Luận án Tiến sĩ chuyên ngành Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật: Thực hiện pháp luật về kiểm soát thỏa thuận hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam hiện nay
6,715
972
182
25
kiểm soát TTHCCT. Các vấn đề lý luận về pháp luật kiểm soát TTHCCT như
khái niệm, đặc điểm, mục tiêu, vai trò, học thuyết đánh giá hợp pháp và bất hợp
pháp, các quy tắc pháp lý, chủ thể... cũng đã được các công trình nghiên cứu
trong và ngoài nước nghiên cứu khá nhiều, phong phú, đa dạng, các quan điểm
đưa ra cơ bản là thống nhất với nhau.
Vì thế nghiên cứu sinh tiếp thu những kết quả nghiên cứu này, lựa chọn
những luận thuyết liên quan để làm cơ sở nghiên cứu chuyên sâu về đề tài của
mình, không tiến hành nghiên cứu sâu thêm.
Thứ hai, nghiên cứu về pháp luật thực định khá phong phú. Các tổ chức như
Mạng lưới Cạnh tranh quốc tế (ICN) hay Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế
(OECD) có nhiều nghiên cứu, tổng kết, báo cáo về sự tiến bộ trong xây dựng
pháp luật cạnh tranh của các quốc gia trên thế giới. Với những kinh nghiệm và
thành tích trong xây dựng và tổ chức thực hiện pháp luật chống độc quyền, pháp
luật của Hoa Kỳ và EU được nhiều nhà nghiên cứu tập trung phân tích và bình
luận, bao gồm những nghiên cứu riêng pháp luật của EU hoặc Hoa Kỳ và những
nghiên cứu so sánh hai hệ thống pháp luật với nhau, từ những nghiên cứu đó đã
tìm ra rất nhiều tương đồng của hai hệ thống trong quá trình xây dựng và thực
hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT. Các nhà nghiên cứu cũng có mục đích
cùng đi đến thống nhất khái niệm, học thuyết... nhằm xây dựng cơ sở lý luận về
pháp luật kiểm soát TTHCCT. Tuy thế do tính phức tạp của vấn đề nghiên cứu,
các tranh luận xoay quanh xác định thế nào là "thỏa thuận", TTHCCT ngầm và
chứng cứ chứng minh, chủ thể của TTHCCT, TTHCCT hoàn toàn là phản cạnh
tranh hay có thể có ích lợi cho cạnh tranh vẫn chưa ngã ngũ.
Do đề tài nghiên cứu về thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT ở Việt
Nam nên nghiên cứu sinh chú trọng đến kinh nghiệm thực hiện pháp luật về
kiểm soát TTHCCT của EU và Hoa Kỳ để rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt
Nam, không bình luận về các vấn đề lý luận còn đang tranh luận.
Thứ ba, về pháp luật về kiểm soát TTHCCT Việt Nam và Luật Cạnh tranh
2004, cũng đã có một số công trình nghiên cứu với mục tiêu chung là đóng góp
các luận giải, đánh giá, định hướng góp phần hoàn thiện pháp luật. Trong những
26
công trình nghiên cứu đó nổi bật là tài liệu "Báo cáo rà soát các quy định của
Luật Cạnh tranh Việt Nam" [15].
Tuy những nghiên cứu trên đã phân tích và bình luận pháp luật về kiểm soát
TTHCCT Việt Nam dưới nhiều góc nhìn, nhưng vẫn chưa bao quát hết thực
trạng pháp luật về kiểm soát TTHCCT ở Việt Nam hiện nay, đặc biệt là chưa so
sánh với Luật Cạnh tranh (sửa đổi) 2018 sẽ có hiệu lực thi hành từ 01/7/2019.
Do đó nghiên cứu sinh kế thừa những kết quả nghiên cứu trên, hệ thống hóa các
vấn đề cần nghiên cứu sâu hơn và bổ sung những nội dung còn thiếu để hoàn
chỉnh về mặt lý luận và thực trạng pháp luật về kiểm soát TTHCCT Việt Nam.
Thứ tư, nghiên cứu thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT ở Việt Nam
khá ít, chỉ rải rác và nghiên cứu theo một vài lát cắt, không mang tính tổng
quát.
Có thể kể đến một luận văn Thạc sĩ nghiên cứu về áp dụng pháp luật trong công
tác giải quyết khiếu nại vụ việc hạn chế cạnh tranh, những nghiên cứu bình luận
một số khía cạnh của thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT ở Việt Nam qua
các vụ việc xử lý TTHCCT vi phạm pháp luật cụ thể, một luận án tiến sĩ kinh tế
nghiên cứu về hiệu quả thực thi pháp luật cạnh tranh ở Việt Nam nói chung và
đánh giá dưới góc độ hiệu quả của kinh tế học, không đi vào các hình thức thực
hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT.
Qua tổng quan tình hình nghiên cứu có thể khẳng định hiện chưa có công
trình nghiên cứu nào toàn diện về thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT ở
Việt Nam hiện nay dưới góc độ của chuyên ngành Lý luận và lịch sử về Nhà
nước và pháp luật. Có rất nhiều vấn đề về nội dung và hình thức thực hiện pháp
luật, về chủ thể… cần được tiếp tục nghiên cứu sâu sắc hơn.
1.2.2. Những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu, giả thuyết, câu hỏi nghiên cứu
1.2.2.1. Những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu
Về lý luận, luận án cần tiếp tục nghiên cứu, làm sáng tỏ:
- Khái niệm thống nhất về TTHCCT nêu lên được bản chất, đặc trưng của
một TTHCCT trên cơ sở kinh tế - pháp lý, các đặc điểm;
- Các vấn đề lý luận về vai trò và điều kiện bảo đảm thực hiện pháp luật về
kiểm soát TTHCCT;
27
- Tổng kết kinh nghiệm thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT của
nước ngoài và những giá trị tham khảo cho Việt Nam hiện nay;
Về thực tiễn, luận án cần tập trung làm rõ:
- Thực trạng pháp luật về kiểm soát TTHCCT, những kết quả và những bất
cập, thiếu sót đã tác động đến thực trạng thực hiện pháp luật.
- Thực trạng thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT ở Việt Nam. Những
thành tựu, hạn chế và nguyên nhân, những bài học kinh nghiệm trong việc thực
hiện
pháp luật về kiểm soát TTHCCT ở Việt Nam hiện nay.
Về giải pháp để giải quyết vấn đề: Từ việc phân tích cơ sở lý luận và thực
tiễn thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT ở Việt Nam hiện nay, xây dựng
luận cứ đề xuất các quan điểm và giải pháp bảo đảm cho việc thực hiện pháp luật
về kiểm soát TTHCCT.
1.2.2.2. Giả thuyết và câu hỏi nghiên cứu
- Giả thuyết nghiên cứu:
Trên cơ sở tổng quan tình hình nghiên cứu và căn cứ vào các lý thuyết có
liên quan đến chủ đề nghiên cứu, luận án đặt ra giả thuyết nghiên cứu như sau:
Thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT có vai trò quan trọng trong việc
bảo vệ cạnh tranh tự do và bình đẳng, góp phần bảo vệ môi trường kinh doanh
lành mạnh trong nền KTTT. Thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT ở Việt
Nam hiện nay tuy đã đạt được một số thành tựu nhưng vẫn còn rất nhiều hạn chế,
bất cập, vi phạm pháp luật về kiểm soát TTHCCT đã không còn "công khai" như
thời gian đầu Luật Cạnh tranh mới có hiệu lực, nhưng TTHCCT không giảm đi,
trái lại tăng về số lượng và hành vi được che dấu một cách tinh vi dưới nhiều
hình thức khác nhau ảnh hưởng đến môi trường kinh doanh. Cần nâng cao nhận
thức của cơ quan nhà nước, doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp và toàn xã hội,
hoàn thiện hệ thống pháp luật về kiểm soát TTHCCT, tăng thẩm quyền của cơ
quan quản lý cạnh tranh và nâng cao trình độ của điều tra viên vụ việc hạn chế
cạnh tranh để bảo đảm thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT ở Việt Nam
hiện nay.
- Câu hỏi nghiên cứu:
Luận án hướng tới việc trả lời các câu hỏi nghiên cứu như sau:
28
Thế nào là TTHCCT và thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT? Nội
dung, hình thức và chủ thể thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT? Vai trò
và các điều kiện bảo đảm thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT?
Thực trạng thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT ở Việt Nam hiện
nay? Những hạn chế, bất cập và các nguyên nhân của hạn chế, bất cập đó?
Những quan điểm và giải pháp nào cần đặt ra nhằm bảo đảm thực hiện pháp
luật về kiểm soát TTHCCT ở Việt Nam hiện nay?
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Trong chương này luận án đã tiến hành tổng quan các công trình nghiên
cứu trên các sách, báo, tạp chí, đề tài khoa học cấp nhà nước, cấp bộ, các luận
văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ, các hội thảo khoa học, bài viết của các tác giả
trong và
ngoài nước về những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến đề tài "Thực hiện
pháp luật về kiểm soát thỏa thuận hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam hiện nay".
Các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài được chia thành các nhóm chính:
- Những công trình nghiên cứu về TTHCCT.
- Những công trình nghiên cứu về pháp luật về kiểm soát TTHCCT.
- Những công trình nghiên cứu liên quan tới lý thuyết và thực tiễn thực hiện
pháp luật về kiểm soát TTHCCT trong nước và quốc tế.
Các công trình theo những nhóm trên, có công trình nghiên cứu khái quát,
có công trình nghiên cứu chi tiết, cụ thể và dựa trên đánh giá tổng quan về kết
quả nghiên cứu, tác giả nêu lên những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu trong luận
án trên các phương diện lý luận thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT, phân
tích đánh giá thực trạng và đề xuất các quan điểm, giải pháp thực hiện pháp luật
về kiểm soát TTHCCT ở Việt Nam hiện nay.
Tổng quan các công trình nghiên cứu có liên quan tới đề tài, đánh giá kết
quả đạt được, những kết quả mà luận án kế thừa, chỉ ra được những vấn đề cần
tiếp tục nghiên cứu của luận án là vô cùng quan trọng. Thông qua đó, luận án
xác định cụ thể phạm vi nghiên cứu, đặt ra các giả thuyết nghiên cứu, những câu
hỏi nghiên cứu cụ thể để tiếp tục giải quyết vấn đề, để từ đó nghiên cứu có hệ
thống, toàn diện về thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT ở Việt Nam hiện
nay ở cấp độ luận án tiến sỹ.
29
Chương 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
VỀ KIỂM SOÁT THỎA THUẬN HẠN CHẾ CẠNH TRANH
2.1. KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ
KIỂM SOÁT THỎA THUẬN HẠN CHẾ CẠNH TRANH
2.1.1. Khái niệm thực hiện pháp luật về kiểm soát thỏa thuận hạn chế
cạnh tranh
Để xây dựng khái niệm thực hiện pháp luật về kiểm soát thỏa thuận hạn chế
cạnh tranh cần phải làm rõ thế nào là TTHCCT, kiểm soát TTHCCT, pháp luật
về kiểm soát TTHCCT và thực hiện pháp luật.
2.1.1.1. Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh hình thành và phát triển trong nền KTTT, từ
thế kỷ 17, nhà kinh tế học nổi tiếng Adam Smith nhận định rằng những người
cùng kinh doanh một ngành hàng hiếm khi gặp nhau, thậm chí chỉ để giải trí và
tiêu khiển, nhưng đã trò chuyện với nhau thì kết quả sẽ là một sự thông đồng bất
lợi cho công chúng, hoặc một mưu kế nào đó để tăng giá [77]. Nhận định này
được xem là nền tảng để hình thành nên các khái niệm, quan điểm, lý thuyết về
TTHCCT sau này [79] và đã nêu lên những dấu hiệu đặc thù của một TTHCCT:
Là hành vi thông đồng, của các đối thủ cạnh tranh và hành vi đó sẽ gây ra thiệt
hại cho khách hàng, cho xã hội.
Sau đó đã có rất nhiều lý thuyết bổ sung cho khái niệm TTHCCT như
George Stigler "với bài viết kinh điển của mình về Lý thuyết TTHCCT hiện đại
năm 1964" [98, tr.22], xác định điểm khởi đầu và đích đến của các đối thủ cạnh
tranh khi tham gia TTHCCT là để tránh những tổn thất do cạnh tranh gây ra và
tối đa hóa lợi nhuận kinh doanh..." Từ đó, một hệ thống lý thuyết về TTHCCT
đã được xây dựng và phát triển trên nền tảng này" [86, tr.446], như
Với mục đích thống nhất các khái niệm cơ bản của kinh tế vi mô hiện đại, Tổ
chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) đã xây dựng Từ điển về Kinh tế học
công nghiệp và Pháp luật cạnh tranh vào năm 1993, trong đó định nghĩa rằng:
30
Một TTHCCT là một hình thức thỏa thuận giữa các chủ thể kinh
doanh trong một ngành độc quyền nhóm. Thành viên TTHCCT có thể
thoả thuận về những vấn đề như giá cả, tổng sản lượng ngành, phân chia
thị trường, phân bổ khách hàng, phân bổ các vùng lãnh thổ, thông thầu,
thiết lập các đại lý thương mại và phân chia lợi nhuận hoặc kết hợp
những việc này... Thỏa thuận được hình thành vì lợi ích chung của các
thành viên... Nói chung, TTHCCT hay hành vi TTHCCT là nỗ lực đi
đến trạng thái độc quyền bằng cách hạn chế sản lượng trong ngành,
nâng cao hoặc ấn định giá để kiếm được lợi nhuận cao hơn [110, tr.18].
Định nghĩa này có thể được xem là tiếp nối, tổng hợp được những khái
niệm từ trước về TTHCCT, và trên cơ sở kế thừa và phát triển, đã mở rộng các
dấu hiệu đặc thù của TTHCCT: Thứ nhất, chủ thể tham gia là các đối thủ cạnh
tranh; thứ hai, hành vi thực hiện là hành vi TTHCCT - "đề cập đến một sự dàn
xếp công khai hoặc ngầm giữa các chủ thể kinh doanh vốn là các đối thủ cạnh
tranh với nhau để cùng có lợi của họ" [62, tr.11]; thứ ba, nội dung là thoả
thuận
về những vấn đề như giá cả, tổng sản lượng ngành, phân chia thị trường, phân bổ
khách hàng, phân bổ các vùng lãnh thổ, thông thầu, thiết lập các đại lý thương
mại và phân chia lợi nhuận hoặc kết hợp những việc này; thứ tư, mục đích thực
hiện là vì lợi ích chung của những thành viên tham gia và thứ năm, hậu quả
trước mắt là hạn chế sản lượng, nâng giá... và cuối cùng là độc quyền hóa.
Cũng có nội dung tương đồng với định nghĩa của OECD, Từ điển Bách
khoa về Kinh tế nhấn mạnh thêm về hình thức một TTHCCT, có thể là một văn
bản thỏa thuận rõ ràng, công khai để phối hợp giá cả, một sự ngầm hiểu bất
thành văn để hạn chế cạnh tranh, hoặc chỉ đơn giản là một sự chấp nhận lẫn nhau
rằng tốt hơn là kiềm chế cạnh tranh và ổn định giá cả [84]. Định nghĩa của Từ
điển cho ta thấy TTHCCT có thể tồn tại dưới rất nhiều hình thức khác nhau, kể
cả thành văn, bất thành văn, công khai ý chí hay ngầm hiểu hoặc có khi là một sự
phối hợp ăn ý cùng hành động.
Các nhà lý luận của Việt Nam cũng đã tiếp cận TTHCCT từ góc độ kinh tế
học và luật học, qua đó TTHCCT mang các dấu hiệu sau: Thứ nhất, về chủ thể,
31
TTHCCT diễn ra giữa các doanh nghiệp là đối thủ cạnh tranh của nhau; thứ hai,
hình thức của thỏa thuận là sự thống nhất cùng hành động giữa các doanh nghiệp,
có thể công khai hoặc không công khai; thứ ba, nội dung của TTHCCT thường tập
trung vào các yếu tố cơ bản của quan hệ thị trường mà các doanh nghiệp đang cạnh
tranh nhau như giá, thị trường, trình độ kỹ thuật công nghệ, điều kiện ký kết
hợp
đồng và nội dung hợp đồng; thứ tư, hậu quả là làm giảm, làm sai lệch và cản trở
cạnh tranh trên thị trường [73, tr.267-269]. Tuy nhiên, điểm cần lưu ý ở đây là
"sự
thống nhất cùng hành động giữa các doanh nghiệp, có thể công khai hoặc không
công khai" thực chất là dấu hiệu của "hành vi TTHCCT" chứ không hẳn là dấu hiệu
"hình thức TTHCCT". Hành vi TTHCCT là hành vi thống nhất ý chí với nhau, sự
thống nhất cùng hành động hoặc cùng không hành động, các hành động phối hợp
hay hành vi ăn ý với nhau là kết quả của sự thống nhất ý chí đó, còn TTHCCT "có
thể tồn tại dưới hình thức chính thức công khai, và các điều khoản và điều kiện
được viết ra một cách rõ ràng; hoặc chúng có thể tiềm ẩn, tuy thế chúng vẫn được
hiểu và tuân theo giữa các thành viên khác nhau bởi sự quy ước" [110, tr.11].
Theo Giáo trình Luật Thương mại của Đại học Luật Hà Nội thì:
Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh (Các-ten) là hành vi cấu kết giữa hai hay
nhiều doanh nghiệp để thủ tiêu sự cạnh tranh giữa chúng và ngăn cản sự
tham gia thị trường của các đối thủ cạnh tranh khác cũng như sự nhập cuộc
của các doanh nghiệp tiềm năng. Về hình thức, Các-ten có thể được hình
thành thông qua các hợp đồng, các nghị quyết, các thỏa thuận ngầm giữa
các doanh nghiệp. Hiện nay, thông thường các Các-ten được thể hiện dưới
dạng thỏa thuận ngầm để tránh bị phát hiện và sự trừng phạt của pháp luật.
Thỏa thuận nhằm hạn chế cạnh tranh có thể hình thành theo chiều ngang
hoặc chiều dọc của các quy trình kinh doanh [30, tr.336].
Định nghĩa này cho rằng TTHCCT là các-ten, nhưng thực chất các-ten là
thuật ngữ của kinh tế học để chỉ các thỏa thuận theo chiều ngang, là "thỏa thuận
giữa các chủ thể kinh doanh trong cùng ngành hàng và cùng khâu của quá trình
kinh doanh (ví dụ: thỏa thuận giữa các nhà sản xuất, những người bán buôn với
nhau, giữa những người bán lẻ với nhau)" [15, tr.6], khác với những "thỏa thuận
32
theo chiều dọc (vertical agreement/vertical restraints) là thỏa thuận hợp tác
giữa
hai hoặc nhiều doanh nghiệp hoạt động ở những khâu khác nhau trong quá trình
sản xuất, hoặc phân phối trên thị trường" [15, tr.11].
Nhìn chung, dù chỉ đưa ra một nhận định như: "Hành vi phối hợp của người
mua hoặc người bán mà với mục tiêu chính là tăng hoặc duy trì sức mạnh thị
trường của họ được gọi là thông đồng trong kinh tế học và là TTHCCT theo
pháp luật cạnh tranh của hầu hết các nước công nghiệp hiện đại" [102, tr.54] hay
xây dựng thành các định nghĩa một cách chi tiết, tổng quát lại có thể thấy một
TTHCCT (các-ten) bao gồm các dấu hiệu đặc thù sau: Thứ nhất, chủ thể tham
gia TTHCCT là các doanh nghiệp kinh doanh trên cùng một thị trường liên quan,
nói cách khác, đó là các đối thủ cạnh tranh của nhau trên thị trường; thứ hai,
hành vi thực hiện là hành vi dàn xếp, thông đồng để đi đến sự thống nhất cùng
hành động/cùng không hành động giữa các bên tham gia thỏa thuận; thứ ba, nội
dung thoả thuận là các vấn đề về giá cả, tổng sản lượng ngành, phân chia thị
trường, phân bổ khách hàng, phân bổ các vùng lãnh thổ, thông thầu, thiết lập các
đại lý thương mại và phân chia lợi nhuận hoặc kết hợp những việc này để đạt
được lợi ích chung cho các thành viên tham gia; thứ tư, hình thức của TTHCCT
có thể là văn bản, lời nói hoặc thậm chí là những cử chỉ thể hiện sự đồng thuận
lẫn nhau; thứ năm, TTHCCT luôn có khả năng làm giảm, làm sai lệch, làm hạn
chế, làm triệt tiêu cạnh tranh trên thị trường.
Từ những phân tích trên có thể kết luận, Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
(các-ten) là sự thống nhất ý chí được thể hiện công khai hoặc ngầm dưới bất kỳ
hình thức nào giữa các đối thủ cạnh tranh về những vấn đề như giá cả, sản
lượng, phân chia thị trường, khách hàng, đấu thầu... nhằm hạn chế hoặc loại bỏ
cạnh tranh giữa các thành viên tham gia thỏa thuận với mục đích tối đa hóa lợi
nhuận của họ, có tác động làm giảm, làm sai lệch, làm cản trở hoặc thủ tiêu
cạnh tranh trên thị trường.
2.1.1.2. Kiểm soát thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
Kinh tế thị trường là kiểu tổ chức nền kinh tế dựa trên các nguyên tắc và
tuân thủ những quy luật của thị trường. Xây dựng và phát triển nền KTTT đòi
33
hỏi phải coi trọng và tuân thủ các quy luật vận động, điều tiết của thị trường,
tôn
trọng tự do cạnh tranh, tự do hợp tác, tự do tham gia và rút khỏi thị trường…
Các nhà nước trong nền KTTT đều phải bảo hộ cạnh tranh như là một quy luật
kinh tế tất yếu để thị trường tồn tại và phát triển, và tạo điều kiện cho các
chủ thể
kinh doanh cạnh tranh trong khuôn khổ trật tự mà nhà nước định ra. Khi bảo vệ
cạnh tranh, các lợi ích mà cạnh tranh mang lại không chỉ giới hạn ở việc duy trì
giá cả cận biên có lợi cho người tiêu dùng, mà còn ở chỗ tạo ra một môi trường
kinh doanh có hiệu quả để gia nhập và phát triển trong khi đó thúc ép các doanh
nghiệp đã có mặt trên thị trường phải tiếp tục cải thiện công việc kinh doanh
tốt
hơn, "tăng cường cạnh tranh ở Anh đã được được coi là một yếu tố quan trọng
trong việc giải thích thu hẹp trong khoảng cách về năng suất sản xuất giữa Anh
và Đức" [108], vì thế nhà nước chỉ cần tôn trọng và bảo vệ cạnh tranh đúng đắn
trên thị trường, lợi ích của người tiêu dùng, nhà sản xuất, khách hàng trung
gian,
công nhân... đều sẽ được bảo đảm.
Cạnh tranh là động lực của phát triển trong nền KTTT, trong khi những
hành vi như TTHCCT sẽ làm hạn chế, sai lệch thậm chí triệt tiêu cạnh tranh trên
thị trường, dẫn đến độc quyền hóa nền kinh tế. Do đó, "bàn tay hữu hình" của
nhà nước cần được thể hiện qua vai trò định hướng, xây dựng và hoàn thiện thể
chế kinh tế, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và lành mạnh và
"sử dụng các công cụ, chính sách và các nguồn lực của Nhà nước để định hướng
và điều tiết kinh tế, thúc đẩy sản xuất kinh doanh và bảo vệ môi trường; thực
hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển" [29,
tr.25-26], trong đó pháp luật là "công cụ chính" [38, tr.361]. Sự can thiệp của
nhà nước là cần thiết nhưng ở mức độ nào là điều mà các nhà nước phải quan
tâm để vẫn tôn trọng quyền thiết lập các thỏa thuận của các chủ thể kinh doanh
mà vẫn đảm bảo loại trừ được những thỏa thuận làm phương hại đến cạnh tranh
trên trị trường. Ngoài ra, về bản chất kinh tế một TTHCCT luôn gây tác động
hạn chế cạnh tranh trên thị trường, nhưng cũng có trường hợp những thỏa thuận
giữa các đối thủ cạnh tranh về nghiên cứu, phát triển sản phẩm chung (R&D),
34
thỏa thuận hợp tác giữa các đối thủ cạnh tranh trong việc bán, phân phối và
quảng
bá sản phẩm, thống nhất về điều kiện kinh doanh, cung ứng, thanh toán... tuy vẫn
làm hạn chế cạnh tranh nhưng lại có thể góp phần thúc đẩy các tiến bộ kỹ thuật,
công nghệ, tăng hiệu quả kinh tế, năng động hóa thị trường... lợi ích mang lại
lớn
hơn mức gây bất lợi mà các nhà nước cũng luôn cân nhắc cấm hay không.
Do đó, đối với TTHCCT, nhà nước cần can thiệp để điều chỉnh hành vi của
các doanh nghiệp, cấm những hành vi gây nguy hại cho thị trường tự nhiên và
trừng phạt những chủ thể vi phạm nhưng đồng thời cũng vẫn bảo vệ được quyền
thiết lập thỏa thuận của doanh nghiệp cũng như có thể cho phép các TTHCCT
mang lại lợi ích cho nền kinh tế tồn tại. Việc cấm, cho phép, miễn trừ... đều
thể
hiện vai trò của nhà nước trong nền KTTT và nhằm thực hiện chức năng kiểm
soát hành vi TTHCCT của nhà nước.
Theo Đại từ điển tiếng Việt, kiểm soát là "kiểm tra, xem xét nhằm ngăn
ngừa những sai phạm các quy định, hoặc đặt trong phạm vi, quyền hành và trách
nhiệm" [76, tr.842], trên cơ sở khái niệm kiểm soát trên, có thể hình dung: Kiểm
soát TTHCCT là nhà nước sử dụng các công cụ như pháp luật, chính sách, kế
hoạch, công cụ kinh tế… để định hướng hành vi TTHCCT của các chủ thể, đặt
các chủ thể trong phạm vi, quyền hành và trách nhiệm, kiểm tra việc thực hiện
trong thực tiễn, xác định và xử lý hành vi vi phạm đồng thời tiến hành các điều
chỉnh nhằm đạt được mục tiêu bảo vệ cạnh tranh trong nền KTTT. Như vậy
kiểm soát TTHCCT mà nhà nước tiến hành không chỉ có cấm đoán mà còn có
định hướng, cho phép, không chỉ dành cho những TTHCCT đã xảy ra và đã kết
thúc mà còn là cho những TTHCCT đang và sắp diễn ra (chẳng hạn cho những
trường hợp đăng ký miễn trừ). Những yếu tố tác động chính đến hiệu quả kiểm
soát, đó là nhận thức và thái độ của các chủ thể và phương pháp, cách thức được
thực hiện để kiểm soát TTHCCT.
2.1.1.3. Pháp luật về kiểm soát thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
Pháp luật là một trong những công cụ cơ bản được nhà nước ssử dụng để
kiểm soát TTHCCT, các quốc gia có nền KTTT phát triển đều xác định mục tiêu
cơ bản của pháp luật về kiểm soát TTHCCT là bảo vệ tự do kinh tế và đảm bảo