợp với đối tượng tiếp nhận của báo NNVN là đa phần người nông dân. Bài phản ánh được chia làm 3 nhóm lớn đó là: Bài phản ánh thông tin, bài phản ánh phân tích và bài phản ánh nêu vấn đề. Các dạng bài phản ánh trên NNVN đã phát huy hiệu quả trong việc đi sâu phản ánh hoạt động mới của các cơ sở, địa phương trong việc phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới và chúng được sử dụng ngang nhau trên tờ báo. Các bài “Bao giờ Bắc Sơn hêt nghèo?” (Mạnh Đồng- Số 10. 2001), “Điện về nông thôn làm sao gỡ rối” (Hữu Đức- 26.1.2001), “Vệ sinh an toàn thực phẩm. Thách thức và trăn trở...!” (Ngô Sơn. Số 22.2002), “Văn hoá nông thôn- bài toán chưa có lời giải” (Tiến Đạt. S104.2001)... là những bài phản ánh nêu vấn đề. Các tác giả của bài viết đã đưa ra các sự kiện, hiện tượng, vấn đề và từ đó đưa ra các dự báo, phán đoán đối với các vấn đề tác giả đề cập tới. Tìm hiểu bài “Suy nghĩ về phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá ở thị xã Bắc Giang” của Đỗ Thành Nam, Số 37 ngày 5.3.2002, sau khi đưa ra những thành tích đã đạt được về nông nghiệp của thị xã Bắc Giang do mạnh dạn đưa các loại rau giống mới có năng suất, chất lượng cao vào sản xuất, tác giả nêu lên thực trạng: “Do nhận thức của một số người dân chưa cao về kỹ thuật chăm sóc, phòng trừ sâu bệnh những giống lúa mới, nên đã phần nào làm ảnh hưởng đến hiệu quả các loại giống lúa này. Vấn đề phát triển cây vụ đông cũng chưa được nhiều người dân “thiết tha” lắm. Thực tế những năm vừa qua, nhiều diện tích đất canh tác đã bị bỏ không, làm giảm tổng thu nhập trên một đơn vị diện tích đất canh tác”. Trên cơ sở phân tích những tồn đọng ở đây tác giả đã đưa ra đề nghị: Để khắc phục khó khăn trên, trước hết TX Bắc Giang cần có quy hoạch khoanh vùng cụ thể hơn trong diện chuyển đổi diện tích cấy lúa 1 vụ không ăn chắc sang nuôi thả cá tới tận thôn, xóm để mọi người dân được biết. Thị xã cần có cơ chế chính sách cụ thể về vốn, giống, KHKT, xây dựng các mô hình trình diễn về nuôi thả cá để giới thiệu cho mọi người tham quan, học tập... Bài “Văn hoá nông thôn: Bài toán chưa có lời giải” của Tiến Đạt đã nêu lên thực trạng về đói kinh phí hoạt động văn hoá ở cơ sở, tất cả kinh phí đều kêu gọi dân đóng góp. Đây là vấn đề chung đã tồn tại ở nông thôn hiện nay.
Với dạng bài phản ánh thông tin là dạng bài rất gần với thể loại tin nhưng nó lại
bao hàm lượng thông tin lớn hơn, phân tích tỷ mỉ về một vấn đề nhất định, cung cấp cho
công chúng những thông tin đầy đủ, từ đó rút ra được những kinh nghiệm cần thiết sau
khi tiếp nhận thông tin. Bút pháp phân tích trong dạng bài này sử dụng ít, chủ yếu là sử
dụng kết quả cách thức về kết quả đó. Trong bài Phong Điền: Hình thành CLB
nông dân sản xuất kinh doanh(1.5.2001), tác giả Nguyễn Anh đã cung cấp cho
độc giả những thông tin về hoạt động khuyến nông ở Phong Điền: “Qua gần hai năm hoạt
động, CLB mở được 3 lớp tập huấn chuyển giao KHKT. Từ khi thành lập đến nay, năng
suất lúa của nhiều thành viên đạt trên 45 tạ/ ha...”. Hay bài Con trai dùng bả chuột giết
hại cả bố lẫn mẹ” số 8.2002, tác giả Đình Thư đã cung cấp cho người đọc thông tin
về chuyện không thể tin, xảy ra Thái Bình, thôn Thượng Liệt Đông Tân, Đông
Hưng. Đó là vụ anh Ngô Văn Thao dùng thuốc chuột giết chết bố mẹ ruột, gây chấn động
dư luận. Bài báo tiếng chuông cảnh tỉnh những con người mất hết nhân tính, làm suy
đồi giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc, đồng thời cũng phản ánh thực trạng
của nền văn hóa truyền thống đang dần mai một nông thôn, sự xâm nhập của lỗi sống
thực dụng, chủ nghĩa cá nhân, coi trọng đồng tiền và mất hết nhân tính. Phản ánh kịp thời
của bài báo đã có tác dụng tích cực trong việc giáo dục đạo đức, lối sống trong gia đình
các mối quan hệ khác trong hội hiện nay. Các bài: ứng dụng KHCN phục vụ
nông thôn miền núi- một mô hình bước đầu hiệu quả ở miền Trung”- Minh
Trung (5.3.2002), Diễn biến hàng nông sản 4 tháng qua”- Thu Hường. (1.5.2001),
Con gái làng tôi...”- Phong. Số 8. 2001 là những bài phản ánh thông tin được giới
thiệu trên báo NNVN trong hai năm qua.
Dạng bài phản ánh phân tích tác giả lại tập trung vào phân tích, chỉ ra các
nguyên nhân của sự kiện. Và từ đó tác giả đưa ra chính kiến của mình trước vấn đề phân
tích. Trong bài Không cải cách hành chính sẽ không cải cách được tiền lươngtác
giả NTH, (Số 59.2001) phân tích: “ Muốn cải cách tiền lương phải dựa trên tiềm lực của
ngân sách Nhà nước. Trong lúc nguồn lực Nnước còn khó khăn muốn cải cách tiền
lương chỉ còn cách phải cải cách hành chính Nhà nước ngay. Thực tế những năm qua
Ban tổ chức cán bộ Chính phủ cũng đã chương trình cải cách hành chính, nhưng các
Bộ, ngành và các địa phương thực hiện còn khó khăn bởi vấn đề lao động dôi dư sẽ bố trí
ra sao, họ được hưởng những quyền lợi để ổn định cuộc sống không trở thành gánh
Với dạng bài phản ánh thông tin là dạng bài rất gần với thể loại tin nhưng nó lại bao hàm lượng thông tin lớn hơn, phân tích tỷ mỉ về một vấn đề nhất định, cung cấp cho công chúng những thông tin đầy đủ, từ đó rút ra được những kinh nghiệm cần thiết sau khi tiếp nhận thông tin. Bút pháp phân tích trong dạng bài này sử dụng ít, chủ yếu là sử dụng kết quả và cách thức về kết quả đó. Trong bài “Phong Điền: Hình thành CLB nông dân sản xuất kinh doanh” (1.5.2001), tác giả Nguyễn Vũ Anh đã cung cấp cho độc giả những thông tin về hoạt động khuyến nông ở Phong Điền: “Qua gần hai năm hoạt động, CLB mở được 3 lớp tập huấn chuyển giao KHKT. Từ khi thành lập đến nay, năng suất lúa của nhiều thành viên đạt trên 45 tạ/ ha...”. Hay bài “Con trai dùng bả chuột giết hại cả bố lẫn mẹ” số 8.2002, tác giả Vũ Đình Thư đã cung cấp cho người đọc thông tin về chuyện không thể tin, xảy ra ở Thái Bình, thôn Thượng Liệt xã Đông Tân, Đông Hưng. Đó là vụ anh Ngô Văn Thao dùng thuốc chuột giết chết bố mẹ ruột, gây chấn động dư luận. Bài báo là tiếng chuông cảnh tỉnh những con người mất hết nhân tính, làm suy đồi giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc, đồng thời cũng phản ánh thực trạng của nền văn hóa truyền thống đang dần mai một ở nông thôn, sự xâm nhập của lỗi sống thực dụng, chủ nghĩa cá nhân, coi trọng đồng tiền và mất hết nhân tính. Phản ánh kịp thời của bài báo đã có tác dụng tích cực trong việc giáo dục đạo đức, lối sống trong gia đình và các mối quan hệ khác trong xã hội hiện nay. Các bài: “ứng dụng KHCN phục vụ nông thôn và miền núi- một mô hình bước đầu có hiệu quả ở miền Trung”- Minh Trung (5.3.2002), “Diễn biến hàng nông sản 4 tháng qua”- Thu Hường. (1.5.2001), “Con gái làng tôi...”- Vũ Phong. Số 8. 2001 là những bài phản ánh thông tin được giới thiệu trên báo NNVN trong hai năm qua. Dạng bài phản ánh phân tích tác giả lại tập trung vào phân tích, chỉ ra các nguyên nhân của sự kiện. Và từ đó tác giả đưa ra chính kiến của mình trước vấn đề phân tích. Trong bài “Không cải cách hành chính sẽ không cải cách được tiền lương” tác giả NTH, (Số 59.2001) phân tích: “ Muốn cải cách tiền lương phải dựa trên tiềm lực của ngân sách Nhà nước. Trong lúc nguồn lực Nhà nước còn khó khăn muốn cải cách tiền lương chỉ còn cách phải cải cách hành chính Nhà nước ngay. Thực tế những năm qua Ban tổ chức cán bộ Chính phủ cũng đã có chương trình cải cách hành chính, nhưng các Bộ, ngành và các địa phương thực hiện còn khó khăn bởi vấn đề lao động dôi dư sẽ bố trí ra sao, họ được hưởng những quyền lợi gì để ổn định cuộc sống không trở thành gánh
nặng cho xã hội”. Hay bài phê xuống giá- cơ hội để phá bỏ diện tích cà phê kém
hiệu quả”, số 34.2002 của tác giả Mạnh Hùng là một trong những bài phản ánh phân tích
được đăng tải trên NNVN. Tác giả phân tích những cơ hội mở ra khi Đăklắk xoá bỏ cây
cà phê, chuyển sang trồng cây lương thực khác. Đây là hướng phát triển hợp với quy luật,
nhất là trong giai đoạn hiện nay khi Đảng, Nhà nước đang khuyến khích chuyển dịch
cấu cây trồng, vât nuôi cho phù hợp với nhu cầu cung cầu của thị trường, xoá bỏ những
diện tích cây trồng không đem lại năng suất cao: “Trong bối cảnh hiện nay, khi hạt cà phê
đang ngày càng mất giá và lợi nhuận từ cây cà phê mang lại không còn được như trước sẽ
hội để tỉnh Đăklắk thể thực hiện chủ trương phá bỏ những vườn cây kém hiệu
quả, chuyển sang trồng cây khác phù hợp hơn”.
2.3. Thể loại phóng sự.
Là thể loại nằm trong nhóm Chính luận nghệ thuật, nội dung thể hiện là các sự
kiện, vấn đề khách quan tồn tại trong thực tiến, mang tính chất thời sự, có ý nghĩa giáo
dục, định hướng hành vi của con người. “Phóng sự là một thể loại hình ký. Phóng sự ghi
chép kịp thời các sự việc, sự kiện làm sáng tỏ trước công luận một sự kiện, một vấn đề
nào đó liên quan đến số phận một số những người và có ý nghĩa thời sự đối với một
địa phương hay toàn xã hội” [6, 22]. Ngoài ra, phóng sự là thể loại đứng giữa văn học và
báo chí, vừa có khả năng trình bày, diễn tả những con người, sự kiện điển hình trong quá
trình phát sinh, phát triển, đồng thời thẩm định lại hiện thực, qua đó “cái tôi” trần thuật
vừa lý trí, vừa cảm xúc với bút pháp giàu chất văn học. Giọng điệu phóng sự phong phú,
linh hoạt nhằm phản ánh hiện thực vừa sinh động vừa thể hiện được quan điểm, thái độ
trước hiện thực đó. Qua đó tác giả có thể đề xuất, trình bày ý kiến chủ quan của mình
nhiều dạng phóng sự như: Phóng sự điều tra, phóng sự vấn đề, phóng sự
ảnh, phóng sự chân dung... Nhưng trên báo NNVN phóng sự thường xuất hiện là phóng
sự xã hội (tập trung trên trang Văn hóa), phóng sự vấn đề và phóng sự chân dung. Trong
phóng sự Kỳ Anh sau n đại họa(22.5.2001), tác giả Thanh Mai đã mô tả hết
sức chân thực diễn biến, thiệt hại của Kỳ Anh, Tĩnh trong cơn đại hoạ dịch bệnh
đốm trắng, đầu vàng ở tôm. Bài báo cũng phản ánh sự quan tâm của Đảng, Nhà nước
chính quyền địa phương trong chiến dịch chống lại bệnh trên tôm cũng như sự phối hợp
đồng bộ giữa các cấp các ngành trong chiến dịch nuôi trồng và phát triển nghề nuôi trồng
thuỷ sản. “Thứ trưởng Bộ thuỷ sản, Nguyễn Việt Thắng đã cùng với các chuyên gia các
nặng cho xã hội”. Hay bài “Cà phê xuống giá- cơ hội để phá bỏ diện tích cà phê kém hiệu quả”, số 34.2002 của tác giả Mạnh Hùng là một trong những bài phản ánh phân tích được đăng tải trên NNVN. Tác giả phân tích những cơ hội mở ra khi Đăklắk xoá bỏ cây cà phê, chuyển sang trồng cây lương thực khác. Đây là hướng phát triển hợp với quy luật, nhất là trong giai đoạn hiện nay khi Đảng, Nhà nước đang khuyến khích chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vât nuôi cho phù hợp với nhu cầu cung cầu của thị trường, xoá bỏ những diện tích cây trồng không đem lại năng suất cao: “Trong bối cảnh hiện nay, khi hạt cà phê đang ngày càng mất giá và lợi nhuận từ cây cà phê mang lại không còn được như trước sẽ là cơ hội để tỉnh Đăklắk có thể thực hiện chủ trương phá bỏ những vườn cây kém hiệu quả, chuyển sang trồng cây khác phù hợp hơn”. 2.3. Thể loại phóng sự. Là thể loại nằm trong nhóm Chính luận nghệ thuật, nội dung thể hiện là các sự kiện, vấn đề khách quan tồn tại trong thực tiến, mang tính chất thời sự, có ý nghĩa giáo dục, định hướng hành vi của con người. “Phóng sự là một thể loại hình ký. Phóng sự ghi chép kịp thời các sự việc, sự kiện làm sáng tỏ trước công luận một sự kiện, một vấn đề nào đó có liên quan đến số phận một số những người và có ý nghĩa thời sự đối với một địa phương hay toàn xã hội” [6, 22]. Ngoài ra, phóng sự là thể loại đứng giữa văn học và báo chí, vừa có khả năng trình bày, diễn tả những con người, sự kiện điển hình trong quá trình phát sinh, phát triển, đồng thời thẩm định lại hiện thực, qua đó “cái tôi” trần thuật vừa lý trí, vừa cảm xúc với bút pháp giàu chất văn học. Giọng điệu phóng sự phong phú, linh hoạt nhằm phản ánh hiện thực vừa sinh động vừa thể hiện được quan điểm, thái độ trước hiện thực đó. Qua đó tác giả có thể đề xuất, trình bày ý kiến chủ quan của mình Có nhiều dạng phóng sự như: Phóng sự điều tra, phóng sự vấn đề, phóng sự ảnh, phóng sự chân dung... Nhưng trên báo NNVN phóng sự thường xuất hiện là phóng sự xã hội (tập trung trên trang Văn hóa), phóng sự vấn đề và phóng sự chân dung. Trong phóng sự “Kỳ Anh sau cơn đại họa” (22.5.2001), tác giả Võ Thanh Mai đã mô tả hết sức chân thực diễn biến, thiệt hại của Kỳ Anh, Hà Tĩnh trong cơn đại hoạ dịch bệnh đốm trắng, đầu vàng ở tôm. Bài báo cũng phản ánh sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và chính quyền địa phương trong chiến dịch chống lại bệnh trên tôm cũng như sự phối hợp đồng bộ giữa các cấp các ngành trong chiến dịch nuôi trồng và phát triển nghề nuôi trồng thuỷ sản. “Thứ trưởng Bộ thuỷ sản, Nguyễn Việt Thắng đã cùng với các chuyên gia các