Luận án Thạc sĩ Giáo dục học: Tìm hiểu tư tưởng giáo dục của Khổng Tử
7,032
788
101
73
Ông khen Nhan Uyên, Mẩn Tử Khiên, Nhiễm Bá Ngƣu, Trọng Cung là những ngƣời
đức hạnh; có tài ăn nói là Tễ Ngã, Tử cống; có tài chính trị là: Nhiễm Hữu, Qúy
Lộ; có tài
văn học là: Tử Du, Tử Hạ
Ông lại khen Mẫn Tử Khiêm là có hiếu (LN XI, 4), là ít nói nhƣng hễ nói là trúng
(LN XI - 13).
Xét chung thì ngƣời nào cũng có điểm để Ông khen. Khi Quý Khƣơng Tử hỏi Ông:
"Trọng Do (tức Tử Lộ) là người có thể là chính trị được không?" Ông đáp: "Do là
người quả
quyết, Dự viêc chính trị sao lại không được?!"
Lại hỏi về Tử Cống, về Nhiễm Hữu, ông liền đáp: "Được hết. Vi Tử Cống thông hiểu
đạo lý, còn Nhiễm Hữu có tài nghệ "(LN, VI, 6)
Ông công nhận mọi ngƣời đều có sở trƣờng riêng: Tử Lộ có thể điều khiển quân đội
ở
một nƣớc có ngàn cổ xe. Nhiễm Hữu có thể làm quan cho một ấp có ngàn nhà, hoặc
một
nƣớc có trăm cỗ xe. Tử Hoa có thể mặc lễ phục đứng ở triều đình mà tiếp tân
khách. (LN. V,
7). Thậm chí ông nhận ra sở trƣờng của họ có thể hơn ông nữa. Theo "Khổng tử thế
gia", một
hôm Tử Hạ hỏi Khổng tử về Nhan Hồi, Tử Cống, Tử Lộ. Tử Trƣơng, ông đáp: Nhan Hồi
có
đức tin hơn ông, Tử Cống nhanh hơn ông, Tử Lộ dũng cảm hơn ông, Tử Trƣơng trang
nghiêm hơn ông.... đến nỗi Tử Hạ ngạc nhiên đứng lên hỏi:
- Thế thì tại sao bốn anh ấy còn phải đến đây học với thầy?
Khổng tử ôn tồn giải thích:
- Ngồi xuống đó. ta bảo cho mà nghe: Hồi biết tin mà không biết nghĩ ngƣợc lại;
Tử
(tức Tử cống) biết nhanh mà không biết chậm; Do (Tử Lộ) có dũng mà không biết có
lúc nên
nhát; Sƣ (Tử Trƣơng) trang nghiêm mà không biết ung dung để hòa với mọi ngƣời.
Nghĩa là ngƣời nào cũng có sở trƣờng, đồng thời cũng có sở đoản. Sở trƣờng ở đâu
thì
sở đoản ở đó.
74
Đối với sở trƣờng, ông khen. Đối với sở đoản ông chê:
"Tử Cao thì kém học thức; Tăng Sâm thì chậm chạp, thật thà; Tử Trương hay chưng
diện; Tử Lộ thì thô, không nhã" (LN, XI, 17).
Đúng vậy, Tử Lộ quả là cƣơng trực, thẳng thắng đến thô lỗ, không ý tứ, đôi khi
vô lễ.
Không một học trò nào trực ngôn với Khổng tử nhƣ Tử Lộ. Chắc Khổng tử hiểu nhƣ
vậy là vì
Tử Lộ yêu quý ông lắm. Cho nên Khổng tử cũng mến Tử Lộ, khen Tử Lộ là ngƣời có
nhiệt
tâm, trung tín, hễ hứa với ai điều gì thì làm ngay, không chần chừ (LN. XII,
12). Có lần ông
nói đùa với Tử Lộ: "Đạo của thầy mà không thi hành được, thầy sẽ thả cái bè,
lênh đênh trên
mặt biển; lúc đó theo ta có lẽ chỉ có anh Do" (Tử Lộ)!
Tử Lộ tƣởng thật, mừng lắm! Khổng tử phải nói thêm: "Anh dũng cảm hơn ta, nhưng
thiếu óc phán đoán" (LN.V,6).
Nhƣ vậy là vừa khen vừa chê! Cốt để đối tƣợng càng ngày càng tiến bộ hơn. Khi
khen
ai, Khổng tử không chỉ căn cứ vào hiện tƣợng bên ngoài mà còn biết căn cứ vào
bản chất bên
trong của ngƣời ấy, không để cho hiện tƣợng che lấp đánh lừa! Khổng tử khen Công
Dã
Tràng (họ Công Dã, tên Tràng, tự là Tử Tràng, học trò Khổng tử) rằng: "Có thể gả
con gái
cho trò ấy. Tuy bị tù, nhưng không phải tội của anh ta" Rồi đem con gái gả cho
Công Dã
Tràng. (LN. V, 1)
Và khi cần Khổng tử cũng chê đến nơi đến chốn, cốt để đối tƣợng nhận thức đƣợc
vấn
đề. Tể Dƣ ngủ ngày . Khổng tử bảo: "gỗ mục không thể chạm khắc được, vách bằng
đất khô
không thể trát được! Đối với trò Dư, còn trách làm gì!?" (LN. V, 9).
Đặc biệt hơn, khi cần thiết, Khổng tử còn hô hào cả tập thể lên tiếng, nhằm tạo
ra dƣ
luận thích hợp cho sự giáo dục. Trƣờng hợp sau đƣợc ghi trong Luận ngữ là một
thí dụ minh
chứng cho biện pháp trách phạt này: Họ Quý giàu hơn ông Chu Công, thế mà Cầu
(Nhiễm
Hữu, làm gia thần cho họ Quý) còn thu
75
thuế bóp chẹt dân, làm giàu thêm cho họ Quý. Thấy vậy, Khổng tử nói: "nó không
còn là
môn đồ của ta nũa! Các con hãy nổi trống lên mà công kích nó đi!'( LN. XI, 16).
Phảỉ xuất phát từ tấm lòng yêu thƣơng Nhiễm Hữu, nói riêng, học trò nói chung,
thì
Khổng tử mới kêu gọi công kích anh ta nhƣ vậy. Quả là: "Vì chƣng hay ghét cũng
là hay
thƣơng" (Nguyễn Đình Chiểu)! Tự nhiên nhớ một nhận định của Sukhomlinski, nhà
giáo dục
đã "hiến dâng cả trái tim mình cho trẻ":
"Nếu như nhà giáo dục trong nhiều vấn đề thân thiết và gần gũi với trẻ em và
thanh
thiếu niên, cần phải mãi mãi ở một mức độ nào đó giữ cho mình vẫn cứ là một đứa
trẻ, một
thiếu niên và một thanh niên non nớt, thì đứng ở hàng đầu trong những vấn đề đó
phải là khả
năng biết ngạc nhiên - trong nhận thức thế giới nói chung; khả năng biết tức
giận
(1)
trong rèn
luyện đạo đức (...) Hãy nhớ rằng nếu như bạn không có khả năng thứ hai thì cuối
cùng bạn
có thể có một khả năng khác: cung cấp bài học về sự thờ ơ bằng tấm gương của
chính mình!"
[27, 119]
10). Dùng hình tượng, ẩn dụ để dẫn dắt.
Hình tƣợng mà Khổng tử thƣờng nêu lên nhƣ tấm gƣơng sáng cho học trò noi theo,
mà bài này đã đề cập đến trong nguyên tắc gƣơng mẫu, là hình tƣợng Nghiêu Thuấn.
Thật vậy, Nghiêu Thuấn là hai nhân vật trong truyền thuyết lịch sử Trung Hoa cổ
đại
đã trở thành hình tƣợng giáo dục có sức cảm hóa lớn đối với học trò Khổng tử.
Chỉ cần nói
đến Nghiêu Thuấn là ngƣời ta liên tƣởng ngay tới những bậc minh quân, thánh đế,
biết yêu
nhân dân hơn yêu ngai vàng, biết
(1)
Ngƣời viết nhấn mạnh.
76
truyền ngôi cho ngƣời hiền tài (truyền hiền) thay vì truyền ngôi cho con (truyền
tử). Bên cạnh
Nghiêu Thuấn còn có Vũ, Văn cũng là những hình tƣợng có sức cảm hóa lớn, và do
đó có sức
thuyết phục cao một cách tự thân. Bản thân những hình tƣợng này cùng với những
hình
tƣợng "người nhân", "người quân tử" đã trở thành phƣơng pháp giáo dục, phƣơng
pháp hình
tƣợng hóa, điển hình hóa, tức là phƣơng pháp dạy bằng gƣơng truyện! Phƣơng pháp
này tỏ ra
có hiệu lực gấp mấy lần phƣơng pháp trừu tƣợng của Platon hay Aristote. W.Durant
cho rằng
quyển "Cuộc đời của những nhân vật lỗi lạc" của Plutarque có hiệu quả giáo dục
lớn vƣợt xa
hơn những sách triết lý trừu tƣợng rất nhiều, cũng là nhờ phƣơng pháp gƣơng
truyện cụ thể
này. Điều này đƣợc chứng minh bằng sức hấp dẫn, lôi cuốn ngƣời đọc của những
sách thuộc
loại "gương phấn đấu, gương thành công, vượt khó, gương danh nhân..."
Về phƣơng diện tâm lý, những hình tƣợng điển hình này có sức hun đúc tâm tình và
nhiệt huyết của ngƣời đọc, thúc đẩy ý chí thực hành của ngƣời học. Bởi lẽ nói
đến gƣơng lịch
sử thì không còn là chuyện xa lạ mà chính là những chuyện đã từng xảy ra trong
cuộc đời,
trong lịch sử loài ngƣời và gắn bó thân thiết với cuộc sống hôm nay.
Cho nên trong giáo dục, nếu tìm ra đƣợc dấu vết lịch sử dẫu ít mà tô điểm ra vấn
đề
có giá trị hơn là chỉ tƣởng tƣợng suông:
Mặt khác trong chiều sâu tâm linh, con ngƣời còn có nhu cầu thẩm mỹ nhân sinh mà
các nhà nghiên cứu gọi là "nhu yếu thần thoại "
Bên cạnh phƣơng pháp hình tƣợng hóa, Khổng tử còn sử dụng phƣơng pháp ẩn dụ -
dùng hình ảnh sự vật cụ thể gần gũi để gửi gấm triết lý cao siêu trừu tƣợng.
Thí dụ nói về đƣờng chính (chính đạo) Khổng tử nêu hình ảnh cụ
77
thể gần gũi trong đó thƣờng là: "Ai ra khỏi nhà mà không qua cửa? Thế thì tại
sao không
theo chính đạo?" (LN. VI, 15)
Ai ra khỏi nhà cũng qua cửa, nghĩa là do đƣờng chính, chứ không trèo tƣờng,
khoét
vách. Vậy thì trong cƣ xử, lập thân ngƣời ta cũng phải theo chính đạo.
Đó là đạo. Còn đức? Khổng tử cho học trò hình dung qua hình ảnh so sánh "Đức của
người quân tử như gió, đức của kẻ tiểu nhân như cỏ, gió thổi thì cỏ tất rạp
xuống!" (LN,
XII,19).
Để chỉ hạng ngƣời vô dụng, không phát huy đƣợc năng lực và phẩm chất của mình,
Khổng tử nói "Lúa mọc lên mà chẳng trổ bông, đã có như vậy rồi! Trổ bông mà
không thành
hạt, cũng có như vậy rồi! "
Nói về tiền tài, Khổng tử so sánh với mây nổi (Phú quý như phù vân) (LN VII, 15)
thấy đó rồi mất đó, mới hợp đã tan! không bền chặt, không vững chãi. Nói về quy
luật vận
hành không ngừng nghỉ của tự nhiên mà cũng là của xã hội, nhân văn, Khổng tử
mƣợn hình
ảnh dòng sông: "Thệ giả như tư phù, bất xã trú dạ" (LN. IX, 16) Nƣớc chảy đi
hoài, ngày
đêm không ngừng! Cũng có thể hiểu là thời gian trôi mãi không ngừng, đừng nên bỏ
lỡ cơ
hội.
Nhờ phƣơng pháp dẫn dụ bằng hình ảnh ẩn dụ mà Khổng tử dẫn dắt ngƣời học đi vào
quá trình nhận thức cái mới, nhận thức chân lý đƣợc dễ dàng, rành mạch thông qua
cơ chế
liên tƣởng.
Có thể nói rằng: Nếu trong chính trị, Khổng tử chủ trƣơng "thân dân" lấy dân làm
gốc
(Dân bản) thì trong văn hóa ông coi trọng tính đại chúng và trong giáo dục tính
cụ thể - thiết
thực - dễ hiểu là đặc điểm quan trọng.
Tóm lại, tƣ tƣởng giáo dục của Khổng tử tuy đƣợc phát biểu một cách lời rạc,
thậm
chí có không ít những tƣ tƣởng khác nhau về cùng một vấn đề, có vẻ tản mạn theo
từng tình
huống ngẫu nhiên mà Khổng tử gặp phải trong cuộc đời.
78
trong ứng xử, và nhất là trong thực tiễn giáo dục của ông, nhƣng khi đƣợc sắp
xếp lại, hệ
thống hóa, thì chúng đƣợc trình bày theo một trình tự nhất định, và mang những
giá trị nhất
định... Điều này chứng tỏ tƣ tƣởng giáo dục của Khổng tử thực chất là một thể
thống nhất, có
quan hệ chặt chẽ theo một hệ thống hoàn chỉnh.
Trƣớc hết là quan điểm tổng quan về giáo dục, cung cấp cho chúng ta cái nhìn
chung
nhất của Khổng tử về giáo dục: đó là quan điểm "chuyển nền văn hóa từ trên xuống
dưới cho
toàn xã hội" hay là quan điểm "Bình dân hóa giáo dục". Kế đó là "Chính trị hóa
giáo dục" và
"Đạo đức hóa giáo dục", để nâng trình độ dân trí từ dƣới lên.
Dƣới ánh sáng của quan điểm tổng quan ấy, Khổng tử đi sâu vào từng lĩnh vực cụ
thể
đối với giáo dục với những quan điểm hết sức rõ ràng. Từ mục tiêu đến nội dung,
rồi từ nội
dung đến phƣơng pháp chuyển tải nội dung ấy. Tất cả nhằm trả lời các câu hỏi lớn
trong giáo
dục ở mọi thời đại. Đó là:
- Dạy để làm gì ? - Mục tiêu.
-Dạy cái gì ? - Nội dung
- Dạy cho ai ? - Đối tƣợng
- Ai dạy ? - Chủ thể
- Dạy lúc nào ? - Thời gian
- Dạy ở đâu ? - Nơi chốn
- Dạy theo phƣơng châm gì? - Nguyên tắc
- Dạy bằng cách nào? - Phƣơng pháp
Có thể hình dung các thành phần cấu trúc trong tƣ tƣởng giáo dục của Khổng tử
theo
cơ cấu nhƣ sau:
79
Sơ đồ 8 : HỆ THỐNG TƢ TƢỞNG GIÁO DỤC CỦA KHỔNG TỬ
80
Trên đây là hệ thống tƣ tƣởng giáo dục mà Khổng tử đã trực tiếp phát biểu và đã
đƣợc học trò
của ông lần lƣợt ghi lại trong sách Luận ngữ dƣới dạng "Tử viết" (Thầy nói
rằng).
Trong thực tế suốt hơn nửa thế kỷ dạy học Khổng tử đã kiên trì thực hiện tƣ
tƣởng của
mình và đã đào tạo đƣợc 3000 môn sinh, trong đó có 72 ngƣời nổi tiếng tài giỏi
trong lịch sử
Trung hoa cổ đại
Nói cách khác hệ thống tƣ tƣởng giáo dục của Khổng tử đã đƣợc chính ông thể
nghiệm một cách thành công trong thực tiễn dạy học của ông. Nghĩa là nó không
dừng lại ở
giá trị lý luận mà mang tính khả thi và có giá trị thực tiễn.
Bởi vậy suốt gần 2500 năm lịch sử, trải qua bao thời đại, từ thời Chiến quốc đến
các
triều đại: Tần, Hán, Tam quốc, Tấn, Nam Bắc triều, Tùy, Đƣờng, Ngũ đại, Thập
quốc, Tống,
Nguyên, Minh, Thanh... chỉ ở triều đại nhà Tần với chủ trƣơng đốt sách chôn Nho,
còn lại
các triều đại khác đều thực thi tƣ tƣởng giáo dục của Khổng tử. Dĩ nhiên mỗi
thời đại về sau,
tùy nhu cầu mới mà thêm bớt cho phù hợp, thậm chí họ còn gán cho Khổng tử những
tƣ
tƣởng trái ngƣợc với tƣ tƣởng vốn có của ông. Nhất là vào đời Tống mà các nhà
nghiên cứu
gọi là Tống Nho, có nhiều tƣ tƣởng cực kỳ bảo thủ và phản động, trái hẳn với tƣ
tƣởng
khoáng đạt và cầu tiến của Khổng tử.
Tuy vậy, nhìn chung suốt mọi thời đại phong kiến ở Trung hoa nói riêng, và các
nƣớc
phƣơng Đông chịu ảnh hƣởng của Nho học nói chung, đều tôn vinh Khổng tử là Ngƣời
thầy
tiêu biểu của muôn đời (Vạn thế sƣ biểu). Biết bao thế hệ những nhà Nho chân
chính, những
"kẻ sỉ" thân thẳng lòng không (Tiết trực tâm hƣ), trọn đời bảo tồn khí tiết Nho
gia càng làm
rạng danh vị "Tiên sư" họ Khổng và càng làm ngời sáng tƣ tƣởng giáo dục của ông.
Gần đây, năm 1994, tác giả Phan Nải Việt (Trung Quốc) cho xuất bản quyền "Khổng
tử với tư tưởng quản lý và kinh doanh hiện đại" đã góp phần khơi
81
dậy "vốn quý nghìn đời" của ngƣời xƣa và càng làm lấp lánh thêm vẻ sáng của
"viên ngọc
quý" trong quản lý và kinh doanh. Trong Kinh tế đã vậy. Trong giáo dục càng nhƣ
vậy.
PHẦN KẾT LUẬN
Qua sự phân tích ở các chƣơng trên, điều có thể khẳng định ở đây là: Không thể
phủ
nhận sự hiện hữu của hệ thống tƣ tƣởng giáo dục của Khổng tử. Quả thật đã từng
có
một hệ thống tƣ tƣởng giáo dục tƣơng đối hoàn chỉnh trong Nho học do Khổng tử đề
xuất, mà
hạt nhân của tƣ tƣởng ấy là chữ NHÂN, là mối quan hệ tốt đẹp giữa ngƣời với
ngƣời trong
đời sống xã hội. Mọi tƣ tƣởng khác đều xoay quanh chữ NHÂN và đều thể hiện lòng
nhân ấy.
Chúng ta cũng không thể phủ nhận giá - trị - thực - tiễn của hệ thống tƣ tƣởng
ấy dù nó đã có tuổi đời gần 2500. Nói cách khác, ôn lại tƣ tƣởng giáo dục của
Khổng tử
không chỉ vì giá - trị - lịch - sử của nó. Mà còn lạ, và chủ yếu là, vì giá -
trị - thực - tiễn, vì
nhiều tƣ tƣởng trong đó còn nguyên giá trị đối với nền giáo dục hôm nay, và cả
mai sau.
Chúng ta đang tích cực hô hào việc dạy học hƣớng tập trung vào hoạt động của học
sinh, phát
huy tính độc lập, chủ động, tích cực, sáng tạo ở học sinh, chúng ta lập tức bắt
gặp tiếng nói
đồng tình, ủng hộ, cổ vũ của Khổng tử qua những câu nói của ông từ 2500 năm
trƣớc. Đó là:
"Ai không biết tự hỏi: "Phải làm sao? Làm sao đây?" thì ta cũng không biết dạy
thế nào cho
ngƣời ấy." (LN. XV, 15) hay là "Kẻ nào không tức giận vì thiếu kiến thức thì ta
không gợi mở
cho; kẻ nào không tự mình cố gắng bày tỏ ý kiến thì ta không thể giúp cho phát
biểu ý kiến
được. Ta vén lên cho một góc mà chẳng tự tìm ra ba góc còn lại thì ta không dạy
cho nữa!"
(LN. VII, 8)
82
Ta kêu gọi học trò vui học để truy tìm hạnh phúc sƣ phạm, lập tức ta đƣợc tiếng
nói
đồng tình của Khổng tử: "Biết mà học không bằng thích mà học; thích mà học không
bằng
vui mà học" (LN. VI, 18)
Và còn nhiều, nhiều lắm những giá trị thực tiễn khác nhƣ đã trình bày ở các
Chƣơng
trên.
Tuy vậy trên quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, ta không thể nhắm
mắt
làm theo Khổng tử một cách mù quáng. Chính Khổng tử cũng không muốn nhƣ vậy!
Bằng
cái nhìn kế thừa, phát huy có chọn lọc, chúng ta thấy rõ những hạn chế do thời
đại in
dấu ấn trong tƣ tƣởng của Khổng tử: Thí dụ nhƣ:
- "Người quân tử không cần biết nhiều nghề" và coi thƣờng lao động chân tay.
- Cho ngƣời xƣa là tuyệt vời, giá trị xƣa là tuyệt đối, do đó, dẫn đến tính bảo
thủ, thủ
cựu ("Ngô Tùng Châu!")
- Chỉ quan tâm đến Khoa học nhân văn, hoàn toàn không để ý đến Khoa học tự
nhiên,
dẫn đến giới Nho sĩ về sau kém cỏi về Kỹ thuật công nghệ.
- Không đề cập đến việc giáo dục đối với phụ nữ, lại có ý coi thƣờng hạng tỳ
thiếp
(nữ tử) là nan dƣỡng (khó đối xử) (LN. XVII, 15) khiến cho về sau bọn hậu - Nho
diễn dịch
thành một tƣ tƣởng phản động "Phụ nhân nan hóa!": Ngƣời phụ nữ thì khó mà giáo
hóa
đƣợc.
…
Âu đó cũng là những hạn chế của lịch sử. Trƣớc hạn chế lịch sử ấy, để đáp ứng
yêu
cầu của thời đại mới phái Tân Nho giáo ra đời, đẩy tiến trình Nho giáo sang một
bƣớc phát
triển mới. Trong bối cảnh quốc tế hiện nay, vấn đề toàn cầu vẫn là vấn đề con
ngƣời. Đã đến
lúc con ngƣời - cá nhân của Chủ nghĩa Tƣ bản tìm đến và kết hợp với con ngƣời -
cộng
đồng của Nho giáo.