Luận án Tiến sĩ: Đánh giá hiệu quả giải pháp can thiệp bằng truyền thông giáo dục dinh dưỡng và bổ sung viên sắt trên phụ nữ độ tuổi 20 đến 35 tuổi người dân tộc Tày tại một số xã huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên
2,450
590
153
29
Năm 2008, Phạm Hoàng Hưng và cộng sự đã đánh giá hiệu quả của
truyền thông tích cực đến kiến thức, thái độ, thực hành đa dạng hóa bữa ăn ở
phụ nữ 20 – 35 tuổi và bà mẹ có con từ 6 – 24 tháng tuổi tại huyện Phong Điền,
Thừa Thiên Huế. Kết quả nghiên cứu cho thấy sự thay đổi có ý nghĩa thống kê
về kiến thức, thực hành đa dạng hóa bữa ăn ở PNTSĐ và bà mẹ có con nhỏ
cũng như cải thiện tình trạng thiếu máu của bà mẹ và trẻ em [67].
Với mục tiêu cải thiện kiến thức và thực hành trong việc phòng chống
TMDD năm 2011, Huỳnh Nam Phương và cộng sự đã tiến hành can thiệp
tiếp thị xã hội trong thời gian 6 tháng trên PNTSĐ người dân tộc Mường tại
Hòa Bình. Kết quả cho thấy chương trình tiếp thị đã mang lại hiệu quả cao cả
kiến thức, thực hành về bệnh thiếu máu và viên sắt ở PNTSĐ nơi đây đều
được cải thiện. Hiệu quả tiếp thị cải thiện kiến thức về thời điểm uống viên
sắt là 24,5%, tác dụng của viên sắt là 9,6%, biện pháp tăng cường hấp thu sắt
(ăn thêm rau, ăn thêm đạm) tương ứng là 2,9% và 5,1%. Tỷ lệ phụ nữ có thai
đã và đang uống viên sắt cao hơn nhóm chứng có ý nghĩa thống kê (92,4% và
89,9% so với 85,4% và 69,8%). Tỷ lệ uống viên sắt hàng ngày ở nhóm được
tiếp thị đã tăng từ 71,0% lên 91,6%. Khẩu phần phụ nữ có thai được cải thiện
rõ nét: Tăng tiêu thụ lương thực thực phẩm, đặc biệt là các thực phẩm giàu
dinh dưỡng, các chất dinh dưỡng cũng tăng đáng kể. Năng lượng khẩu phần,
Protid, Lipid, đã đáp ứng được nhu cầu khuyến nghị và cao hơn so nhóm đối
chứng [68].
Kết quả nghiên cứu của Hồ Thu Mai và cộng sự năm 2013 tại Hòa Bình
cho thấy bằng giải pháp TTGD phổ biến kiến thức về thiếu máu, vai trò của
những thực phẩm giàu sắt, cách tạo nguồn thực phẩm giàu sắt tại hộ gia đình
và tăng cường sử dụng viên sắt hàng ngày đã cải thiện đáng kể tình trạng dinh
dưỡng và thiếu máu ở PNTSĐ người dân tộc Mường nơi đây. Sự thay đổi có ý
nghĩa thống kê [34].
30
1.3. Hiệu quả các chương trình bổ sung viên sắt đối với việc cải thiện tình
trạng thiếu máu thiếu sắt ở phụ nữ tuổi sinh đẻ
1.3.1. Các giải pháp can thiệp để cải thiện tình trạng thiếu máu thiếu sắt ở
phụ nữ tuổi sinh đẻ trên thế giới và ở Việt Nam
* Can thiệp dựa vào thực phẩm kết hợp truyền thông giáo dục dinh dưỡng
Cải thiện tình trạng TMDD dựa vào thực phẩm là giải pháp cơ bản, dài
hạn và bền vững nhất. Giải pháp can thiệp này bao gồm các chiến lược cải
thiện tính sẵn có của thực phẩm giàu vi chất dinh dưỡng tại địa phương; đảm
bảo sự tiếp cận đối với những thực phẩm này của các hộ gia đình, đặc biệt
những hộ có nguy cơ cao; thay đổi thực hành dinh dưỡng với sự quan tâm tới
những thực phẩm giàu vi chất dinh dưỡng [37]. Lượng sắt từ khẩu phần được
hấp thu vào cơ thể lại phụ thuộc vào các chất tăng cường hay ức chế hấp thu
sắt. Vì vậy, đa dạng hóa bữa ăn để tăng cường hấp thu sắt từ khẩu phần là rất
cần thiết. Để thực hiện thành công giải pháp can thiệp dựa vào thực phẩm
trong phòng chống TMDD, đối tượng cần được TTGD để nâng cao kiến thức
về TMDD (Thiếu máu dinh dưỡng là gì? Những đối tượng có nguy cơ thiếu
máu cao? Nguyên nhân, hậu quả, biểu hiện của thiếu máu? Các biện pháp
phòng chống thiếu máu?) từ đó có nhận thức đúng đắn và dẫn đến thay đổi,
thực hiện những hành vi có lợi cho bản thân, gia đình và cho cộng đồng.
Mục đích của đa dạng hóa bữa ăn:
+ Tăng cường sử dụng các loại thực phẩm giàu sắt có giá trị sinh học cao
đó là các thức ăn có nguồn gốc động vật như: thịt bò, gan, tiết…. Bởi vì sắt có
trong những loại thực phẩm này là sắt hem nên có tỷ lệ hấp thu cao hơn sắt
không hem từ 2 – 3 lần và sự hấp thu ít bị ảnh hưởng bởi các yếu tố ức chế
hay cạnh tranh trong khẩu phần [42].
+ Tăng cường sử dụng các thực phẩm hỗ trợ hấp thu sắt: tăng cường tiêu
thụ các loại thực phẩm giàu vitamin C (ổi, bưởi, cam…), khuyến khích các
31
cách chế biến như nảy mầm, lên men (sữa chua, giá đỗ, dưa chua…). Vitamin
C trong khẩu phần là một trong những điều kiện thuận lợi thúc đẩy quá trình
hấp thu sắt bởi vì ở dạ dày ruột vitamin C hoạt động như một chất khử, có thể
giữ sắt dưới dạng ion sắt hóa trị II, giúp cho việc hấp thu sắt không hem ở
ruột non dễ dàng hơn do vitamin C hết hợp với sắt tạo thành một hợp chất sắt
chelate dễ dàng hòa tan hơn trong môi trường kiềm ở ruột non; ngoài ra
vitamin C còn giúp cho sắt di chuyển từ huyết tương đến gan để dự trữ dưới
dạng Ferritin cũng như giải phóng sắt từ Ferritin khi cần [37].
+ Hạn chế một số loại thực phẩm có chứa chất ức chế hấp thu sắt như:
phytate có trong lớp vỏ lụa của đậu đỗ, gạo, các loại ngũ cốc là một loại acid
sẽ kết hợp với sắt có trong khẩu phần từ đó gây cản trở sự hấp thu sắt; tanin từ
trà, cà phê là một loại polyphenol có tác dụng ức chế hấp thu sắt…
+ Cải thiện chế độ ăn: chế độ ăn cần cung cấp đầy đủ năng lượng, các
chất dinh dưỡng đặc biệt là sắt, vitamin C.
Như vậy, công tác TTGDDD đóng vai trò vô cùng quan trọng để thực
hiện chiến lược đa dạng hóa bữa ăn. Tuyên truyền cho người dân biết cách lựa
chọn được những thực phẩm giàu sắt, hạn chế sử dụng những thực phẩm có
chứa chất ức chế hấp thu sắt, hướng dẫn chế độ ăn uống hợp lý [69].
* Giải pháp tăng cường sắt vào thực phẩm
Tăng cường vi chất vào thực phẩm (trong đó có sắt) là đưa thêm các chất
dinh dưỡng vào thực phẩm nhằm duy trì hay cải thiện chất lượng dinh dưỡng
của thực phẩm. Đây là giải pháp đã được chứng minh có hiệu quả, tính bền
vững cao để thanh toán tình trạng thiếu vi chất dinh dưỡng ở cộng đồng vì có
thể đến được các đối tượng cần, nhất là người dân nghèo [70],[71].
Nhiều quốc gia đã thực hiện thành công chương trình tăng cường sắt
vào thực phẩm như ở Philippines tăng cường sắt vào gạo với hỗn hợp sắt
sulphat [72]. Tăng cường sắt vào bột mì trong khi xay ở Chi Lê; ở Venezuela
32
sắt fumarate được tăng cường vào lúa mạch hoặc ngô và được bảo quản trong
thời gian dài. Sắt EDTA được tăng cường thành công vào nước mắm ở Thái
Lan, bột cà ri ở Nam Phi, đường ở Guatemala [4]. Tăng cường sắt vào nước
tương ở Trung Quốc được thực hiện từ năm 2003 và cho đến nay sản phẩm
tăng cường này đã được cộng đồng chấp nhận [73].
* Giải pháp can thiệp dựa vào bổ sung viên sắt
Bổ sung sắt là một trong những chiến lược chính hiện nay để phòng
chống thiếu máu thiếu sắt ở nhiều nước trên thế giới đặc biệt là các nước
nghèo và đang phát triển. Giải pháp bổ sung sắt là một can thiệp không thể
thiếu ở những cộng đồng mà lượng sắt khẩu phần không thể đáp ứng được
nhu cầu sắt của các cá thể và thường được sử dụng để điều trị thiếu máu do
thiếu sắt. Giải pháp này cũng được xem như là biện pháp y tế công cộng trong
phòng chống thiếu máu thiếu sắt ở những cộng đồng có nguy cơ thiếu sắt và
thiếu máu thiếu sắt cao [74],[75].
Để chương trình bổ sung sắt thực hiện thành công, cần có những chính
sách hỗ trợ của các cấp, các ngành từ đó có được các tiêu chuẩn thực hành và
huy động nguồn lực để triển khai, cần lựa chọn loại sản phẩm bổ sung phù
hợp cả về chất lượng và giá thành để hấp dẫn người sử dụng đảm bảo độ bao
phủ và tính tuân thủ điều trị cao, cần xây dựng được chương trình vận hành có
hiệu quả, lồng ghép được chương trình với các dịch vụ y tế và các chương
trình y tế khác, phải xây dựng được chiến lược truyền thông và kế hoạch theo
dõi, giám sát và đánh giá một cách hệ thống, hiệu quả [76].
Sự tuân thủ điều trị của đối tượng là yếu tố đóng vai trò quan trọng tạo
nên sự thành công của chương trình. Việc uống thuốc không đầy đủ theo đơn
được kê do tác dụng phụ của thuốc làm ảnh hưởng đến hầu hết các chương
trình bổ sung sắt [77]. Vì vậy việc lựa chọn viên sắt phù hợp cho chương trình
can thiệp rất cần thiết. Loại viên sắt sử dụng có thể có giá thành đắt hơn
nhưng nếu làm giảm tác dụng phụ thì sẽ tăng sự tuân thủ phác đồ điều trị của
33
đối tượng đích và cuối cùng vẫn có lợi ích nhiều hơn xét về mặt kinh tế. Các
tác dụng phụ của viên sắt thường tăng theo liều sử dụng nhưng có thể giảm
nếu uống vào bữa ăn nhưng sẽ làm giảm hấp thu đến 40% [78].
WHO khuyến khích sử dụng phác đồ bổ sung sắt dự phòng cho những
đối tượng có nguy cơ thiếu máu thiếu sắt cao ở những cộng đồng có tỷ lệ
thiếu máu ≥ 40% [4],[75].
Bảng 1.1. Liều bổ sung sắt và axit folic để dự phòng thiếu máu dinh dưỡng
Đối tƣợng
Liều một ngày
Thời gian dùng
Phụ nữ có thai
60mg sắt + 400g
Folat/ngày
Từ khi biết mình có thai
tới sau khi sinh 1 tháng.
Uống hàng ngày.
Phụ nữ tuổi sinh đẻ
60mg sắt + 400g
Folat/ngày
Mỗi tuần 1 viên. Uống
trong 16 tuần liên tục.
Phụ nữ cho con bú
60mg sắt + 400g
Folat/ngày
3 tháng sau sinh
* Phòng chống nhiễm ký sinh trùng
Nhiễm giun móc là một trong những nguyên nhân chính gây thiếu máu thiếu
sắt ở cộng đồng. Thiếu máu có liên quan với cường độ nhiễm giun móc [79],[80].
Ở những cộng đồng có tỷ lệ nhiễm giun cao thì việc tẩy giun phải được
thực hiện cho tất cả những đối tượng bị thiếu máu nặng. Tẩy giun cho trẻ em
đi học mà không cần sàng lọc hiện nay cũng đã được khuyến nghị tại nhà
trường và tẩy giun phối hợp với bổ sung sắt được khuyến nghị cho phụ nữ
mang thai. Việc phối hợp này sẽ giúp tăng cường đáp ứng của Hb với sắt
được bổ sung. Menbendazone, Albendazone là các thuốc tẩy giun an toàn và
có thể dùng nhắc lại nhiều lần và có thể dùng cho phụ nữ có thai [4].
Tóm lại, chế độ ăn đa dạng và đảm bảo chất lượng có khả năng giải
quyết được phần lớn tình trạng thiếu vi chất dinh dưỡng nói chung và thiếu
sắt nói riêng. Tuy nhiên, việc cải thiện chế độ ăn ở người dân nghèo là khó
34
khăn, phức tạp và cần được tiến hành trong thời gian dài vì để chiến lược thực
hiện hiệu quả thì thu nhập của người dân phải tăng lên; đảm bảo được khả
năng tiếp cận với thực phẩm, các dịch vụ chăm sóc y tế và dinh dưỡng. Tuy
nhiên, trước mắt để giảm suy dinh dưỡng bào thai; cải thiện sức khoẻ, khả
năng học tập cũng như năng suất lao động cần tiến hành thực hiện những giải
pháp kỹ thuật ngắn hạn có chi phí thấp nhưng mang lại hiệu quả cao như bổ
sung viên sắt và tăng cường vi chất vào thực phẩm.
1.3.2. Hiệu quả của các chương trình bổ sung viên sắt đối với việc cải thiện
tình trạng thiếu máu thiếu sắt ở phụ nữ tuổi sinh đẻ
Dù thiếu máu là một vấn đề mang tính toàn cầu, nhưng cho đến nay hiệu
quả của các giải pháp can thiệp vẫn còn là một câu hỏi lớn đối với các nhà
khoa học vì không có một giải pháp chung nào có thể áp dụng cho các cộng
đồng khác nhau [18].
1.3.2.1. Hiệu quả của các chương trình bổ sung viên sắt trên thế giới
Đối với phụ nữ mang thai, sự thiếu hụt vi chất dinh dưỡng cũng có ảnh
hưởng giống như ở PNTSĐ. Để đáp ứng nhu cầu sắt trong thai kỳ, phụ nữ cần
lượng sắt dự trữ ít nhất 300 – 500mg trước khi mang thai, để không bị thiếu
sắt trong ba tháng mang thai đầu tiên. Nhiều phụ nữ ở các nước đang phát
triển có dự trữ sắt dưới mức này, do đó sẽ có nguy cơ bị thiếu sắt trong khi
mang thai. Ngay cả ở các nước phát triển, nhiều phụ nữ khi bước vào thời kì
mang thai cũng không có dự trữ sắt đầy đủ. Dựa trên tỷ lệ thụ thể Transferrin
/Ferritin huyết thanh, 56,0% phụ nữ không mang thai tại Hoa Kỳ có lượng sắt
dự trữ dưới 300mg và chỉ dưới 20,0% phụ nữ ở Đan Mạch được ước tính là
có đủ (>500mg) dự trữ sắt trước khi mang thai. Do đó, cách tiếp cận đầy hứa
hẹn là cải thiện sắt và tình trạng acid folic của phụ nữ trước khi mang thai,
bởi
vì thời kì này có nhiều thời gian để can thiệp; đồng thời cải thiện tình trạng
vi
chất dinh dưỡng dường như có tác dụng lớn nhất ở thời kì sớm của thai kì và
điều này quan trọng cho quá trình thụ thai [81],[82],[83],[84]. Đặc biệt đối với
axit folic, sự cung cấp đầy đủ axit folic có tác động mạnh đến việc giảm các
khuyết tật ống thần kinh ở trẻ sơ sinh [82],[85].
35
Tổng quan hệ thống 21 thử nghiệm được thực hiện trên 10.258 phụ nữ từ
15 quốc gia ở Châu Mỹ La Tinh, Châu Á, Châu Phi và Châu Âu cho thấy: Phụ
nữ được bổ sung sắt ngắt quãng qua đường uống (Chỉ uống sắt hoặc uống sắt
kết hợp với acid folic hoặc sắt kết hợp với các vi chất khác) có lượng Hb cao
hơn (sự khác biệt về Hb trung bình là 4,58 g/l; 95%CI: 2,56 – 6,59; 13 nghiên
cứu) và nồng độ Ferritin cũng cao hơn (sự khác biệt về Ferritin trung bình
8,32 μg/l; 95%CI: 4,97 – 11,66; 6 nghiên cứu), ít có nguy cơ thiếu máu hơn
(RR = 0,73; 95%CI: 0,56 – 0,95; 10 nghiên cứu) so với những phụ nữ không
được uống bổ sung hoặc chỉ được uống giả dược. So sánh với nhóm phụ nữ
được uống bổ sung sắt hàng ngày thì nhóm phụ nữ được bổ sung sắt ngắt
quãng có nguy cơ thiếu máu cao hơn (RR = 1,26; 95%CI: 1,04 – 1,51; 6
nghiên cứu) và có nồng độ Ferritin thấp hơn (sự khác biệt về Ferritin trung
bình: -11,32 μg/l; 95%CI: -22,61 đến -0.02; 3 nghiên cứu), tuy nhiên những
phụ nữ này có nồng độ Hb trung bình gần như tương đương nhau (sự khác
biệt về Hb trung bình: -0,15 g/l; 95%CI: -2,20 đến 1,91; 8 nghiên cứu).
Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về nguy cơ thiếu sắt (RR = 4,30;
95%CI: 0,56 – 33,2; 20 nghiên cứu) [86].
Nghiên cứu của Haidar năm 2003 với giải pháp bổ sung sắt theo phác đồ
hàng ngày và hàng tuần (l viên sắt chứa 60mg sắt nguyên tố + 400μg acid
folic) trên PNTSĐ ở Etiopia cho thấy tỷ lệ thiếu máu được cải thiện tương
đương ở hai phác đồ, giảm 5,3% (6,9% xuống 1,6%) ở phác đồ hàng ngày,
giảm 5,0% (từ 6,7% xuống 1,7%) ở phác đồ hàng tuần, ở phác đồ bổ sung sắt
hàng ngày cải thiện nồng độ Ferritin huyết thanh tốt hơn phác đồ bổ sung
hàng tuần tuy nhiên sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê. Phác đồ bổ sung
sắt hàng ngày gây ra nhiều tác dụng phụ hơn và mức độ tuân thủ thấp hơn so
với phác đồ bổ sung hàng tuần [87]. Đối với phụ nữ từ 15 tuổi trở lên, nếu
36
được bổ sung sắt hàng tuần 4 tháng/năm (60mg sắt nguyên tố/ngày) có thể
làm giảm tỷ lệ thiếu máu ở nhóm này xuống dưới 2,0%. Đây là một điều kiện
tốt để hạn chế thiếu máu khi có thai [88].
Với sự hỗ trợ của WHO, thử nghiệm hiệu quả của việc bổ sung sắt kết
hợp với axit folic cho PNTSĐ ở Campuchia, Việt Nam và Philippines. Viên
sắt bổ sung cung cấp 3,5mg axit folic và 60mg sắt nguyên tố cho phụ nữ
không mang thai và 120mg sắt kết hợp với 3,5mg axit folic cho phụ nữ mang
thai. Viên sắt được phát miễn phí cho phụ nữ mang thai, nhưng được bán cho
phụ nữ không mang thai thông qua một chương trình tiếp thị xã hội. Ở Việt
Nam, tỷ lệ thiếu máu giảm từ 45,0% lúc ban đầu xuống dưới 20,0% sau 9
tháng đến 1 năm can thiệp. Tỷ lệ thiếu sắt (nồng độ Ferritin <12µg/l) cũng
giảm đáng kể trong giai đoạn nghiên cứu. Kết quả nghiên cứu can thiệp này
chỉ ra rằng bổ sung sắt và axit folic có liên quan đến giảm tình trạng thiếu
máu và thiếu sắt trong ba tháng đầu và ba tháng giữa của thời kì mang thai.
Không có thiếu máu thiếu sắt trong ba tháng đầu và ba tháng giữa thai kì ở
phụ nữ bắt đầu uống bổ sung trên ba tháng trước khi thụ thai. Mặt khác, mặc
dù tỷ lệ thiếu máu tăng trong ba tháng cuối của thai kì, nhưng không có
trường hợp nào thiếu máu nghiêm trọng (nồng độ Hb < 95g/l) [89].
Tổng quan hệ thống từ 67 thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng với 8.506
PNTSĐ. Kết quả cho thấy những phụ nữ được uống sắt bổ sung hàng ngày
(có hoặc không kết hợp với axit folic hoặc vitamin C) có nguy cơ thiếu máu
thấp hơn (RR = 0,39; 95%CI: 0,25 – 0,60; 10 nghiên cứu, n = 3.273), có nồng
độ Hb cao hơn khi kết thúc can thiệp (nồng độ Hb tăng 5,3g/l; 95%CI: 4,14 –
6,45; 51 nghiên cứu, n = 6.861), có nguy cơ thiếu sắt thấp hơn (RR = 0,62;
95%CI: 0,50 – 0,76; 7 nghiên cứu, n = 1.088) nhóm phụ nữ không được uống
bổ sung hoặc dùng giả dược. Nghiên cứu cũng đưa ra bằng chứng về sự gia
tăng các tác dụng phụ của phác đồ bổ sung sắt hàng ngày. Những phụ nữ nhận
37
bổ sung sắt hàng ngày có sự gia tăng tỷ lệ các tác dụng phụ đường tiêu hóa
(RR = 1,99; 95%CI: 1,26 – 3,12; 5 nghiên cứu; n = 521), tiêu chảy (RR =
2,13; 95%CI: 1,10 – 4,11; 6 nghiên cứu; n = 604); táo bón (RR = 2,07;
95%CI: 1,35 – 3,17; 8 nghiên cứu; n = 1.036), tuy nhiên không có sự gia tăng
tỷ lệ đau bụng (RR = 1,55; 95%CI: 0,99 – 2,41; 7 nghiên cứu; n = 1.190) buồn
nôn (RR = 1,19; 95%CI: 0,78 – 1,82; 8 nghiên cứu; n = 1.214) [90].
Kết quả từ 48 nghiên cứu cho thấy có sự khác biệt về nồng độ Hb giữa
các nhóm nghiên cứu. Nồng độ Hb cao hơn ở nhóm phụ nữ được bổ sung sắt
so với nhóm nhận giả dược, nhóm bổ sung không có sắt (sự khác biệt Hb
trung bình là 5,61 g/l; 95%CI: 4,44 – 6,79; 48 thử nghiệm, n = 6.390). Không
có bằng chứng về sự khác biệt hiệu quả giữa việc bổ sung sắt so với giả dược
hoặc bổ sung không có sắt lên nồng độ Hb theo liều sắt được bổ sung (liều
dưới 30mg, 31 – 60mg, 61 – 100mg, trên 100mg; p = 0,72) hoặc thời gian
uống bổ sung (dưới 1 tháng, 1 – 3 tháng, trên 3 tháng; p > 0,05) [75].
Tổng quan gồm 25 nghiên cứu đã khẳng định rằng việc bổ sung sắt hàng
tuần liên tục tuy cải thiện nồng độ Hb chỉ ở mức độ nhất định, nhưng lại có ít
tác dụng phụ, an toàn, chính vì thế phác đồ này ngày càng được nhiều người
áp dụng và rất có hiệu quả trong việc cải thiện tình trạng thiếu máu của bộ
phận lớn người dân [91]. Bổ sung sắt/acid folic gián đoạn được khuyến cáo
như là một can thiệp y tế cộng đồng cho phụ nữ có kinh nguyệt sống ở những
vùng có tỷ lệ thiếu máu cao (trên 40,0%) với mục đích cải thiện nồng độ Hb,
cải thiện tình trạng dự trữ sắt thấp và giảm nguy cơ thiếu máu [75].
Việc bổ sung sắt/acid folic trước khi có thai được gợi ý như một chiến
lược hoàn hảo đối với phụ nữ mang thai, PNTSĐ, phụ nữ mới kết hôn ở các
khu vực nghèo đói và các khu vực không xác định được các nguyên nhân có
thể gây thiếu máu [92]. Đây là một việc làm cần thiết nhằm giảm tình trạng
thiếu máu ngay từ giai đọan mới bắt đầu mang thai [93]. Hơn thế, việc sử
38
dụng các phác đồ này cũng cải thiện tình trạng dự trữ sắt và folat của phụ nữ
trước khi mang thai, phòng ngừa dị tật ống thần kinh cho thai nhi trong quá
trình mang thai; giảm nguy cơ suy dinh dưỡng bào thai, tử vong chu sinh cho
trẻ. Đồng thời cải thiện sức khỏe, năng suất lao động cho PNTSĐ [94].
1.3.2.2. Hiệu quả của các chương trình bổ sung viên sắt tại Việt Nam
Ở Việt Nam, từ năm 1989 tới nay đã có nhiều nghiên cứu về thử nghiệm
bổ sung viên sắt cho PNTSĐ với liều bổ sung khác nhau.
Qua các nghiên cứu với phác đồ bổ sung sắt hàng ngày cho thấy việc bổ
sung viên sắt chưa được cộng đồng chấp nhận như mong muốn. Nhận thức
chung của đối tượng về tác dụng của bổ sung sắt chưa đầy đủ: 64,2% bà mẹ
tại thành phố Hồ Chí Minh (Nơi đây đã triển khai chương trình phòng chống
thiếu máu quốc gia) trả lời rằng không biết uống viên sắt để làm gì; 82,7% bà
mẹ được phát viên sắt miễn phí nhưng chỉ có 49,6% bà mẹ uống viên sắt [95].
Nghiên cứu của tác giả Nguyễn Công Khẩn và cộng sự về bổ sung
sắt/acid folic với phác đồ 1 viên/1 tuần, liên tục 16 tuần trong năm, cho phụ nữ
không có thai 15 – 35 tuổi tại 34 xã huyện Hương Sơn, Hà Tĩnh cho thấy tỷ lệ
thiếu máu giảm đi rõ rệt sau 3 năm can thiệp (39,2% năm 1997 xuống 24,2%
năm 1999). Hàm lượng Hb tăng lên có ý nghĩa thống kê; nhận thức và thực
hành về phòng chống TMDD của phụ nữ cũng được cải thiện; tỷ lệ đối tượng
chấp nhận sử dụng viên sắt và tuân thủ uống theo phác đồ khá cao (93%) [96].
Nghiên cứu can thiệp trên 129 phụ nữ không mang thai từ 15 – 29 tuổi tại
10 xã thuộc huyện Thanh Miện, Hải Dương nhằm đánh giá hiệu quả của phác
đồ bổ sung viên sắt hàng tuần để phòng chống thiếu máu cho thấy: sau thời
gian 20 tuần uống bổ sung viên sắt, tỷ lệ dự trữ sắt thấp đã giảm từ 35,2%
xuống 11,6%; tỷ lệ thiếu máu giảm từ 20,9% xuống 8,8%; nồng độ Hb trung
bình và nồng độ Ferritin trung bình tăng có ý nghĩa thống kê (p < 0,05) [97].