Luận án Tiến sĩ Dịch tễ học: Một số đặc điểm và yếu tố nguy cơ của nghe kém ở trẻ em từ 2 đến 5 tuổi tại các trường mẫu giáo nội thành Hà Nội

7,808
145
131
82
cứu tại Luân Đôn, nước Anh từ 1978-1982 111 trường trẻ sinh với hội
chứng bị rubella (IgM (+)), 68 trẻ được xác định bị nghe kém, chyếu ở mức
độ vừa nặng [130]. Trong 2 năm 1964-1965, đại dịch nhiễm rublella 12,5
triệu trường hợp nhiễm , gây ra 12,000 trẻ sơ sinh bị điếc ở Mỹ [109].
Nghiên cứu gần đây của Nguyễn Quang Bắc (2012) về tình hình nhiễm
rubella phụ nữ mang thai nguy nhiễm rubella trên lâm sàng (sốt, phát
ban nổi hạch) cho thấy mặc với những triệu chứng lâm sàng điển hình
nhưng tỷ lệ bị nhiễm rubella (IgM (+)) chỉ 68,1%[6]. Đây có thể hạn chế
trong nghiên cứu này bởi thể các bà mẹ không thể biết chính xác nhiễm
rubella của mình. Do đặc điểm của nghiên cứu bệnh chứng, trong quá trình
phỏng vấn, chúng tôi chỉ đặt câu hỏi, gợi ý những triệu chứng điển hình của
bệnh rubella cho người được phỏng vấn, từ đó các mẹ tự đưa ra câu trả lời
của mình dựa trên những triệu chứng lâm sàng hoặc trước đây đã được khẳng
định bởi bác sỹ. Do đó, có thể các bà mẹ những triệu chứng giống nhiễm
rubella nhưng thực tế không bị nhiễm. Nghiên cứu tại bệnh viện phụ sản
trung ương phụ nữ có thai chỉ định đình chỉ thai nghéntừ các sở y tế
khác cho thấy kết quả xét nghiệm chẩn đoán số phụ nữ đình chỉ thai nghén
này, chỉ 62,03% có IgM(+), tức thực sự bị nhiễm Rubella [14]. Điều này
cho thấy không chỉ bản thân các bà mẹ không biết chắc tình trạng nhiễm rubella
của mình mà cả các cán bộ y tế cũng có thể gặp khó khăn trong chẩn đoán phân
loại tình trạng nhiễm rubella trong khi mang thai. Do đó, xét nghiệm chẩn đoán
tìm kháng thể IgM(+) là cần thiết trước khi có quyết định xa hơn.
4.2.2. Các yếu tố trong khi sinh
Theo TCYTTG, các yếu tố như ngạt khi sinh, cân nặng sơ sinh thấp, vàng
da bất thường sau sinh là những nguyên nhân của nghe kém ở trẻ sơ sinh và trẻ
nhỏ [128]. nghiên cứu bệnh chứng này, các bà mđược hỏi về các yếu tố
nguy cơ đã được đưa ra trong y văn liên quan đến các yếu tố trong khi sinh.Kết
quả cho thấy các yếu tố như tuổi thai sinh khi thai nhi dưới 37 tuần, cân nặng
82 cứu tại Luân Đôn, nước Anh từ 1978-1982 có 111 trường trẻ sơ sinh với hội chứng bị rubella (IgM (+)), 68 trẻ được xác định bị nghe kém, chủ yếu ở mức độ vừa và nặng [130]. Trong 2 năm 1964-1965, đại dịch nhiễm rublella 12,5 triệu trường hợp nhiễm , gây ra 12,000 trẻ sơ sinh bị điếc ở Mỹ [109]. Nghiên cứu gần đây của Nguyễn Quang Bắc (2012) về tình hình nhiễm rubella ở phụ nữ mang thai có nguy cơ nhiễm rubella trên lâm sàng (sốt, phát ban và nổi hạch) cho thấy mặc dù với những triệu chứng lâm sàng điển hình nhưng tỷ lệ bị nhiễm rubella (IgM (+)) chỉ là 68,1%[6]. Đây có thể là hạn chế trong nghiên cứu này bởi vì có thể các bà mẹ không thể biết chính xác nhiễm rubella của mình. Do đặc điểm của nghiên cứu bệnh chứng, trong quá trình phỏng vấn, chúng tôi chỉ đặt câu hỏi, gợi ý những triệu chứng điển hình của bệnh rubella cho người được phỏng vấn, từ đó các bà mẹ tự đưa ra câu trả lời của mình dựa trên những triệu chứng lâm sàng hoặc trước đây đã được khẳng định bởi bác sỹ. Do đó, có thể các bà mẹ có những triệu chứng giống nhiễm rubella nhưng thực tế là không bị nhiễm. Nghiên cứu tại bệnh viện phụ sản trung ương ở phụ nữ có thai có chỉ định đình chỉ thai nghéntừ các cơ sở y tế khác cho thấy kết quả xét nghiệm chẩn đoán số phụ nữ có đình chỉ thai nghén này, chỉ có 62,03% có IgM(+), tức là thực sự bị nhiễm Rubella [14]. Điều này cho thấy không chỉ bản thân các bà mẹ không biết chắc tình trạng nhiễm rubella của mình mà cả các cán bộ y tế cũng có thể gặp khó khăn trong chẩn đoán phân loại tình trạng nhiễm rubella trong khi mang thai. Do đó, xét nghiệm chẩn đoán tìm kháng thể IgM(+) là cần thiết trước khi có quyết định xa hơn. 4.2.2. Các yếu tố trong khi sinh Theo TCYTTG, các yếu tố như ngạt khi sinh, cân nặng sơ sinh thấp, vàng da bất thường sau sinh là những nguyên nhân của nghe kém ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ [128]. Ở nghiên cứu bệnh chứng này, các bà mẹ được hỏi về các yếu tố nguy cơ đã được đưa ra trong y văn liên quan đến các yếu tố trong khi sinh.Kết quả cho thấy các yếu tố như tuổi thai sinh khi thai nhi dưới 37 tuần, cân nặng
83
khi sinh dưới 2500gam, trẻ phải thở Oxy sau khi sinh và vàng da bất thường sau
sinh phải điều trị là các yếu tố nguy cơ của nghe kém ở trẻ mẫu giáo ở nội thành
Hà Nội.
4.2.2.1. Tuổi thai và cân nặng sơ sinh
Trong phân tích đơn biến tìm yếu tố nguy của nghe kém ở trẻ từ 2-5
tuổi ở trẻ mẫu giáo nội thành Hà Nội cho thấy tuổi thai khi sinh là yếu tố nguy
cơ của nghe kém, với những trẻ sinh đủ tháng từ 37 tuần trở lên, trẻ sinh thiếu
tháng (<37 tuần) có khả năng bị nghe kém cao gấp gần 5 lần (OR=4,75, 95%CI
[1,22-18,49]). Kết quả trong nghiên cứu của chúng tôi có sự khác biệt với
những nghiên cứu trước đây về yếu tố nguy này.Kết quả nghiên cứu cắt
ngang sàng lọc bằng OAE trẻ sinh tại Nội cũng cho thấy trẻ đẻ non
dưới 37 tuần kết quả OAE (-) cao gấp 9,01 lần trẻ đủ tháng (≥37 tuần), sự
khác biệt y ý nghĩa thống kê, với p <0,05) [37]. Tuy nhiên, do đây
nghiên cứu cắt ngang sàng lọc trẻ khả năng giảm thính lực, do đó kết quả
nghiên cứu dựa trên số trẻ có kết quả OAE (-) và OAE (+), tức là chỉ gợi ý khả
năng nghe kém chứ không phải trẻ bị nghe kém, đây là một hạn chế của nghiên
cứu này. Tuy nhiên, nghiên cứu trên trẻ sơ sinh nguy cơ cao tại Hà Nội cho thấy
không sự khác biệt về nghi ngờ giảm thính lực giữa nhóm trẻ đẻ non (<37
tuần) và nhóm trẻ đủ tháng (≥37 tuần), với p>0,05 [12].
Tương tự như tuổi thai, trong phân tích đơn biến nghiên cứu này cũng
cho thấy trẻ có cân nặng khi sinh dưới 2500 gam có khả năng bị nghe kém cao
gấp 3,41 lần so với trẻ có cân nặng sơ sinh từ 2500 gam trở lên, (95%CI: 1,22-
9,47). Tuy nhiên những nghiên cứu dịch tễ học gần đây cho những kết quả khác
nhau về mối quan hệ giữa yếu tố này với nghe kém hoặc nghi ngờ nghe kém ở
trẻ sinh.Nghiên cứu tại bệnh viện Nhi Trung ương cho thấy nguy trẻ
sinh cân nặng khi sinh dưới 2500g kết quả đo OAE (-) cao gấp 9,71 lần trẻ
có cân nặng khi sinh ≥2500 (p<0,01) [37]. Một nghiên cứu khác ở trẻ sinh thiếu
tháng tại Hà Nội đã không tìm ra sự khác biệt về nghe kém ở tất cả các nhóm trẻ
83 khi sinh dưới 2500gam, trẻ phải thở Oxy sau khi sinh và vàng da bất thường sau sinh phải điều trị là các yếu tố nguy cơ của nghe kém ở trẻ mẫu giáo ở nội thành Hà Nội. 4.2.2.1. Tuổi thai và cân nặng sơ sinh Trong phân tích đơn biến tìm yếu tố nguy cơ của nghe kém ở trẻ từ 2-5 tuổi ở trẻ mẫu giáo nội thành Hà Nội cho thấy tuổi thai khi sinh là yếu tố nguy cơ của nghe kém, với những trẻ sinh đủ tháng từ 37 tuần trở lên, trẻ sinh thiếu tháng (<37 tuần) có khả năng bị nghe kém cao gấp gần 5 lần (OR=4,75, 95%CI [1,22-18,49]). Kết quả trong nghiên cứu của chúng tôi có sự khác biệt với những nghiên cứu trước đây về yếu tố nguy cơ này.Kết quả nghiên cứu cắt ngang sàng lọc bằng OAE ở trẻ sơ sinh tại Hà Nội cũng cho thấy trẻ đẻ non dưới 37 tuần có kết quả OAE (-) cao gấp 9,01 lần trẻ đủ tháng (≥37 tuần), sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê, với p <0,05) [37]. Tuy nhiên, do đây là nghiên cứu cắt ngang sàng lọc trẻ có khả năng giảm thính lực, do đó kết quả nghiên cứu dựa trên số trẻ có kết quả OAE (-) và OAE (+), tức là chỉ gợi ý khả năng nghe kém chứ không phải trẻ bị nghe kém, đây là một hạn chế của nghiên cứu này. Tuy nhiên, nghiên cứu trên trẻ sơ sinh nguy cơ cao tại Hà Nội cho thấy không có sự khác biệt về nghi ngờ giảm thính lực giữa nhóm trẻ đẻ non (<37 tuần) và nhóm trẻ đủ tháng (≥37 tuần), với p>0,05 [12]. Tương tự như tuổi thai, trong phân tích đơn biến ở nghiên cứu này cũng cho thấy trẻ có cân nặng khi sinh dưới 2500 gam có khả năng bị nghe kém cao gấp 3,41 lần so với trẻ có cân nặng sơ sinh từ 2500 gam trở lên, (95%CI: 1,22- 9,47). Tuy nhiên những nghiên cứu dịch tễ học gần đây cho những kết quả khác nhau về mối quan hệ giữa yếu tố này với nghe kém hoặc nghi ngờ nghe kém ở trẻ sơ sinh.Nghiên cứu tại bệnh viện Nhi Trung ương cho thấy nguy cơ trẻ sơ sinh cân nặng khi sinh dưới 2500g có kết quả đo OAE (-) cao gấp 9,71 lần trẻ có cân nặng khi sinh ≥2500 (p<0,01) [37]. Một nghiên cứu khác ở trẻ sinh thiếu tháng tại Hà Nội đã không tìm ra sự khác biệt về nghe kém ở tất cả các nhóm trẻ
84
có cân nặng khác nhau [12]. Tuy nhiên những nghiên cứu này là những nghiên
cứu cắt ngang, chỉ phân tích các yếu tố nguy cơ dựa trên tình trạng trẻ có nghi
ngờ nghe kém chứ không phải những trẻ đã được xác định thực sự bị nghe kém.
Các yếu tố trong khi sinh như đẻ non, cân nặng khi sinh thấp liên quan tới
giảm thính lực đã được báo cáo trong một số nghiên cứu. Nghiên cứu thuần tập
ở Na Uy cho thấy có mối tương quan giữa tỷ lệ nghe kém với cân nặng thấp khi
sinh của trẻ, dao động từ 6/10000 ở những trẻ có cân nặng >4499g tới 60/10000
trong nhóm trẻ em có cân nặng sơ sinh <1500g . Nghiên cứu cũng cho thấy cân
nặng khi sinh thấp là yếu tố nguy của nghe kém ở trẻ sinh. So với nhóm
trẻ sinh ra có cân nặng từ 3000g-3499g, trẻ sinh ra có cân nặng <1500g có nguy
bị nghe kém cao hơn 7,55 lần (95%CI: 4,81-11,87) [91]. Nghiên cứu thuần
tập tại Úc cũng cho thấy cân nặng sơ sinh thấp không phải là yếu tố nguy cơ của
nghe kém.
Nghiên cứu thuần tập trong 10 năm những trẻ từ 3-10 tuổi tại Mỹ cho thấy
tỷ lệ nghe kém tăng lên tỷ lệ nghịch với cân nặng sơ sinh ở trẻ. Tỷ lệ nghe kém
càng cao ở những trẻ có cân nặng càng thấp. Nghiên cứu cũng đưa ra tiêu chuẩn
trong sàng lọc nghe kém ở trẻ em có cân nặng so sinh theo nhóm 2500g-2999g
và 15000g-2499g [114].
Mặc dù đã có một số nghiên cứu về mối tương quan giữa cân nặng thấp khi
sinh với nghe kém ở trẻ, chế thực chất của mối liên quan này vẫn còn chưa
được hiểu rõ. thể chỉ riêng yếu tố đẻ non, cân nặng thấp không ảnh hưởng
nghiêm trọng đến thính lực, nhưng trẻ sơ sinh có cân nặng thấp thường có kèm
theo nhiều yếu tố nguy cơ khác kết hợp (như vàng da tăng Bilirubin tự do, suy
hấp cần can thiệp thở máy, thở oxy, xuất huyết trong não thất, nhiễm trùng
huyết) dẫn đến tăng khả năng nghe kém ở những trẻ này [63].
Như vậy các yếu tố như đẻ non, cân nặng sơ sinh thấp có thể không phải là
các yếu tố liên quan tới nghe kém ở trẻ mà là điều kiện thuận lợi cho việc phát
triển các yếu tố nguy cơ khác của nghe kém. Đây có thể là lý do trong mô hình
84 có cân nặng khác nhau [12]. Tuy nhiên những nghiên cứu này là những nghiên cứu cắt ngang, chỉ phân tích các yếu tố nguy cơ dựa trên tình trạng trẻ có nghi ngờ nghe kém chứ không phải những trẻ đã được xác định thực sự bị nghe kém. Các yếu tố trong khi sinh như đẻ non, cân nặng khi sinh thấp liên quan tới giảm thính lực đã được báo cáo trong một số nghiên cứu. Nghiên cứu thuần tập ở Na Uy cho thấy có mối tương quan giữa tỷ lệ nghe kém với cân nặng thấp khi sinh của trẻ, dao động từ 6/10000 ở những trẻ có cân nặng >4499g tới 60/10000 trong nhóm trẻ em có cân nặng sơ sinh <1500g . Nghiên cứu cũng cho thấy cân nặng khi sinh thấp là yếu tố nguy cơ của nghe kém ở trẻ sơ sinh. So với nhóm trẻ sinh ra có cân nặng từ 3000g-3499g, trẻ sinh ra có cân nặng <1500g có nguy cơ bị nghe kém cao hơn 7,55 lần (95%CI: 4,81-11,87) [91]. Nghiên cứu thuần tập tại Úc cũng cho thấy cân nặng sơ sinh thấp không phải là yếu tố nguy cơ của nghe kém. Nghiên cứu thuần tập trong 10 năm những trẻ từ 3-10 tuổi tại Mỹ cho thấy tỷ lệ nghe kém tăng lên tỷ lệ nghịch với cân nặng sơ sinh ở trẻ. Tỷ lệ nghe kém càng cao ở những trẻ có cân nặng càng thấp. Nghiên cứu cũng đưa ra tiêu chuẩn trong sàng lọc nghe kém ở trẻ em có cân nặng so sinh theo nhóm 2500g-2999g và 15000g-2499g [114]. Mặc dù đã có một số nghiên cứu về mối tương quan giữa cân nặng thấp khi sinh với nghe kém ở trẻ, cơ chế thực chất của mối liên quan này vẫn còn chưa được hiểu rõ. Có thể chỉ riêng yếu tố đẻ non, cân nặng thấp không ảnh hưởng nghiêm trọng đến thính lực, nhưng trẻ sơ sinh có cân nặng thấp thường có kèm theo nhiều yếu tố nguy cơ khác kết hợp (như vàng da tăng Bilirubin tự do, suy hô hấp cần can thiệp thở máy, thở oxy, xuất huyết trong não thất, nhiễm trùng huyết) dẫn đến tăng khả năng nghe kém ở những trẻ này [63]. Như vậy các yếu tố như đẻ non, cân nặng sơ sinh thấp có thể không phải là các yếu tố liên quan tới nghe kém ở trẻ mà là điều kiện thuận lợi cho việc phát triển các yếu tố nguy cơ khác của nghe kém. Đây có thể là lý do trong mô hình
85
phân tích hồi quy logistic đa biến, hai yếu tố đẻ non và cân nặng sơ sinh không
phải là yếu tố nguy cơ của nghe kém ở trẻ. Ở mô hình phân tích hồi quy logistic
đa biến chỉ còn 2 yếu tố là trẻ phải thở Oxy sau sinh và vàng da bất thường sau
sinh phải điều trị là yếu tố nguy cơ của nghe kém.
4.2.2.2. Thở Oxy sau sinh
Tình trạng thiếu oxy có liên quan chặt chẽ với giảm thính lực. Chức năng
của ốc tai bình thường khi có đủ oxy và tình trạng tưới máu. Ở những trẻ sơ sinh
bị thiếu oxy hay ngạt, các tế bào hạch ốc tai sẽ bị ảnh hưởng trước tiên. Thiếu
oxy nặng hơn sẽ gây phá hủy ốc tai, đặc biệt là các tế bào lông ngoài và lớp vân
mạch máu. Tuy nhiên cũng không có ngưỡng xác định về mức độ thiếu oxy gây
ảnh hưởng đến thính lực. Hơn nữa những trẻ sinh tình trạng suy hô hấp
thường được thở máy và/hoặc có tình trạng kiềm hóa càng làm giảm oxy hóa và
tưới máu đến ốc tai đường dẫn truyền thần kinh thính giác. Nồng độ Oxy
trong máu thấp thể gây giảm thính lực nhưng không phải do tổn thương
đường dẫn truyền thần kinh thính giác giảm thính lực do trung khu thính
giác ở hồi thái dương của võ não bị thiếu Oxy [85].
Trong hình hồi quy logistic đa biến cho thấy trẻ được can thiệp thở
Oxy nguy cơ bị nghe kém cao gấp 13,89 lần so với trẻ không can thiệp
thở oxy sau khi sinh (95%CI: 2,72-70,82). Kết quả này cũng tương tự như các
nghiên cứu trên thế giới tại Việt Nam. Nghiên cứu ở trẻ nguy cao tại
Hà Nội cho thấy so với trẻ phải can thiệp thở Oxy dưới 7 ngày, trẻ phải thở Oxy
trên 7 ngày là yếu tố nguy cơ của trẻ nghe kém [12]. Tương tự, một nghiên cứu
khác ở Hà Nội cũng cho thấy trẻ sơ sinh bị ngạt khi sinh có có kết quả đo OAE
sàng lọc âm tính lớn gấp 7,23 lần trẻ sinh không bị ngạt (95%CI: 2,64-
18,72). Bên cạnh đó nghiên cứu cũng cho thấy trẻ sơ sinh phải thở máy có nguy
bị nghe kém cao gấp 22,51 lần trẻ sinh không phải thở máy (95%CI:
10,24-49,13) [37]. Nghiên cứu Mỹ cho thấy trong số 1.279 trẻ được điều trị
tích cực có 3,1% trẻ bị nghe kém vĩnh viễn và 1,9% trẻ bị nghe kém nặng hoặc
85 phân tích hồi quy logistic đa biến, hai yếu tố đẻ non và cân nặng sơ sinh không phải là yếu tố nguy cơ của nghe kém ở trẻ. Ở mô hình phân tích hồi quy logistic đa biến chỉ còn 2 yếu tố là trẻ phải thở Oxy sau sinh và vàng da bất thường sau sinh phải điều trị là yếu tố nguy cơ của nghe kém. 4.2.2.2. Thở Oxy sau sinh Tình trạng thiếu oxy có liên quan chặt chẽ với giảm thính lực. Chức năng của ốc tai bình thường khi có đủ oxy và tình trạng tưới máu. Ở những trẻ sơ sinh bị thiếu oxy hay ngạt, các tế bào hạch ốc tai sẽ bị ảnh hưởng trước tiên. Thiếu oxy nặng hơn sẽ gây phá hủy ốc tai, đặc biệt là các tế bào lông ngoài và lớp vân mạch máu. Tuy nhiên cũng không có ngưỡng xác định về mức độ thiếu oxy gây ảnh hưởng đến thính lực. Hơn nữa những trẻ sơ sinh có tình trạng suy hô hấp thường được thở máy và/hoặc có tình trạng kiềm hóa càng làm giảm oxy hóa và tưới máu đến ốc tai và đường dẫn truyền thần kinh thính giác. Nồng độ Oxy trong máu thấp có thể gây giảm thính lực nhưng không phải do tổn thương đường dẫn truyền thần kinh thính giác mà giảm thính lực do trung khu thính giác ở hồi thái dương của võ não bị thiếu Oxy [85]. Trong mô hình hồi quy logistic đa biến cho thấy trẻ được can thiệp thở Oxy có nguy cơ bị nghe kém cao gấp 13,89 lần so với trẻ không có can thiệp thở oxy sau khi sinh (95%CI: 2,72-70,82). Kết quả này cũng tương tự như các nghiên cứu trên thế giới và tại Việt Nam. Nghiên cứu ở trẻ có nguy cơ cao tại Hà Nội cho thấy so với trẻ phải can thiệp thở Oxy dưới 7 ngày, trẻ phải thở Oxy trên 7 ngày là yếu tố nguy cơ của trẻ nghe kém [12]. Tương tự, một nghiên cứu khác ở Hà Nội cũng cho thấy trẻ sơ sinh bị ngạt khi sinh có có kết quả đo OAE sàng lọc âm tính lớn gấp 7,23 lần trẻ sơ sinh không bị ngạt (95%CI: 2,64- 18,72). Bên cạnh đó nghiên cứu cũng cho thấy trẻ sơ sinh phải thở máy có nguy cơ bị nghe kém cao gấp 22,51 lần trẻ sơ sinh không phải thở máy (95%CI: 10,24-49,13) [37]. Nghiên cứu ở Mỹ cho thấy trong số 1.279 trẻ được điều trị tích cực có 3,1% trẻ bị nghe kém vĩnh viễn và 1,9% trẻ bị nghe kém nặng hoặc
86
rất nặng. Nghiên cứu cũng tìm ra yếu tố can thiệp thở Oxy kéo dài yếu tố
nguy cơ quan trọng gây nghe kém ở trẻ phải điều trị tích cực, OR: 4,61 (95%CI:
1.98-10.71) [97]. Như vậy nhiều nghiên cứu đều cho thấy can thiệp thở oxy cho
trẻ sau khi sinh là một yếu tố nguy cơ quan trọng của nghe kém, tuy nhiên ở các
mức độ nguy khác nhau. Thực tế trong nghiên cứu này chúng tôi tiến hành
phỏng vấn các bà mẹ về tình trạng trẻ bị ngạt trong khi sinh và trẻ phải thở oxy
sau sinh. Tuy nhiên các mẹ cũng không nắm được tình hình con mình bị
ngạt không bởi vì cán bộ y tếkhông thông báo cho bà mẹ. Do đó thông tin về trẻ
sơ sinh bị ngạt chúng tôi không thu thập được. Về tình trạng trẻ phải can thiệp
thở Oxy sau khi sinh, nhiều bà mẹ cho biết họ chỉ được thông báo rằng con họ
phải can thiệp thở oxy mà không biết lý do của can thiệp này. Một điểm hạn chế
trong phần này là chúng tôi không khai thác được thời gian trẻ sơ sinh phải thở
Oxy mà chỉ trả lời được câu hỏi “Có” hoặc “Không” thở Oxy sau khi sinh.
4.2.2.3. Vàng da sau sinh phải điều trị
Mối liên quan giữa vàng da nặng hoặc bất thường sau khi sinh với nghe
kém ở trẻ đã được đưa ra trong y văn trên thế giới và tại Việt Nam [128].Tăng
Bilirubin tự do có thể gây tổn thương chọn lọc nhân thần kinh thính giác thân
não và cũng có thể phá hủy dây thần kinh thính giác và tế bào hạch ốc tai do tác
động làm trệ canxi nội bào noron thần kinh. quan Corti đường dẫn
truyền thần kinh thính giác qua đồi thị -vỏ não thường không bị ảnh hưởng.
Trên m sàng thường gặp giảm thính lực sau ốc tai. Do đó nếu sử dụng
phương pháp đo OAE sẽ không phát hiện được loại nghe kém này.Vàng da
nặng trong giai đoạn trẻ sinh có thể gây tổn thương thần kinh nghe, qua đó
gây nghe kém ở trẻ [128]. Trẻ bị vàng da đậm xuất hiện sớm trước 3 ngày tuổi,
nồng độ bilirubin tự do trong máu trên 340µmol/l trẻ đủ tháng hoặc
trên240µmol/l trẻ sơ sinh cân nặng khi sinh dưới 1500g thể gây tổn
thương nhân não ốc tai dẫn đến bại não thể múa vờn điếc tần số cao
[85].
86 rất nặng. Nghiên cứu cũng tìm ra yếu tố can thiệp thở Oxy kéo dài là yếu tố nguy cơ quan trọng gây nghe kém ở trẻ phải điều trị tích cực, OR: 4,61 (95%CI: 1.98-10.71) [97]. Như vậy nhiều nghiên cứu đều cho thấy can thiệp thở oxy cho trẻ sau khi sinh là một yếu tố nguy cơ quan trọng của nghe kém, tuy nhiên ở các mức độ nguy cơ khác nhau. Thực tế trong nghiên cứu này chúng tôi tiến hành phỏng vấn các bà mẹ về tình trạng trẻ bị ngạt trong khi sinh và trẻ phải thở oxy sau sinh. Tuy nhiên các bà mẹ cũng không nắm được tình hình con mình có bị ngạt không bởi vì cán bộ y tếkhông thông báo cho bà mẹ. Do đó thông tin về trẻ sơ sinh bị ngạt chúng tôi không thu thập được. Về tình trạng trẻ phải can thiệp thở Oxy sau khi sinh, nhiều bà mẹ cho biết họ chỉ được thông báo rằng con họ phải can thiệp thở oxy mà không biết lý do của can thiệp này. Một điểm hạn chế trong phần này là chúng tôi không khai thác được thời gian trẻ sơ sinh phải thở Oxy mà chỉ trả lời được câu hỏi “Có” hoặc “Không” thở Oxy sau khi sinh. 4.2.2.3. Vàng da sau sinh phải điều trị Mối liên quan giữa vàng da nặng hoặc bất thường sau khi sinh với nghe kém ở trẻ đã được đưa ra trong y văn trên thế giới và tại Việt Nam [128].Tăng Bilirubin tự do có thể gây tổn thương chọn lọc nhân thần kinh thính giác thân não và cũng có thể phá hủy dây thần kinh thính giác và tế bào hạch ốc tai do tác động làm ứ trệ canxi nội bào noron thần kinh. Cơ quan Corti và đường dẫn truyền thần kinh thính giác qua đồi thị -vỏ não thường không bị ảnh hưởng. Trên lâm sàng thường gặp là giảm thính lực sau ốc tai. Do đó nếu sử dụng phương pháp đo OAE sẽ không phát hiện được loại nghe kém này.Vàng da nặng trong giai đoạn trẻ sơ sinh có thể gây tổn thương thần kinh nghe, qua đó gây nghe kém ở trẻ [128]. Trẻ bị vàng da đậm xuất hiện sớm trước 3 ngày tuổi, nồng độ bilirubin tự do trong máu trên 340µmol/l ở trẻ đủ tháng hoặc trên240µmol/l ở trẻ sơ sinh có cân nặng khi sinh dưới 1500g có thể gây tổn thương nhân não và ốc tai dẫn đến bại não thể múa vờn và điếc ở tần số cao [85].
87
Nghiên cứu này cho thấy vàng da sau sinh phải điều trị tại các cơ sở y tế là
một yếu tố nguy của nghe kém trẻ mẫu giáo tại các trường công lập nội
thành Hà Nội, với nguy cơ bị nghe kém cao gấp 13,47 lần trẻ không bị (95%CI:
5,09-35,59). Nghiên cứu sàng lọc trẻ nghe kém tại Hà Nội có 100 trẻ bị vàng da
sinh bất thường phải điều trị (chiếu đèn, truyền dịch…) tại khoa hồi sức
sinh, trong đó 52 trẻ có kết quả đo OAE (-). Nguy cơ trẻ có nghi ngờ giảm thính
lực trong nghiên cứu này trẻ vàng da sinh bất thường phải điều lớn gấp
35,23 lần trẻ không bị [37]. Nghiên cứu của Nguyễn Thị Thu (2011) cũng
cho thấy vàng da tăng bilirubin tự do không phải yếu tố nguy của giảm
thính lực. Tuy nhiên vàng da do tăng bilirubin tự do phải thay máu và có vàng
nhân não trẻ nguy cao đều yếu tố nguy của nghe kém (OR=5,3,
95%CI: 4,19-6,72) [12]. Qua đo âm ốc tai ở 128 trẻ bị vàng da trong giai đoạn
sinh Malaysia cho thấy 22% trẻ bị nghe m. Phân tích hình hồi quy
logistic cho thấy vàng da yếu tố liên quan tới nghe kém nhóm trẻ y
[58]. Như vậy kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng tương tự với các nghiên
cứu trước đây.
Một điểm hạn chế của nghiên cứu này đó là chúng tôi không xác định được
mối liên quan giữa nồng độ cao của bilirubin với nghe kém ở trẻ mà chỉ đưa ra
mối quan hệ giữa tình trạng vàng da sơ sinh phải điều trị tại các cơ sở nhi khoa,
khoa nhi của các bệnh viện với nghe kém ở trẻ em, tuy nhiên đây là đặc điểm
không thể tránh khỏi của nghiên cứu bệnh chứng.
4.2.3. Các yếu tố sau sinh
4.2.3.1. Trẻ bị viêm màng não
Trong cả hình phân tích đơn biến và hồi quy logistic đa biến đều
cho thấy trẻ bị VMN là một yếu tố nguy cơ của nghe kém. Mô hình hồi quy đa
biến cuối cùng cho thấy trẻ bị VMN có nguy cơ bị nghe kém cao gấp 26,44 lần
trẻ không bị VMN (95%CI : 5,65-123,59). Kết quả nghiên cứu này cũng giống
với y văn trên thế giới và tại Việt Nam.Nghiên cứu tại bệnh viện Nhiệt đới
87 Nghiên cứu này cho thấy vàng da sau sinh phải điều trị tại các cơ sở y tế là một yếu tố nguy cơ của nghe kém ở trẻ mẫu giáo tại các trường công lập nội thành Hà Nội, với nguy cơ bị nghe kém cao gấp 13,47 lần trẻ không bị (95%CI: 5,09-35,59). Nghiên cứu sàng lọc trẻ nghe kém tại Hà Nội có 100 trẻ bị vàng da sơ sinh bất thường phải điều trị (chiếu đèn, truyền dịch…) tại khoa hồi sức sơ sinh, trong đó 52 trẻ có kết quả đo OAE (-). Nguy cơ trẻ có nghi ngờ giảm thính lực trong nghiên cứu này ở trẻ vàng da sơ sinh bất thường phải điều lớn gấp 35,23 lần trẻ không bị [37]. Nghiên cứu của Nguyễn Thị Thu Hà (2011) cũng cho thấy vàng da tăng bilirubin tự do không phải là yếu tố nguy cơ của giảm thính lực. Tuy nhiên vàng da do tăng bilirubin tự do phải thay máu và có vàng nhân não ở trẻ có nguy cơ cao đều là yếu tố nguy cơ của nghe kém (OR=5,3, 95%CI: 4,19-6,72) [12]. Qua đo âm ốc tai ở 128 trẻ bị vàng da trong giai đoạn sơ sinh ở Malaysia cho thấy 22% trẻ bị nghe kém. Phân tích mô hình hồi quy logistic cho thấy vàng da là yếu tố có liên quan tới nghe kém ở nhóm trẻ này [58]. Như vậy kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng tương tự với các nghiên cứu trước đây. Một điểm hạn chế của nghiên cứu này đó là chúng tôi không xác định được mối liên quan giữa nồng độ cao của bilirubin với nghe kém ở trẻ mà chỉ đưa ra mối quan hệ giữa tình trạng vàng da sơ sinh phải điều trị tại các cơ sở nhi khoa, khoa nhi của các bệnh viện với nghe kém ở trẻ em, tuy nhiên đây là đặc điểm không thể tránh khỏi của nghiên cứu bệnh chứng. 4.2.3. Các yếu tố sau sinh 4.2.3.1. Trẻ bị viêm màng não Trong cả mô hình phân tích đơn biến và và hồi quy logistic đa biến đều cho thấy trẻ bị VMN là một yếu tố nguy cơ của nghe kém. Mô hình hồi quy đa biến cuối cùng cho thấy trẻ bị VMN có nguy cơ bị nghe kém cao gấp 26,44 lần trẻ không bị VMN (95%CI : 5,65-123,59). Kết quả nghiên cứu này cũng giống với y văn trên thế giới và tại Việt Nam.Nghiên cứu tại bệnh viện Nhiệt đới
88
Trung ương cho thấy di chứng sớm bệnh nhân VMN do Streptococcus gây
giảm hoặc mất thính lực xảy ra 41,33% bệnh nhân [3]. Nghiên cứu bệnh
chứng tại Mexico cho thấy nghe kém tiếp nhận loại nghe kém thường gặp
trẻ phải điều trị tại các đơn vị điều trtích cực. VMN một yếu tố nguy
quan trọng của những trẻ nghe kém này, OR= 4,368, 95% CI:1,7-10,9. Tương
tự như vậy nghiên cứu bệnh chứng những trẻ phải điều trị tại đơn vị điều trị tích
cực tại bệnh viện nhi Sophia, Hà Lan cho thấy viêm màng não là yếu tố nguy cơ
của nghe kém tiếp nhận ở những trẻ sơ sinh này [61].
VMN nhiễm khuẩn (VMNNK) là bệnh nhiễm trùng cấp tính hệ thần kinh
trung ương. Bệnh thể dẫn đến tử vong nhanh hoặc để lại di chứng nặng nề.
Cho đến nay bệnh vẫn còn phổ biến trên toàn cầu, đặc biệt tại các nước đang
phát triển. VMNNK do một số loại vi khuẩn khác nhau gây nên, nhưng chủ yếu
vẫn là Haemophilus influenzae type b (Hib), phế cầu và não mô cầu[4]. Nghiên
cứu tại bệnh viện Nhi Trung ương giai đoạn 2005-2009 có 1468 trẻ em có chẩn
đoán lâm sàng là VMNNK, trong đó có 163 trường hợp xác định được vi khuẩn
gây bệnh, chiếm 11,1%. Haemophilus influenzae là căn nguyên phổ biến nhất ở
các trường hợp này, chiếm 46,6% trong tổng số các nguyên nhân gây VMN, sau
đó là VMN do phế cầu, chiếm 23,9%. Viêm màng não do phế cầu gây tỷ lệ tử
vong là 9,4% 37,5% di chứng tại thời điểm xuất viện [16]. VMN thể
gặp mọi lứa tuổi nhưng thường xuất hiện trẻ dưới 12 tháng tuổi [17].
Nghiên cứu tại Khoa Nhiễm-Thần kinh Bệnh viện Nhi đồng I từ tháng 10 năm
2005 đến tháng 12 năm 2008 cho thấy có 135 bệnh nhân được chẩn đoán VMN
mủ, có đó có 50,4% bệnh nhân bị VMN mủ do Hib. Tương tự như nghiên cứu
tại Bệnh viện Nhi trung ương, trẻ từ 3-12 tháng tuổi là lứa tuổi thường bị bệnh
này nhất [4].
Nghe kém liên quan tới VMN là một cơ chế phức tạp, trong suốt quá trình viêm
đã gây phù não, màng não, làm giảm oxy tới các tế bào thần kinh. Từ đó gây tổn
thương không hồi phục của các tế bào thần kinh. Trẻ em bị VMNM có nguy cơ
88 Trung ương cho thấy di chứng sớm ở bệnh nhân VMN do Streptococcus gây giảm hoặc mất thính lực xảy ra ở 41,33% bệnh nhân [3]. Nghiên cứu bệnh chứng tại Mexico cho thấy nghe kém tiếp nhận là loại nghe kém thường gặp ở trẻ phải điều trị tại các đơn vị điều trị tích cực. VMN là một yếu tố nguy cơ quan trọng của những trẻ nghe kém này, OR= 4,368, 95% CI:1,7-10,9. Tương tự như vậy nghiên cứu bệnh chứng những trẻ phải điều trị tại đơn vị điều trị tích cực tại bệnh viện nhi Sophia, Hà Lan cho thấy viêm màng não là yếu tố nguy cơ của nghe kém tiếp nhận ở những trẻ sơ sinh này [61]. VMN nhiễm khuẩn (VMNNK) là bệnh nhiễm trùng cấp tính hệ thần kinh trung ương. Bệnh có thể dẫn đến tử vong nhanh hoặc để lại di chứng nặng nề. Cho đến nay bệnh vẫn còn phổ biến trên toàn cầu, đặc biệt tại các nước đang phát triển. VMNNK do một số loại vi khuẩn khác nhau gây nên, nhưng chủ yếu vẫn là Haemophilus influenzae type b (Hib), phế cầu và não mô cầu[4]. Nghiên cứu tại bệnh viện Nhi Trung ương giai đoạn 2005-2009 có 1468 trẻ em có chẩn đoán lâm sàng là VMNNK, trong đó có 163 trường hợp xác định được vi khuẩn gây bệnh, chiếm 11,1%. Haemophilus influenzae là căn nguyên phổ biến nhất ở các trường hợp này, chiếm 46,6% trong tổng số các nguyên nhân gây VMN, sau đó là VMN do phế cầu, chiếm 23,9%. Viêm màng não do phế cầu gây tỷ lệ tử vong là 9,4% và 37,5% có di chứng tại thời điểm xuất viện [16]. VMN có thể gặp ở mọi lứa tuổi nhưng thường xuất hiện ở trẻ dưới 12 tháng tuổi [17]. Nghiên cứu tại Khoa Nhiễm-Thần kinh Bệnh viện Nhi đồng I từ tháng 10 năm 2005 đến tháng 12 năm 2008 cho thấy có 135 bệnh nhân được chẩn đoán VMN mủ, có đó có 50,4% bệnh nhân bị VMN mủ do Hib. Tương tự như nghiên cứu tại Bệnh viện Nhi trung ương, trẻ từ 3-12 tháng tuổi là lứa tuổi thường bị bệnh này nhất [4]. Nghe kém liên quan tới VMN là một cơ chế phức tạp, trong suốt quá trình viêm đã gây phù não, màng não, làm giảm oxy tới các tế bào thần kinh. Từ đó gây tổn thương không hồi phục của các tế bào thần kinh. Trẻ em bị VMNM có nguy cơ
89
bị điếc cao nhất. Nghiên cứu tổng quan gần đây cho thấy viêm màng não do vi
khuẩn là nguyên nhân phổ biến nhất của nghe kém tiếp nhận mắc phải, chiếm
60,0-90,0% các nguyên nhân nghe kém tiếp nhận mắc phải. Mặc dù với sự tiến
bộ của khoa học trong điều trị kháng sinh, viêm màng não do vi khuẩn vẫn gây
tổn thương lâu dài hệ thần kinh thính giác. Nghe kém thể xảy ra trong suốt
quá trình viêm màng não mủ cấp, thậm chí 48 giờ sau khi bị bệnh. Tuy nhiên,
nghe kém cũng không phải triệu chứng thường gặp trước khi điều trị. Với
những tổn thương chính ở ốc tai (tổn thương tế bào lông, tế bào nâng đỡ, vịnh
tiền đình vịnh giữa) các hạch thần kinh ốc tai. Các nghiên cứu đều cho
thấy nghe kém nguyên nhân của VMNM lan rộng hoặc đám rối thần kinh.
Những tổn thương sớm ở vòng đáy của ốc tai, vịnh nhĩ, màng đáy có thể gây lên
điếc sâu ở tần số cao. Trên người, thần kinh ốc tai đoạn nằm trong ốc tai là con
đường thứ 2 dẫn đến nhiễm trùng lan rộng. Sự viêm mủ của mê đạo hay sự phá
hủy của các cơ quan ở tai trong và sự cốt hóa ốc tai gây điếc vĩnh viễn cho một
số ít bệnh nhân. Nhiễm trùng nặng cũng nhanh chóng lan đến tai trong các
cytokines như TNF –alpha (Tumor Necrosis Factor alpha, yếu tố hoại tử), có vai
trò quan trọng gây nghe kém trong viêm màng não. Chất oxy hóa góp phần phá
hủy các đường dẫn máu và sản xuất ra tế bào cytotoxic ảnh hưởng trực tiếp lên
tế bào lông và tế bào hạch xoắn thần kinh ốc tai [71]. Bên cạnh đó việc sử dụng
một số nhóm kháng sinh trong điều trị bệnh VMN có thể góp phần tăng nguy cơ
gây nghe kém ở trẻ em [63].
4.2.3.2. Trẻ bị bệnh ở tai
Theo báo cáo của TCYTTG, viêm tai mạn tính nguyên nhân hàng đầu
gây nghe kém, đặc biệt các nước đang phát triển. Nước ta quốc gia thuộc
khu vực Đông Nam Á, nơi có tỷ lệ viêm tai mạn tính cao nhất trên toàn thế giới.
Đây cũng là khu vực có tỷ lệ nghe kém ở trẻ em cao thứ 2 thế giới, sau khu vực
châu Phi [129]. Tương tự các nghiên cứu trước đây vmối liên quan giữa các
bệnh ở tai như viêm tai giữa, viêm tai thanh dịch…với nghe kém, trong nghiên
89 bị điếc cao nhất. Nghiên cứu tổng quan gần đây cho thấy viêm màng não do vi khuẩn là nguyên nhân phổ biến nhất của nghe kém tiếp nhận mắc phải, chiếm 60,0-90,0% các nguyên nhân nghe kém tiếp nhận mắc phải. Mặc dù với sự tiến bộ của khoa học trong điều trị kháng sinh, viêm màng não do vi khuẩn vẫn gây tổn thương lâu dài hệ thần kinh thính giác. Nghe kém có thể xảy ra trong suốt quá trình viêm màng não mủ cấp, thậm chí 48 giờ sau khi bị bệnh. Tuy nhiên, nghe kém cũng không phải là triệu chứng thường gặp trước khi điều trị. Với những tổn thương chính ở ốc tai (tổn thương tế bào lông, tế bào nâng đỡ, vịnh tiền đình và vịnh giữa) và các hạch thần kinh ốc tai. Các nghiên cứu đều cho thấy nghe kém là nguyên nhân của VMNM lan rộng hoặc đám rối thần kinh. Những tổn thương sớm ở vòng đáy của ốc tai, vịnh nhĩ, màng đáy có thể gây lên điếc sâu ở tần số cao. Trên người, thần kinh ốc tai đoạn nằm trong ốc tai là con đường thứ 2 dẫn đến nhiễm trùng lan rộng. Sự viêm mủ của mê đạo hay sự phá hủy của các cơ quan ở tai trong và sự cốt hóa ốc tai gây điếc vĩnh viễn cho một số ít bệnh nhân. Nhiễm trùng nặng cũng nhanh chóng lan đến tai trong và các cytokines như TNF –alpha (Tumor Necrosis Factor alpha, yếu tố hoại tử), có vai trò quan trọng gây nghe kém trong viêm màng não. Chất oxy hóa góp phần phá hủy các đường dẫn máu và sản xuất ra tế bào cytotoxic ảnh hưởng trực tiếp lên tế bào lông và tế bào hạch xoắn thần kinh ốc tai [71]. Bên cạnh đó việc sử dụng một số nhóm kháng sinh trong điều trị bệnh VMN có thể góp phần tăng nguy cơ gây nghe kém ở trẻ em [63]. 4.2.3.2. Trẻ bị bệnh ở tai Theo báo cáo của TCYTTG, viêm tai mạn tính là nguyên nhân hàng đầu gây nghe kém, đặc biệt ở các nước đang phát triển. Nước ta là quốc gia thuộc khu vực Đông Nam Á, nơi có tỷ lệ viêm tai mạn tính cao nhất trên toàn thế giới. Đây cũng là khu vực có tỷ lệ nghe kém ở trẻ em cao thứ 2 thế giới, sau khu vực châu Phi [129]. Tương tự các nghiên cứu trước đây về mối liên quan giữa các bệnh ở tai như viêm tai giữa, viêm tai thanh dịch…với nghe kém, trong nghiên
90
cứu của chúng tôi, mô hình phân tích hồi quy logistic đa biến cho thấy trẻ bị các
bệnh tai nguy bị nghe kém cao hơn 14 lần trẻ không bị bệnh tai
(95%CI : 9,85-19,97). Chúng tôi nhận thấy 56,4% trẻ nhóm bệnh đã từng bị
bệnh ở tai, trong khi đó tỷ lệ này ở nhóm chứng là 11,1%.
Các nghiên cứu dịch tễ học cho thấy bệnh tai là bệnh thường gặp lứa
tuổi trẻ em, đặc biệt trẻ mẫu giáo. Nghiên cứu của Nguyễn Thị Hoài An
(2003) tại một số phường của Nội cho thấy tỷ lệ mắc viêm tai giữa ứ dịch
kéo dài 8,9%, trong đó trẻ 2 tuổi tỷ lệ mắc cao nhất, chiếm 12,21%.Đặc
biệt nghiên cứu ở miền Nam nước ta cho thấy trẻ 2 tuổi có tỷ viêm tai ứ dịch rất
cao, 22,0% [67]. Theo y văn, VTG ứ dịch có thể tiến triển đến các bệnh lý mãn
tính của tai giữa: túi co kéo màng nhĩ, xẹp nhĩ, viêm tai dính, xơ nhĩ, viêm
tai giữa mạn tính thường. Bệnh cũng có thế làm nền cho những đợt tái phát của
viêm tai giữa cấp tính từ đó gây ra các biến chứng nguy hiểm. VTG ứ dịch cũng
nguyên nhân thường gặp nhất làm giảm sức nghe của trẻ [2].Bên cạnh đó
viêm tai giữa mạn (VTGM) và viêm tai xương chũm (VTXC) cũng là hay gặp ở
nước ta, chiếm tỷ lệ 2-5%. VTGM VTXC gây suy giảm sức nghe, làm ảnh
hưởng trực tiếp đến khả năng giao tiếp, học tập, lao động của bệnh nhân và
thể dẫn đến biến chứng đe dọa đến tính mạng [25], [18]. VTXC không những
làm giảm sức nghe còn gây ra những biến chứng nguy hiểm. Một trong
những biến chứng của VTXC VMN, qua đó thể gián tiếp gây giảm thính
lực ở trẻ em [18].
90 cứu của chúng tôi, mô hình phân tích hồi quy logistic đa biến cho thấy trẻ bị các bệnh ở tai có nguy cơ bị nghe kém cao hơn 14 lần trẻ không bị bệnh ở tai (95%CI : 9,85-19,97). Chúng tôi nhận thấy 56,4% trẻ ở nhóm bệnh đã từng bị bệnh ở tai, trong khi đó tỷ lệ này ở nhóm chứng là 11,1%. Các nghiên cứu dịch tễ học cho thấy bệnh ở tai là bệnh thường gặp ở lứa tuổi trẻ em, đặc biệt là trẻ mẫu giáo. Nghiên cứu của Nguyễn Thị Hoài An (2003) tại một số phường của Hà Nội cho thấy tỷ lệ mắc viêm tai giữa ứ dịch kéo dài là 8,9%, trong đó trẻ 2 tuổi có tỷ lệ mắc cao nhất, chiếm 12,21%.Đặc biệt nghiên cứu ở miền Nam nước ta cho thấy trẻ 2 tuổi có tỷ viêm tai ứ dịch rất cao, 22,0% [67]. Theo y văn, VTG ứ dịch có thể tiến triển đến các bệnh lý mãn tính của tai giữa: túi co kéo màng nhĩ, xẹp nhĩ, viêm tai xơ dính, xơ nhĩ, viêm tai giữa mạn tính thường. Bệnh cũng có thế làm nền cho những đợt tái phát của viêm tai giữa cấp tính từ đó gây ra các biến chứng nguy hiểm. VTG ứ dịch cũng là nguyên nhân thường gặp nhất làm giảm sức nghe của trẻ [2].Bên cạnh đó viêm tai giữa mạn (VTGM) và viêm tai xương chũm (VTXC) cũng là hay gặp ở nước ta, chiếm tỷ lệ 2-5%. VTGM và VTXC gây suy giảm sức nghe, làm ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng giao tiếp, học tập, lao động của bệnh nhân và có thể dẫn đến biến chứng đe dọa đến tính mạng [25], [18]. VTXC không những làm giảm sức nghe mà còn gây ra những biến chứng nguy hiểm. Một trong những biến chứng của VTXC là VMN, qua đó có thể gián tiếp gây giảm thính lực ở trẻ em [18].
91
KẾT LUẬN
1. Đặc điểm nghe kém ở trẻ mẫu giáo tại các trường mẫu giáo công lập nội
thành Hà Nội năm 2011 – 2012.
1.1 Tỷ lệ nghe kém trẻ mẫu giáo nội thành Nội năm 2011- 2012
4,4%, trong đó tỷ lệ nghe kém ở trẻ em nam và trẻ em nữ lần lượt là 4,7%
và 4,0%.
1.2 Nghe kém cả hai tai là hình thức nghe kém phổ biến nhất, chiếm 70,1%.
Chỉ nghe kém một tai phải hoặc tai trái chiếm tỷ lệ thấp, lần lượt
13,0% và 16,9%.
1.3 Nghe kém mức độ nhẹ chiếm 41,9%, nghe kém vừa chiếm 41,7%. Nghe
kém nặng đến sâu chiếm 12,4% trong tổng số trẻ nghe kém.
1.4 Nghe kém dẫn truyền là hình thức nghe kém thường gặp nhất trẻ mẫu
giáo ở nội thành Hà Nội bị nghe kém, chiếm hơn 70% tổng số nghe kém.
Nghe kém tiếp nhận và hỗn hợp chiếm tỷ lệ lần lượt là 12,7% và 16,9%.
2. Một số yếu tố nguy của nghe kém trẻ em từ 2 tuổi đến 5 tuổi khu
vực nội thành Hà Nội
2.1 Mẹ bị nhiễm rubella trong khi mang thai (OR = 11,73 , 95%CI: 2,90
47,33).
2.2 Trẻ phải can thiệp thở Oxy sau khi sinh (OR = 13,89 , 95%CI: 2,72
70,82).
2.3 Trẻ bị vàng da sau sinh bất thường phải điều trị (OR = 13,47 , 95%CI:
5,09 – 35,59).
2.4 Trẻ bị viêm màng não (OR = 26,44 , 95%CI: 5,65 – 123,59).
2.5 Trẻ bị bệnh ở tai (OR = 14,03 , 95%CI: 9,85 – 19,97).
91 KẾT LUẬN 1. Đặc điểm nghe kém ở trẻ mẫu giáo tại các trường mẫu giáo công lập nội thành Hà Nội năm 2011 – 2012. 1.1 Tỷ lệ nghe kém ở trẻ mẫu giáo ở nội thành Hà Nội năm 2011- 2012 là 4,4%, trong đó tỷ lệ nghe kém ở trẻ em nam và trẻ em nữ lần lượt là 4,7% và 4,0%. 1.2 Nghe kém cả hai tai là hình thức nghe kém phổ biến nhất, chiếm 70,1%. Chỉ nghe kém một tai phải hoặc tai trái chiếm tỷ lệ thấp, lần lượt là 13,0% và 16,9%. 1.3 Nghe kém mức độ nhẹ chiếm 41,9%, nghe kém vừa chiếm 41,7%. Nghe kém nặng đến sâu chiếm 12,4% trong tổng số trẻ nghe kém. 1.4 Nghe kém dẫn truyền là hình thức nghe kém thường gặp nhất ở trẻ mẫu giáo ở nội thành Hà Nội bị nghe kém, chiếm hơn 70% tổng số nghe kém. Nghe kém tiếp nhận và hỗn hợp chiếm tỷ lệ lần lượt là 12,7% và 16,9%. 2. Một số yếu tố nguy cơ của nghe kém ở trẻ em từ 2 tuổi đến 5 tuổi khu vực nội thành Hà Nội 2.1 Mẹ bị nhiễm rubella trong khi mang thai (OR = 11,73 , 95%CI: 2,90 – 47,33). 2.2 Trẻ phải can thiệp thở Oxy sau khi sinh (OR = 13,89 , 95%CI: 2,72 – 70,82). 2.3 Trẻ bị vàng da sau sinh bất thường phải điều trị (OR = 13,47 , 95%CI: 5,09 – 35,59). 2.4 Trẻ bị viêm màng não (OR = 26,44 , 95%CI: 5,65 – 123,59). 2.5 Trẻ bị bệnh ở tai (OR = 14,03 , 95%CI: 9,85 – 19,97).