Luận án Tiến sĩ: Đánh giá hiệu quả giải pháp can thiệp bằng truyền thông giáo dục dinh dưỡng và bổ sung viên sắt trên phụ nữ độ tuổi 20 đến 35 tuổi người dân tộc Tày tại một số xã huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên

2,207
590
153
29
Năm 2008, Phạm Hoàng Hưng cộng s đã đánh giá hiệu qu ca
truyn thông tích cực đến kiến thức, thái độ, thc hành đa dạng hóa bữa ăn ở
ph n 20 35 tui và bà mcon t 6 24 tháng tui ti huyện Phong Điền,
Tha Thiên Huế. Kết qu nghiên cu cho thy s thay đổi có ý nghĩa thống kê
v kiến thc, thực hành đa dạng hóa bữa ăn PNTSĐ m con nh
cũng như cải thin tình trng thiếu máu ca bà m tr em [67].
Vi mc tiêu ci thin kiến thc thc hành trong vic phòng chng
TMDD năm 2011, Huỳnh Nam Phương cộng s đã tiến hành can thip
tiếp thhi trong thi gian 6 tháng trên PNTSĐ ngưi dân tộc Mường ti
Hòa Bình. Kết qu cho thy chương trình tiếp th đã mang lại hiu qu cao c
kiến thc, thc hành v bnh thiếu máu viên st PNTSĐ nơi đây đều
đưc ci thin. Hiu qu tiếp th ci thin kiến thc v thời điểm ung viên
st là 24,5%, tác dng ca viên st là 9,6%, biện pháp tăng cường hp thu st
(ăn thêm rau, ăn thêm đạm) tương ứng là 2,9% và 5,1%. T l ph nthai
đã và đang ung viên sắt cao hơn nhóm chứng có ý nghĩa thống kê (92,4% và
89,9% so vi 85,4% và 69,8%). T l ung viên st hàng ngày nhóm được
tiếp th đã tăng từ 71,0% lên 91,6%. Khu phn ph n thai được ci thin
nét: Tăng tiêu thụ lương thc thc phẩm, đặc bit các thc phm giàu
dinh dưỡng, các chất dinh dưỡng cũng tăng đáng kể. Năng lưng khu phn,
Protid, Lipid, đã đáp ứng được nhu cu khuyến ngh và cao hơn so nhóm đối
chng [68].
Kết qu nghiên cu ca H Thu Mai và cng s năm 2013 tại Hòa Bình
cho thy bng gii pháp TTGD ph biến kiến thc v thiếu máu, vai trò ca
nhng thc phm giàu st, cách to ngun thc phm giàu st ti h gia đình
và tăng cường s dng viên sắt hàng ngày đã cải thiện đáng kể tình trng dinh
ng và thiếu máu PNTSĐ ngưi dân tộc Mường nơi đây. Sự thay đổi có ý
nghĩa thống kê [34].
29 Năm 2008, Phạm Hoàng Hưng và cộng sự đã đánh giá hiệu quả của truyền thông tích cực đến kiến thức, thái độ, thực hành đa dạng hóa bữa ăn ở phụ nữ 20 – 35 tuổi và bà mẹ có con từ 6 – 24 tháng tuổi tại huyện Phong Điền, Thừa Thiên Huế. Kết quả nghiên cứu cho thấy sự thay đổi có ý nghĩa thống kê về kiến thức, thực hành đa dạng hóa bữa ăn ở PNTSĐ và bà mẹ có con nhỏ cũng như cải thiện tình trạng thiếu máu của bà mẹ và trẻ em [67]. Với mục tiêu cải thiện kiến thức và thực hành trong việc phòng chống TMDD năm 2011, Huỳnh Nam Phương và cộng sự đã tiến hành can thiệp tiếp thị xã hội trong thời gian 6 tháng trên PNTSĐ người dân tộc Mường tại Hòa Bình. Kết quả cho thấy chương trình tiếp thị đã mang lại hiệu quả cao cả kiến thức, thực hành về bệnh thiếu máu và viên sắt ở PNTSĐ nơi đây đều được cải thiện. Hiệu quả tiếp thị cải thiện kiến thức về thời điểm uống viên sắt là 24,5%, tác dụng của viên sắt là 9,6%, biện pháp tăng cường hấp thu sắt (ăn thêm rau, ăn thêm đạm) tương ứng là 2,9% và 5,1%. Tỷ lệ phụ nữ có thai đã và đang uống viên sắt cao hơn nhóm chứng có ý nghĩa thống kê (92,4% và 89,9% so với 85,4% và 69,8%). Tỷ lệ uống viên sắt hàng ngày ở nhóm được tiếp thị đã tăng từ 71,0% lên 91,6%. Khẩu phần phụ nữ có thai được cải thiện rõ nét: Tăng tiêu thụ lương thực thực phẩm, đặc biệt là các thực phẩm giàu dinh dưỡng, các chất dinh dưỡng cũng tăng đáng kể. Năng lượng khẩu phần, Protid, Lipid, đã đáp ứng được nhu cầu khuyến nghị và cao hơn so nhóm đối chứng [68]. Kết quả nghiên cứu của Hồ Thu Mai và cộng sự năm 2013 tại Hòa Bình cho thấy bằng giải pháp TTGD phổ biến kiến thức về thiếu máu, vai trò của những thực phẩm giàu sắt, cách tạo nguồn thực phẩm giàu sắt tại hộ gia đình và tăng cường sử dụng viên sắt hàng ngày đã cải thiện đáng kể tình trạng dinh dưỡng và thiếu máu ở PNTSĐ người dân tộc Mường nơi đây. Sự thay đổi có ý nghĩa thống kê [34].
30
1.3. Hiệu quả các chương trình bổ sung viên sắt đối với việc cải thiện tình
trạng thiếu máu thiếu sắt ở phụ nữ tuổi sinh đẻ
1.3.1. Các giải pháp can thiệp để cải thiện tình trạng thiếu máu thiếu sắt
phụ nữ tuổi sinh đẻ trên thế giới và ở Việt Nam
* Can thip da vào thc phm kết hp truyn thông giáo dc dinh dưỡng
Ci thin tình trng TMDD da vào thc phm là giải pháp bản, dài
hn bn vng nht. Gii pháp can thip này bao gm các chiến lược ci
thin tính sn có ca thc phm giàu vi chất dinh dưỡng tại địa phương; đảm
bo s tiếp cn đối vi nhng thc phm này ca các h gia đình, đc bit
nhng h có nguy cơ cao; thay đổi thực hành dinh dưng vi s quan tâm ti
nhng thc phm giàu vi chất dinh dưỡng [37]. ng st t khu phần được
hấp thu vào cơ thể li ph thuc vào các cht tăng cường hay c chế hp thu
st. Vì vậy, đa dạng hóa bữa ăn để tăng cường hp thu st t khu phn là rt
cn thiết. Để thc hin thành công gii pháp can thip da vào thc phm
trong phòng chng TMDD, đối tượng cần được TTGD để nâng cao kiến thc
v TMDD (Thiếu máu dinh dưỡng là gì? Những đối tượng có nguy thiếu
máu cao? Nguyên nhân, hu qu, biu hin ca thiếu máu? Các bin pháp
phòng chng thiếu máu?) t đó nhận thức đúng đắn và dẫn đến thay đổi,
thc hin nhng hành vi có li cho bn thân, gia đình và cho cộng đồng.
Mục đích của đa dạng hóa bữa ăn:
+ Tăng cường s dng các loi thc phm giàu st có giá tr sinh hc cao
đó là các thức ăn ngun gốc động vật như: thịt bò, gan, tiết. Bi vì st có
trong nhng loi thc phm này st hem nên t l hấp thu cao hơn sắt
không hem t 2 3 ln và s hp thu ít b ảnh hưởng bi các yếu t c chế
hay cnh tranh trong khu phn [42].
+ Tăng cường s dng các thc phm h tr hp thu sắt: tăng cường tiêu
th các loi thc phm giàu vitamin C (i, bưởi, cam…), khuyến khích các
30 1.3. Hiệu quả các chương trình bổ sung viên sắt đối với việc cải thiện tình trạng thiếu máu thiếu sắt ở phụ nữ tuổi sinh đẻ 1.3.1. Các giải pháp can thiệp để cải thiện tình trạng thiếu máu thiếu sắt ở phụ nữ tuổi sinh đẻ trên thế giới và ở Việt Nam * Can thiệp dựa vào thực phẩm kết hợp truyền thông giáo dục dinh dưỡng Cải thiện tình trạng TMDD dựa vào thực phẩm là giải pháp cơ bản, dài hạn và bền vững nhất. Giải pháp can thiệp này bao gồm các chiến lược cải thiện tính sẵn có của thực phẩm giàu vi chất dinh dưỡng tại địa phương; đảm bảo sự tiếp cận đối với những thực phẩm này của các hộ gia đình, đặc biệt những hộ có nguy cơ cao; thay đổi thực hành dinh dưỡng với sự quan tâm tới những thực phẩm giàu vi chất dinh dưỡng [37]. Lượng sắt từ khẩu phần được hấp thu vào cơ thể lại phụ thuộc vào các chất tăng cường hay ức chế hấp thu sắt. Vì vậy, đa dạng hóa bữa ăn để tăng cường hấp thu sắt từ khẩu phần là rất cần thiết. Để thực hiện thành công giải pháp can thiệp dựa vào thực phẩm trong phòng chống TMDD, đối tượng cần được TTGD để nâng cao kiến thức về TMDD (Thiếu máu dinh dưỡng là gì? Những đối tượng có nguy cơ thiếu máu cao? Nguyên nhân, hậu quả, biểu hiện của thiếu máu? Các biện pháp phòng chống thiếu máu?) từ đó có nhận thức đúng đắn và dẫn đến thay đổi, thực hiện những hành vi có lợi cho bản thân, gia đình và cho cộng đồng. Mục đích của đa dạng hóa bữa ăn: + Tăng cường sử dụng các loại thực phẩm giàu sắt có giá trị sinh học cao đó là các thức ăn có nguồn gốc động vật như: thịt bò, gan, tiết…. Bởi vì sắt có trong những loại thực phẩm này là sắt hem nên có tỷ lệ hấp thu cao hơn sắt không hem từ 2 – 3 lần và sự hấp thu ít bị ảnh hưởng bởi các yếu tố ức chế hay cạnh tranh trong khẩu phần [42]. + Tăng cường sử dụng các thực phẩm hỗ trợ hấp thu sắt: tăng cường tiêu thụ các loại thực phẩm giàu vitamin C (ổi, bưởi, cam…), khuyến khích các
31
cách chế biến như nảy mm, lên men (sữa chua, giá đỗ, dưa chua…). Vitamin
C trong khu phn mt trong những điều kin thun lợi thúc đẩy quá trình
hp thu st bi vì d dày rut vitamin C hoạt động như một cht kh, có th
gi sắt dưới dng ion st hóa tr II, giúp cho vic hp thu st không hem
rut non d dàng hơn do vitamin C hết hp vi st to thành mt hp cht st
chelate d dàng hòa tan hơn trong môi trường kim rut non; ngoài ra
vitamin C còn giúp cho st di chuyn t huyết tương đến gan để d tr i
dạng Ferritin cũng như giải phóng st t Ferritin khi cn [37].
+ Hn chế mt s loi thc phm cha cht c chế hp thu sắt như:
phytate có trong lp v la của đậu đỗ, go, các loại ngũ cốc là mt loi acid
s kết hp vi st có trong khu phn t đó gây cản tr s hp thu st; tanin t
trà, cà phê là mt loi polyphenol có tác dng c chế hp thu st…
+ Ci thin chế độ ăn: chế độ ăn cần cung cấp đầy đủ năng lượng, các
chất dinh dưỡng đặc bit là st, vitamin C.
Như vy, công tác TTGDDD đóng vai trò cùng quan trọng để thc
hin chiến lược đa dạng hóa bữa ăn. Tuyên truyền cho người dân biết cách la
chọn được nhng thc phm giàu st, hn chế s dng nhng thc phm
cha cht c chế hp thu sắt, hướng dn chế độ ăn ung hp lý [69].
* Gii pháp tăng cường st vào thc phm
Tăng cường vi chất vào thực phẩm (trong đó có sắt) là đưa thêm các chất
dinh dưỡng vào thực phẩm nhằm duy trì hay cải thiện chất lượng dinh dưỡng
của thực phẩm. Đây giải pháp đã được chứng minh hiệu quả, tính bền
vững cao để thanh toán tình trạng thiếu vi chất dinh dưỡng ở cộng đồng vì có
thể đến được các đối tượng cần, nhất là người dân nghèo [70],[71].
Nhiu quốc gia đã thực hiện thành công chương trình tăng cường st
vào thc phẩm như Philippines tăng cường st vào go vi hn hp st
sulphat [72]. Tăng cường st vào bt mì trong khi xay Chi Lê; Venezuela
31 cách chế biến như nảy mầm, lên men (sữa chua, giá đỗ, dưa chua…). Vitamin C trong khẩu phần là một trong những điều kiện thuận lợi thúc đẩy quá trình hấp thu sắt bởi vì ở dạ dày ruột vitamin C hoạt động như một chất khử, có thể giữ sắt dưới dạng ion sắt hóa trị II, giúp cho việc hấp thu sắt không hem ở ruột non dễ dàng hơn do vitamin C hết hợp với sắt tạo thành một hợp chất sắt chelate dễ dàng hòa tan hơn trong môi trường kiềm ở ruột non; ngoài ra vitamin C còn giúp cho sắt di chuyển từ huyết tương đến gan để dự trữ dưới dạng Ferritin cũng như giải phóng sắt từ Ferritin khi cần [37]. + Hạn chế một số loại thực phẩm có chứa chất ức chế hấp thu sắt như: phytate có trong lớp vỏ lụa của đậu đỗ, gạo, các loại ngũ cốc là một loại acid sẽ kết hợp với sắt có trong khẩu phần từ đó gây cản trở sự hấp thu sắt; tanin từ trà, cà phê là một loại polyphenol có tác dụng ức chế hấp thu sắt… + Cải thiện chế độ ăn: chế độ ăn cần cung cấp đầy đủ năng lượng, các chất dinh dưỡng đặc biệt là sắt, vitamin C. Như vậy, công tác TTGDDD đóng vai trò vô cùng quan trọng để thực hiện chiến lược đa dạng hóa bữa ăn. Tuyên truyền cho người dân biết cách lựa chọn được những thực phẩm giàu sắt, hạn chế sử dụng những thực phẩm có chứa chất ức chế hấp thu sắt, hướng dẫn chế độ ăn uống hợp lý [69]. * Giải pháp tăng cường sắt vào thực phẩm Tăng cường vi chất vào thực phẩm (trong đó có sắt) là đưa thêm các chất dinh dưỡng vào thực phẩm nhằm duy trì hay cải thiện chất lượng dinh dưỡng của thực phẩm. Đây là giải pháp đã được chứng minh có hiệu quả, tính bền vững cao để thanh toán tình trạng thiếu vi chất dinh dưỡng ở cộng đồng vì có thể đến được các đối tượng cần, nhất là người dân nghèo [70],[71]. Nhiều quốc gia đã thực hiện thành công chương trình tăng cường sắt vào thực phẩm như ở Philippines tăng cường sắt vào gạo với hỗn hợp sắt sulphat [72]. Tăng cường sắt vào bột mì trong khi xay ở Chi Lê; ở Venezuela
32
st fumarate được tăng cường vào lúa mch hoc ngô đưc bo qun trong
thi gian dài. Sắt EDTA được tăng cường thành công vào nước mm Thái
Lan, bt ri Nam Phi, đường Guatemala [4]. Tăng cường sắt vào nước
tương Trung Quốc được thc hin t năm 2003 cho đến nay sn phm
tăng cường này đã được cộng đồng chp nhn [73].
* Gii pháp can thip da vào b sung viên st
B sung st mt trong nhng chiến lược chính hiện nay để phòng
chng thiếu máu thiếu st nhiều nước trên thế giới đặc biệt các nước
nghèo đang phát triển. Gii pháp b sung st mt can thip không th
thiếu nhng cộng đồng lượng st khu phn không th đáp ứng được
nhu cu st ca các th thường được s dụng để điu tr thiếu máu do
thiếu st. Giải pháp này cũng được xem như là biện pháp y tế công cng trong
phòng chng thiếu máu thiếu st nhng cộng đồng nguy cơ thiếu st và
thiếu máu thiếu st cao [74],[75].
Để chương trình bổ sung st thc hin thành công, cn nhng chính
sách h tr ca các cp, các ngành t đó có được các tiêu chun thc hành và
huy động ngun lc để trin khai, cn la chn loi sn phm b sung phù
hp c v chất lượng và giá thành để hp dẫn người s dụng đảm bảo độ bao
ph và tính tuân th điu tr cao, cn xây dựng được chương trình vận hành có
hiu qu, lng ghép được chương trình với các dch v y tế các chương
trình y tế khác, phi xây dựng được chiến lược truyn thông và kế hoch theo
dõi, giám sát và đánh giá một cách h thng, hiu qu [76].
S tuân th điu tr của đối tượng yếu t đóng vai trò quan trọng to
nên s thành công của chương trình. Vic ung thuốc không đầy đủ theo đơn
đưc do tác dng ph ca thuc làm ảnh hưởng đến hu hết các chương
trình b sung st [77]. Vì vy vic la chn viên st phù hp cho chương trình
can thip rt cn thiết. Loi viên st s dng th giá thành đắt hơn
nhưng nếu làm gim tác dng ph thì s tăng sự tuân th phác đồ điu tr ca
32 sắt fumarate được tăng cường vào lúa mạch hoặc ngô và được bảo quản trong thời gian dài. Sắt EDTA được tăng cường thành công vào nước mắm ở Thái Lan, bột cà ri ở Nam Phi, đường ở Guatemala [4]. Tăng cường sắt vào nước tương ở Trung Quốc được thực hiện từ năm 2003 và cho đến nay sản phẩm tăng cường này đã được cộng đồng chấp nhận [73]. * Giải pháp can thiệp dựa vào bổ sung viên sắt Bổ sung sắt là một trong những chiến lược chính hiện nay để phòng chống thiếu máu thiếu sắt ở nhiều nước trên thế giới đặc biệt là các nước nghèo và đang phát triển. Giải pháp bổ sung sắt là một can thiệp không thể thiếu ở những cộng đồng mà lượng sắt khẩu phần không thể đáp ứng được nhu cầu sắt của các cá thể và thường được sử dụng để điều trị thiếu máu do thiếu sắt. Giải pháp này cũng được xem như là biện pháp y tế công cộng trong phòng chống thiếu máu thiếu sắt ở những cộng đồng có nguy cơ thiếu sắt và thiếu máu thiếu sắt cao [74],[75]. Để chương trình bổ sung sắt thực hiện thành công, cần có những chính sách hỗ trợ của các cấp, các ngành từ đó có được các tiêu chuẩn thực hành và huy động nguồn lực để triển khai, cần lựa chọn loại sản phẩm bổ sung phù hợp cả về chất lượng và giá thành để hấp dẫn người sử dụng đảm bảo độ bao phủ và tính tuân thủ điều trị cao, cần xây dựng được chương trình vận hành có hiệu quả, lồng ghép được chương trình với các dịch vụ y tế và các chương trình y tế khác, phải xây dựng được chiến lược truyền thông và kế hoạch theo dõi, giám sát và đánh giá một cách hệ thống, hiệu quả [76]. Sự tuân thủ điều trị của đối tượng là yếu tố đóng vai trò quan trọng tạo nên sự thành công của chương trình. Việc uống thuốc không đầy đủ theo đơn được kê do tác dụng phụ của thuốc làm ảnh hưởng đến hầu hết các chương trình bổ sung sắt [77]. Vì vậy việc lựa chọn viên sắt phù hợp cho chương trình can thiệp rất cần thiết. Loại viên sắt sử dụng có thể có giá thành đắt hơn nhưng nếu làm giảm tác dụng phụ thì sẽ tăng sự tuân thủ phác đồ điều trị của
33
đối tượng đích cui cùng vn có li ích nhiều hơn xét v mt kinh tế. Các
tác dng ph ca viên sắt thường tăng theo liều s dng nhưng th gim
nếu ung vào bữa ăn nhưng sẽ làm gim hấp thu đến 40% [78].
WHO khuyến khích s dng phác đồ b sung st d phòng cho nhng
đối tượng nguy thiếu máu thiếu st cao nhng cộng đồng t l
thiếu máu ≥ 40% [4],[75].
Bng 1.1. Liu b sung sắt axit folic để d phòng thiếu máu dinh dưỡng
Đối tƣợng
Liu mt ngày
Thi gian dùng
Ph n có thai
60mg st + 400g
Folat/ngày
T khi biết mình có thai
ti sau khi sinh 1 tháng.
Ung hàng ngày.
Ph n tuổi sinh đẻ
60mg st + 400g
Folat/ngày
Mi tun 1 viên. Ung
trong 16 tun liên tc.
Ph n cho con bú
60mg st + 400g
Folat/ngày
3 tháng sau sinh
* Phòng chng nhim ký sinh trùng
Nhim giun móc là mt trong nhng nguyên nhân chính gây thiếu máu thiếu
st cộng đng. Thiếu máu có liên quan với cường độ nhim giun móc [79],[80].
nhng cộng đồng t l nhim giun cao thì vic ty giun phải được
thc hin cho tt c những đối tượng b thiếu máu nng. Ty giun cho tr em
đi học không cn sàng lc hiện nay cũng đã được khuyến ngh ti nhà
trường ty giun phi hp vi b sung sắt được khuyến ngh cho ph n
mang thai. Vic phi hp này s giúp tăng cường đáp ng ca Hb vi st
đưc b sung. Menbendazone, Albendazone là các thuc ty giun an toàn và
có th dùng nhc li nhiu ln và có th dùng cho ph n có thai [4].
m li, chế độ ăn đa dạng đảm bo chất lượng kh năng giải
quyết được phn ln tình trng thiếu vi chất dinh dưỡng nói chung thiếu
st nói riêng. Tuy nhiên, vic ci thin chế độ ăn người dân nghèo khó
33 đối tượng đích và cuối cùng vẫn có lợi ích nhiều hơn xét về mặt kinh tế. Các tác dụng phụ của viên sắt thường tăng theo liều sử dụng nhưng có thể giảm nếu uống vào bữa ăn nhưng sẽ làm giảm hấp thu đến 40% [78]. WHO khuyến khích sử dụng phác đồ bổ sung sắt dự phòng cho những đối tượng có nguy cơ thiếu máu thiếu sắt cao ở những cộng đồng có tỷ lệ thiếu máu ≥ 40% [4],[75]. Bảng 1.1. Liều bổ sung sắt và axit folic để dự phòng thiếu máu dinh dưỡng Đối tƣợng Liều một ngày Thời gian dùng Phụ nữ có thai 60mg sắt + 400g Folat/ngày Từ khi biết mình có thai tới sau khi sinh 1 tháng. Uống hàng ngày. Phụ nữ tuổi sinh đẻ 60mg sắt + 400g Folat/ngày Mỗi tuần 1 viên. Uống trong 16 tuần liên tục. Phụ nữ cho con bú 60mg sắt + 400g Folat/ngày 3 tháng sau sinh * Phòng chống nhiễm ký sinh trùng Nhiễm giun móc là một trong những nguyên nhân chính gây thiếu máu thiếu sắt ở cộng đồng. Thiếu máu có liên quan với cường độ nhiễm giun móc [79],[80]. Ở những cộng đồng có tỷ lệ nhiễm giun cao thì việc tẩy giun phải được thực hiện cho tất cả những đối tượng bị thiếu máu nặng. Tẩy giun cho trẻ em đi học mà không cần sàng lọc hiện nay cũng đã được khuyến nghị tại nhà trường và tẩy giun phối hợp với bổ sung sắt được khuyến nghị cho phụ nữ mang thai. Việc phối hợp này sẽ giúp tăng cường đáp ứng của Hb với sắt được bổ sung. Menbendazone, Albendazone là các thuốc tẩy giun an toàn và có thể dùng nhắc lại nhiều lần và có thể dùng cho phụ nữ có thai [4]. Tóm lại, chế độ ăn đa dạng và đảm bảo chất lượng có khả năng giải quyết được phần lớn tình trạng thiếu vi chất dinh dưỡng nói chung và thiếu sắt nói riêng. Tuy nhiên, việc cải thiện chế độ ăn ở người dân nghèo là khó
34
khăn, phức tp và cn đưc tiến hành trong thi gian dài vì để chiến lược thc
hin hiu qu thì thu nhp của người dân phải tăng lên; đảm bảo được kh
năng tiếp cn vi thc phm, các dch v chăm sóc y tế dinh dưỡng. Tuy
nhiên, trước mt để giảm suy dinh dưỡng bào thai; ci thin sc kho, kh
năng học tập cũng như năng suất lao động cn tiến hành thc hin nhng gii
pháp k thut ngn hn có chi phí thấp nhưng mang li hiu qu cao như b
sung viên st và tăng cường vi cht vào thc phm.
1.3.2. Hiệu quả của các chương trình bổ sung viên sắt đối với việc cải thiện
tình trạng thiếu máu thiếu sắt ở phụ nữ tuổi sinh đẻ
Dù thiếu máu là mt vấn đề mang tính toàn cầu, nhưng cho đến nay hiu
qu ca các gii pháp can thip vn còn mt câu hi ln đối vi các nhà
khoa hc không có mt gii pháp chung nào th áp dng cho các cng
đồng khác nhau [18].
1.3.2.1. Hiệu quả của các chương trình bổ sung viên sắt trên thế giới
Đối vi ph n mang thai, s thiếu ht vi chất dinh dưỡng cũng nh
ng giống như ở PNTSĐ. Để đáp ứng nhu cu st trong thai k, ph n cn
ng st d tr ít nht 300 500mg trước khi mang thai, để không b thiếu
st trong ba tháng mang thai đầu tiên. Nhiu ph n các nước đang phát
trin d tr st i mc này, do đó sẽ nguy cơ bị thiếu st trong khi
mang thai. Ngay c các nước phát trin, nhiu ph n khi bước vào thi
mang thai cũng không có dự tr sắt đầy đủ. Da trên t l th th Transferrin
/Ferritin huyết thanh, 56,0% ph n không mang thai ti Hoa K có lượng st
d tr i 300mg và ch i 20,0% ph n Đan Mạch được ước tính
có đủ (>500mg) d tr sắt trước khi mang thai. Do đó, cách tiếp cận đầy ha
hn là ci thin st và tình trng acid folic ca ph n trước khi mang thai, bi
vì thi kì này có nhiu thời gian để can thiệp; đồng thi ci thin tình trng vi
chất dinh dưỡng dường như có tác dụng ln nht thi kì sm ca thai kì và
điu này quan trng cho quá trình th thai [81],[82],[83],[84]. Đc biệt đối vi
axit folic, s cung cấp đầy đủ axit folic tác động mạnh đến vic gim các
khuyết tt ng thn kinh tr sơ sinh [82],[85].
34 khăn, phức tạp và cần được tiến hành trong thời gian dài vì để chiến lược thực hiện hiệu quả thì thu nhập của người dân phải tăng lên; đảm bảo được khả năng tiếp cận với thực phẩm, các dịch vụ chăm sóc y tế và dinh dưỡng. Tuy nhiên, trước mắt để giảm suy dinh dưỡng bào thai; cải thiện sức khoẻ, khả năng học tập cũng như năng suất lao động cần tiến hành thực hiện những giải pháp kỹ thuật ngắn hạn có chi phí thấp nhưng mang lại hiệu quả cao như bổ sung viên sắt và tăng cường vi chất vào thực phẩm. 1.3.2. Hiệu quả của các chương trình bổ sung viên sắt đối với việc cải thiện tình trạng thiếu máu thiếu sắt ở phụ nữ tuổi sinh đẻ Dù thiếu máu là một vấn đề mang tính toàn cầu, nhưng cho đến nay hiệu quả của các giải pháp can thiệp vẫn còn là một câu hỏi lớn đối với các nhà khoa học vì không có một giải pháp chung nào có thể áp dụng cho các cộng đồng khác nhau [18]. 1.3.2.1. Hiệu quả của các chương trình bổ sung viên sắt trên thế giới Đối với phụ nữ mang thai, sự thiếu hụt vi chất dinh dưỡng cũng có ảnh hưởng giống như ở PNTSĐ. Để đáp ứng nhu cầu sắt trong thai kỳ, phụ nữ cần lượng sắt dự trữ ít nhất 300 – 500mg trước khi mang thai, để không bị thiếu sắt trong ba tháng mang thai đầu tiên. Nhiều phụ nữ ở các nước đang phát triển có dự trữ sắt dưới mức này, do đó sẽ có nguy cơ bị thiếu sắt trong khi mang thai. Ngay cả ở các nước phát triển, nhiều phụ nữ khi bước vào thời kì mang thai cũng không có dự trữ sắt đầy đủ. Dựa trên tỷ lệ thụ thể Transferrin /Ferritin huyết thanh, 56,0% phụ nữ không mang thai tại Hoa Kỳ có lượng sắt dự trữ dưới 300mg và chỉ dưới 20,0% phụ nữ ở Đan Mạch được ước tính là có đủ (>500mg) dự trữ sắt trước khi mang thai. Do đó, cách tiếp cận đầy hứa hẹn là cải thiện sắt và tình trạng acid folic của phụ nữ trước khi mang thai, bởi vì thời kì này có nhiều thời gian để can thiệp; đồng thời cải thiện tình trạng vi chất dinh dưỡng dường như có tác dụng lớn nhất ở thời kì sớm của thai kì và điều này quan trọng cho quá trình thụ thai [81],[82],[83],[84]. Đặc biệt đối với axit folic, sự cung cấp đầy đủ axit folic có tác động mạnh đến việc giảm các khuyết tật ống thần kinh ở trẻ sơ sinh [82],[85].
35
Tng quan h thng 21 th nghiệm được thc hin trên 10.258 ph n t
15 quc gia Châu M La Tinh, Châu Á, Châu Phi và Châu Âu cho thy: Ph
n đưc b sung st ngắt quãng qua đường ung (Ch ung st hoc ung st
kết hp vi acid folic hoc st kết hp vi các vi cht khác) có ng Hb cao
hơn (sự khác bit v Hb trung bình là 4,58 g/l; 95%CI: 2,56 6,59; 13 nghiên
cu) nồng độ Ferritin cũng cao hơn (sự khác bit v Ferritin trung bình
8,32 μg/l; 95%CI: 4,97 11,66; 6 nghiên cứu), ít có nguy thiếu máu hơn
(RR = 0,73; 95%CI: 0,56 0,95; 10 nghiên cu) so vi nhng ph n không
đưc ung b sung hoc ch đưc ung gi c. So sánh vi nhóm ph n
đưc ung b sung st hàng ngày thì nhóm ph n đưc b sung st ngt
quãng nguy thiếu máu cao hơn (RR = 1,26; 95%CI: 1,04 1,51; 6
nghiên cu) nồng độ Ferritin thấp hơn (s khác bit v Ferritin trung
bình: -11,32 μg/l; 95%CI: -22,61 đến -0.02; 3 nghiên cu), tuy nhiên nhng
ph n này nng độ Hb trung bình gần như tương đương nhau (sự khác
bit v Hb trung bình: -0,15 g/l; 95%CI: -2,20 đến 1,91; 8 nghiên cu).
Không có s khác biệt ý nghĩa thống kê v nguy cơ thiếu st (RR = 4,30;
95%CI: 0,56 33,2; 20 nghiên cu) [86].
Nghiên cu ca Haidar năm 2003 vi gii pháp b sung sắt theo phác đồ
hàng ngày hàng tun (l viên st cha 60mg st nguyên t + 400μg acid
folic) trên PNTSĐ Etiopia cho thy t l thiếu máu được ci thiện tương
đương hai phác đồ, gim 5,3% (6,9% xung 1,6%) phác đồ hàng ngày,
gim 5,0% (t 6,7% xung 1,7%) phác đồ hàng tun, phác đồ b sung st
hàng ngày ci thin nồng độ Ferritin huyết thanh tốt hơn phác đ b sung
hàng tun tuy nhiên s khác biệt không có ý nghĩa thống kê. Phác đồ b sung
st hàng ngày gây ra nhiu tác dng ph hơn và mức độ tuân th thấp hơn so
với phác đồ b sung hàng tun [87]. Đối vi ph n t 15 tui tr lên, nếu
35 Tổng quan hệ thống 21 thử nghiệm được thực hiện trên 10.258 phụ nữ từ 15 quốc gia ở Châu Mỹ La Tinh, Châu Á, Châu Phi và Châu Âu cho thấy: Phụ nữ được bổ sung sắt ngắt quãng qua đường uống (Chỉ uống sắt hoặc uống sắt kết hợp với acid folic hoặc sắt kết hợp với các vi chất khác) có lượng Hb cao hơn (sự khác biệt về Hb trung bình là 4,58 g/l; 95%CI: 2,56 – 6,59; 13 nghiên cứu) và nồng độ Ferritin cũng cao hơn (sự khác biệt về Ferritin trung bình 8,32 μg/l; 95%CI: 4,97 – 11,66; 6 nghiên cứu), ít có nguy cơ thiếu máu hơn (RR = 0,73; 95%CI: 0,56 – 0,95; 10 nghiên cứu) so với những phụ nữ không được uống bổ sung hoặc chỉ được uống giả dược. So sánh với nhóm phụ nữ được uống bổ sung sắt hàng ngày thì nhóm phụ nữ được bổ sung sắt ngắt quãng có nguy cơ thiếu máu cao hơn (RR = 1,26; 95%CI: 1,04 – 1,51; 6 nghiên cứu) và có nồng độ Ferritin thấp hơn (sự khác biệt về Ferritin trung bình: -11,32 μg/l; 95%CI: -22,61 đến -0.02; 3 nghiên cứu), tuy nhiên những phụ nữ này có nồng độ Hb trung bình gần như tương đương nhau (sự khác biệt về Hb trung bình: -0,15 g/l; 95%CI: -2,20 đến 1,91; 8 nghiên cứu). Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về nguy cơ thiếu sắt (RR = 4,30; 95%CI: 0,56 – 33,2; 20 nghiên cứu) [86]. Nghiên cứu của Haidar năm 2003 với giải pháp bổ sung sắt theo phác đồ hàng ngày và hàng tuần (l viên sắt chứa 60mg sắt nguyên tố + 400μg acid folic) trên PNTSĐ ở Etiopia cho thấy tỷ lệ thiếu máu được cải thiện tương đương ở hai phác đồ, giảm 5,3% (6,9% xuống 1,6%) ở phác đồ hàng ngày, giảm 5,0% (từ 6,7% xuống 1,7%) ở phác đồ hàng tuần, ở phác đồ bổ sung sắt hàng ngày cải thiện nồng độ Ferritin huyết thanh tốt hơn phác đồ bổ sung hàng tuần tuy nhiên sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê. Phác đồ bổ sung sắt hàng ngày gây ra nhiều tác dụng phụ hơn và mức độ tuân thủ thấp hơn so với phác đồ bổ sung hàng tuần [87]. Đối với phụ nữ từ 15 tuổi trở lên, nếu
36
đưc b sung st hàng tuần 4 tháng/năm (60mg sắt nguyên t/ngày) th
làm gim t l thiếu máu nhóm này xuống dưới 2,0%. Đây là một điều kin
tốt để hn chế thiếu máu khi có thai [88].
Vi s h tr ca WHO, th nghim hiu qu ca vic b sung st kết
hp vi axit folic cho PNTSĐ Campuchia, Vit Nam Philippines. Viên
st b sung cung cp 3,5mg axit folic 60mg st nguyên t cho ph n
không mang thai và 120mg st kết hp vi 3,5mg axit folic cho ph n mang
thai. Viên st đưc phát min phí cho ph n mang thai, nhưng được bán cho
ph n không mang thai thông qua một chương trình tiếp th hi. Vit
Nam, t l thiếu máu gim t 45,0% lúc ban đầu xuống dưới 20,0% sau 9
tháng đến 1 năm can thip. T l thiếu st (nồng đ Ferritin <12µg/l) cũng
giảm đáng kể trong giai đoạn nghiên cu. Kết qu nghiên cu can thip này
ch ra rng b sung st axit folic liên quan đến gim tình trng thiếu
máu và thiếu sắt trong ba tháng đầu ba tháng gia ca thi mang thai.
Không thiếu máu thiếu sắt trong ba tháng đầu ba tháng gia thai
ph n bắt đầu ung b sung trên ba tháng trước khi th thai. Mt khác, mc
t l thiếu máu tăng trong ba tháng cui của thai kì, nhưng không
trường hp nào thiếu máu nghiêm trng (nồng độ Hb < 95g/l) [89].
Tng quan h thng t 67 th nghim ngẫu nhiên có đối chng vi 8.506
PNTSĐ. Kết qu cho thy nhng ph n đưc ung st b sung hàng ngày
(có hoc không kết hp vi axit folic hoặc vitamin C) nguy cơ thiếu máu
thấp hơn (RR = 0,39; 95%CI: 0,25 0,60; 10 nghiên cu, n = 3.273), có nng
độ Hb cao hơn khi kết thúc can thip (nồng độ Hb tăng 5,3g/l; 95%CI: 4,14
6,45; 51 nghiên cu, n = 6.861), nguy thiếu st thấp hơn (RR = 0,62;
95%CI: 0,50 0,76; 7 nghiên cu, n = 1.088) nhóm ph n không được ung
b sung hoc dùng gi c. Nghiên cứu cũng đưa ra bng chng v s gia
tăng các tác dụng ph của phác đồ b sung st hàng ngày. Nhng ph n nhn
36 được bổ sung sắt hàng tuần 4 tháng/năm (60mg sắt nguyên tố/ngày) có thể làm giảm tỷ lệ thiếu máu ở nhóm này xuống dưới 2,0%. Đây là một điều kiện tốt để hạn chế thiếu máu khi có thai [88]. Với sự hỗ trợ của WHO, thử nghiệm hiệu quả của việc bổ sung sắt kết hợp với axit folic cho PNTSĐ ở Campuchia, Việt Nam và Philippines. Viên sắt bổ sung cung cấp 3,5mg axit folic và 60mg sắt nguyên tố cho phụ nữ không mang thai và 120mg sắt kết hợp với 3,5mg axit folic cho phụ nữ mang thai. Viên sắt được phát miễn phí cho phụ nữ mang thai, nhưng được bán cho phụ nữ không mang thai thông qua một chương trình tiếp thị xã hội. Ở Việt Nam, tỷ lệ thiếu máu giảm từ 45,0% lúc ban đầu xuống dưới 20,0% sau 9 tháng đến 1 năm can thiệp. Tỷ lệ thiếu sắt (nồng độ Ferritin <12µg/l) cũng giảm đáng kể trong giai đoạn nghiên cứu. Kết quả nghiên cứu can thiệp này chỉ ra rằng bổ sung sắt và axit folic có liên quan đến giảm tình trạng thiếu máu và thiếu sắt trong ba tháng đầu và ba tháng giữa của thời kì mang thai. Không có thiếu máu thiếu sắt trong ba tháng đầu và ba tháng giữa thai kì ở phụ nữ bắt đầu uống bổ sung trên ba tháng trước khi thụ thai. Mặt khác, mặc dù tỷ lệ thiếu máu tăng trong ba tháng cuối của thai kì, nhưng không có trường hợp nào thiếu máu nghiêm trọng (nồng độ Hb < 95g/l) [89]. Tổng quan hệ thống từ 67 thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng với 8.506 PNTSĐ. Kết quả cho thấy những phụ nữ được uống sắt bổ sung hàng ngày (có hoặc không kết hợp với axit folic hoặc vitamin C) có nguy cơ thiếu máu thấp hơn (RR = 0,39; 95%CI: 0,25 – 0,60; 10 nghiên cứu, n = 3.273), có nồng độ Hb cao hơn khi kết thúc can thiệp (nồng độ Hb tăng 5,3g/l; 95%CI: 4,14 – 6,45; 51 nghiên cứu, n = 6.861), có nguy cơ thiếu sắt thấp hơn (RR = 0,62; 95%CI: 0,50 – 0,76; 7 nghiên cứu, n = 1.088) nhóm phụ nữ không được uống bổ sung hoặc dùng giả dược. Nghiên cứu cũng đưa ra bằng chứng về sự gia tăng các tác dụng phụ của phác đồ bổ sung sắt hàng ngày. Những phụ nữ nhận
37
b sung st hàng ngày s gia tăng tỷ l các tác dng ph đưng tiêu hóa
(RR = 1,99; 95%CI: 1,26 3,12; 5 nghiên cu; n = 521), tiêu chy (RR =
2,13; 95%CI: 1,10 4,11; 6 nghiên cu; n = 604); táo bón (RR = 2,07;
95%CI: 1,35 3,17; 8 nghiên cu; n = 1.036), tuy nhiên không có s gia tăng
t l đau bụng (RR = 1,55; 95%CI: 0,99 2,41; 7 nghiên cu; n = 1.190) bun
nôn (RR = 1,19; 95%CI: 0,78 1,82; 8 nghiên cu; n = 1.214) [90].
Kết qu t 48 nghiên cu cho thy s khác bit v nồng độ Hb gia
các nhóm nghiên cu. Nồng độ Hb cao hơn nhóm ph n đưc b sung st
so vi nhóm nhn gi c, nhóm b sung không st (s khác bit Hb
trung bình là 5,61 g/l; 95%CI: 4,44 6,79; 48 th nghim, n = 6.390). Không
có bng chng v s khác bit hiu qu gia vic b sung st so vi gi c
hoc b sung không st lên nồng độ Hb theo liu sắt được b sung (liu
i 30mg, 31 60mg, 61 100mg, trên 100mg; p = 0,72) hoc thi gian
ung b sung (dưới 1 tháng, 1 3 tháng, trên 3 tháng; p > 0,05) [75].
Tng quan gm 25 nghiên cứu đã khẳng định rng vic b sung st hàng
tun liên tc tuy ci thin nồng độ Hb ch mức độ nhất định, nhưng li có ít
tác dng ph, an toàn, chính vì thế phác đồ này ngày càng được nhiều người
áp dng rt có hiu qu trong vic ci thin tình trng thiếu máu ca b
phn lớn người dân [91]. B sung st/acid folic gián đoạn được khuyến cáo
như là một can thip y tế cộng đồng cho ph n có kinh nguyt sng nhng
vùng có t l thiếu máu cao (trên 40,0%) vi mục đích cải thin nồng độ Hb,
ci thin tình trng d tr st thp và giảm nguy cơ thiếu máu [75].
Vic b sung sắt/acid folic trước khi thai được gợi ý như một chiến
c hoàn hảo đối vi ph n mang thai, PNTSĐ, ph n mi kết hôn các
khu vực nghèo đói các khu vực không xác định được các nguyên nhân
th gây thiếu máu [92]. Đây một vic làm cn thiết nhm gim tình trng
thiếu máu ngay t giai đọan mi bắt đầu mang thai [93]. Hơn thế, vic s
37 bổ sung sắt hàng ngày có sự gia tăng tỷ lệ các tác dụng phụ đường tiêu hóa (RR = 1,99; 95%CI: 1,26 – 3,12; 5 nghiên cứu; n = 521), tiêu chảy (RR = 2,13; 95%CI: 1,10 – 4,11; 6 nghiên cứu; n = 604); táo bón (RR = 2,07; 95%CI: 1,35 – 3,17; 8 nghiên cứu; n = 1.036), tuy nhiên không có sự gia tăng tỷ lệ đau bụng (RR = 1,55; 95%CI: 0,99 – 2,41; 7 nghiên cứu; n = 1.190) buồn nôn (RR = 1,19; 95%CI: 0,78 – 1,82; 8 nghiên cứu; n = 1.214) [90]. Kết quả từ 48 nghiên cứu cho thấy có sự khác biệt về nồng độ Hb giữa các nhóm nghiên cứu. Nồng độ Hb cao hơn ở nhóm phụ nữ được bổ sung sắt so với nhóm nhận giả dược, nhóm bổ sung không có sắt (sự khác biệt Hb trung bình là 5,61 g/l; 95%CI: 4,44 – 6,79; 48 thử nghiệm, n = 6.390). Không có bằng chứng về sự khác biệt hiệu quả giữa việc bổ sung sắt so với giả dược hoặc bổ sung không có sắt lên nồng độ Hb theo liều sắt được bổ sung (liều dưới 30mg, 31 – 60mg, 61 – 100mg, trên 100mg; p = 0,72) hoặc thời gian uống bổ sung (dưới 1 tháng, 1 – 3 tháng, trên 3 tháng; p > 0,05) [75]. Tổng quan gồm 25 nghiên cứu đã khẳng định rằng việc bổ sung sắt hàng tuần liên tục tuy cải thiện nồng độ Hb chỉ ở mức độ nhất định, nhưng lại có ít tác dụng phụ, an toàn, chính vì thế phác đồ này ngày càng được nhiều người áp dụng và rất có hiệu quả trong việc cải thiện tình trạng thiếu máu của bộ phận lớn người dân [91]. Bổ sung sắt/acid folic gián đoạn được khuyến cáo như là một can thiệp y tế cộng đồng cho phụ nữ có kinh nguyệt sống ở những vùng có tỷ lệ thiếu máu cao (trên 40,0%) với mục đích cải thiện nồng độ Hb, cải thiện tình trạng dự trữ sắt thấp và giảm nguy cơ thiếu máu [75]. Việc bổ sung sắt/acid folic trước khi có thai được gợi ý như một chiến lược hoàn hảo đối với phụ nữ mang thai, PNTSĐ, phụ nữ mới kết hôn ở các khu vực nghèo đói và các khu vực không xác định được các nguyên nhân có thể gây thiếu máu [92]. Đây là một việc làm cần thiết nhằm giảm tình trạng thiếu máu ngay từ giai đọan mới bắt đầu mang thai [93]. Hơn thế, việc sử
38
dụng các phác đồ này cũng ci thin tình trng d tr st và folat ca ph n
trước khi mang thai, phòng nga d tt ng thn kinh cho thai nhi trong quá
trình mang thai; giảm nguy cơ suy dinh dưỡng bào thai, t vong chu sinh cho
tr. Đng thi ci thin sc khỏe, năng suất lao động cho PNTSĐ [94].
1.3.2.2. Hiệu quả của các chương trình bổ sung viên sắt tại Việt Nam
Vit Nam, t năm 1989 tới nay đã có nhiều nghiên cu v th nghim
b sung viên st cho PNTSĐ vi liu b sung khác nhau.
Qua các nghiên cu với phác đồ b sung st hàng ngày cho thy vic b
sung viên sắt chưa được cộng đồng chp nhận như mong muốn. Nhn thc
chung của đối tượng v tác dng ca b sung sắt chưa đầy đủ: 64,2% bà m
ti thành ph H Chí Minh (Nơi đây đã triển khai chương trình phòng chống
thiếu máu quc gia) tr li rng không biết ung viên sắt để làm gì; 82,7% bà
m đưc phát viên st miễn phí nhưng chỉ có 49,6% bà m ung viên st [95].
Nghiên cu ca tác gi Nguyn Công Khn cng s v b sung
st/acid folic vi phác đồ 1 viên/1 tun, liên tc 16 tun trong năm, cho ph n
không có thai 15 35 tui ti 34 xã huyện Hương Sơn, Hà Tĩnh cho thấy t l
thiếu máu giảm đi rõ rệt sau 3 năm can thiệp (39,2% năm 1997 xuống 24,2%
năm 1999). Hàm lượng Hb tăng lên ý nghĩa thống kê; nhn thc thc
hành v phòng chng TMDD ca ph n cũng được ci thin; t l đối tượng
chp nhn s dng viên st và tuân th uống theo phác đ khá cao (93%) [96].
Nghiên cu can thip trên 129 ph n không mang thai t 15 29 tui ti
10 xã thuc huyn Thanh Min, Hải Dương nhằm đánh giá hiu qu ca phác
đồ b sung viên st hàng tuần để phòng chng thiếu máu cho thy: sau thi
gian 20 tun ung b sung viên st, t l d tr st thấp đã giảm t 35,2%
xung 11,6%; t l thiếu máu gim t 20,9% xung 8,8%; nồng độ Hb trung
bình và nồng độ Ferritin trung bình tăng có ý nghĩa thống kê (p < 0,05) [97].
38 dụng các phác đồ này cũng cải thiện tình trạng dự trữ sắt và folat của phụ nữ trước khi mang thai, phòng ngừa dị tật ống thần kinh cho thai nhi trong quá trình mang thai; giảm nguy cơ suy dinh dưỡng bào thai, tử vong chu sinh cho trẻ. Đồng thời cải thiện sức khỏe, năng suất lao động cho PNTSĐ [94]. 1.3.2.2. Hiệu quả của các chương trình bổ sung viên sắt tại Việt Nam Ở Việt Nam, từ năm 1989 tới nay đã có nhiều nghiên cứu về thử nghiệm bổ sung viên sắt cho PNTSĐ với liều bổ sung khác nhau. Qua các nghiên cứu với phác đồ bổ sung sắt hàng ngày cho thấy việc bổ sung viên sắt chưa được cộng đồng chấp nhận như mong muốn. Nhận thức chung của đối tượng về tác dụng của bổ sung sắt chưa đầy đủ: 64,2% bà mẹ tại thành phố Hồ Chí Minh (Nơi đây đã triển khai chương trình phòng chống thiếu máu quốc gia) trả lời rằng không biết uống viên sắt để làm gì; 82,7% bà mẹ được phát viên sắt miễn phí nhưng chỉ có 49,6% bà mẹ uống viên sắt [95]. Nghiên cứu của tác giả Nguyễn Công Khẩn và cộng sự về bổ sung sắt/acid folic với phác đồ 1 viên/1 tuần, liên tục 16 tuần trong năm, cho phụ nữ không có thai 15 – 35 tuổi tại 34 xã huyện Hương Sơn, Hà Tĩnh cho thấy tỷ lệ thiếu máu giảm đi rõ rệt sau 3 năm can thiệp (39,2% năm 1997 xuống 24,2% năm 1999). Hàm lượng Hb tăng lên có ý nghĩa thống kê; nhận thức và thực hành về phòng chống TMDD của phụ nữ cũng được cải thiện; tỷ lệ đối tượng chấp nhận sử dụng viên sắt và tuân thủ uống theo phác đồ khá cao (93%) [96]. Nghiên cứu can thiệp trên 129 phụ nữ không mang thai từ 15 – 29 tuổi tại 10 xã thuộc huyện Thanh Miện, Hải Dương nhằm đánh giá hiệu quả của phác đồ bổ sung viên sắt hàng tuần để phòng chống thiếu máu cho thấy: sau thời gian 20 tuần uống bổ sung viên sắt, tỷ lệ dự trữ sắt thấp đã giảm từ 35,2% xuống 11,6%; tỷ lệ thiếu máu giảm từ 20,9% xuống 8,8%; nồng độ Hb trung bình và nồng độ Ferritin trung bình tăng có ý nghĩa thống kê (p < 0,05) [97].