Luận án Thạc sĩ Giáo dục học: Tìm hiểu tư tưởng giáo dục của Khổng Tử

7,059
788
101
63
n lời ông bà tôi đồng ý nhn cháu lại để dy - ông bà hai ln vi phạm quy ƣớc đã hợp
đồng. Xin ông bà nh: "đúng một năm sau kể t hôm nay" nghĩa là không tính sáu tháng sáu
ngày đã qua, ông bà mới đƣợc lên thăm cháu. Hai ông bà một ln na bóp bng ra v, t nh
s c gng theo li thy dặn. Song hình nhƣ là một "quy lut tâm lý" không th ng li
đƣợc: dù đã hết sc c gng nén lòng hai ông ch chịu đựng đƣợc ch ba tháng ba ngày
na thôi! Li dắt díu nhau lên thăm con. Chỉ cn nhìn thy nó ri quay v cũng cam! Lần này
chƣa kịp leo lên núi đã trông thấy thng nhảy thoăn thoắt t núi cao xung, trên vai
chiếc đòn gánh với hai thùng nƣớc con con. Hi: Con làm gì thế? Thƣa: Con đi gánh nƣớc!
Gánh đâu? - dƣới sui sâu! - Gánh đi đâu? -Gánh lên núi cao! - Để chi? - Cho thy tm
giặt và tƣới cây kiểng, tƣới c cây rng! - Gánh bao lâu ri ? - Đã ba tháng ba ngày; mỗi ngày
t sáng tinh mơ đến ti mt! -... ?!
Ln này ông bà nht quyết bt con về. Ai đời "hc" hết chín tháng chín ngày mà ch
có khóc la, bt rui, rồi gánh nƣớc. Tht y t không tính công!" Đành kiếm thy khác
thôi! Thy li nói: Ln này ông bà không bt nó v tôi cũng "đuổi hc" nó, ông bà đã ba
ln vi phm hợp đồng! "Nht quá tam" ri!
Thế là hai ông bà mỗi ngƣời nm ly mt tay con trai xuống núi. Đến lƣng chừng núi
bng một toán cƣớp rng chặn đƣờng yêu cu ông bà b hết tài sn ra nếu mun toàn mng.
Ông bà càng nm cht tay thng bé, bi tài sn duy nht ca ông bà lúc y là thng bé. Phi
quyết tâm bo v nó. Bng thng vt khi tay b m và đẩy hai ông bà vào hc núi bo
nấp đó, để mc con. Khi thy b m đã trú thân an toàn thằng bé đột nhiên thét lên mt tiếng
kinh hoàng làm núi rừng rung động. Tiếng thét kinh thiên động địa làm bn cƣớp kinh hoàng
s hải. Định thn nhìn k li ch thy thng bé 3 tuổi 9 tháng 9 ngày. Đúng là tiếng
63 nể lời ông bà tôi đồng ý nhận cháu ở lại để dạy - dù ông bà hai lần vi phạm quy ƣớc đã hợp đồng. Xin ông bà nhớ: "đúng một năm sau kể từ hôm nay" nghĩa là không tính sáu tháng sáu ngày đã qua, ông bà mới đƣợc lên thăm cháu. Hai ông bà một lần nữa bóp bụng ra về, tự nhủ sẽ cố gắng theo lời thầy dặn. Song hình nhƣ là một "quy luật tâm lý" không thể cƣỡng lại đƣợc: dù đã hết sức cố gắng nén lòng hai ông bà chỉ chịu đựng đƣợc chỉ ba tháng ba ngày nữa thôi! Lại dắt díu nhau lên thăm con. Chỉ cần nhìn thấy nó rồi quay về cũng cam! Lần này chƣa kịp leo lên núi đã trông thấy thằng bé nhảy thoăn thoắt từ núi cao xuống, trên vai là chiếc đòn gánh với hai thùng nƣớc con con. Hỏi: Con làm gì thế? Thƣa: Con đi gánh nƣớc! Gánh ở đâu? - Ở dƣới suối sâu! - Gánh đi đâu? -Gánh lên núi cao! - Để chi? - Cho thầy tắm giặt và tƣới cây kiểng, tƣới cả cây rừng! - Gánh bao lâu rồi ? - Đã ba tháng ba ngày; mỗi ngày từ sáng tinh mơ đến tối mịt! -... ?! Lần này ông bà nhất quyết bắt con về. Ai đời "học" hết chín tháng chín ngày mà chỉ có khóc la, bắt ruồi, rồi gánh nƣớc. Thật là "đầy tớ không tính công!" Đành kiếm thầy khác thôi! Thầy lại nói: Lần này ông bà không bắt nó về tôi cũng "đuổi học" nó, vì ông bà đã ba lần vi phạm hợp đồng! "Nhất quá tam" rồi! Thế là hai ông bà mỗi ngƣời nắm lấy một tay con trai xuống núi. Đến lƣng chừng núi bỗng một toán cƣớp rừng chặn đƣờng yêu cầu ông bà bỏ hết tài sản ra nếu muốn toàn mạng. Ông bà càng nắm chặt tay thằng bé, bởi tài sản duy nhất của ông bà lúc ấy là thằng bé. Phải quyết tâm bảo vệ nó. Bỗng thằng bé vụt khỏi tay bố mẹ và đẩy hai ông bà vào hốc núi bảo nấp đó, để mặc con. Khi thấy bố mẹ đã trú thân an toàn thằng bé đột nhiên thét lên một tiếng kinh hoàng làm núi rừng rung động. Tiếng thét kinh thiên động địa làm bọn cƣớp kinh hoàng sợ hải. Định thần nhìn kỹ lại chỉ thấy thằng bé 3 tuổi 9 tháng 9 ngày. Đúng là tiếng
64
thét của ! Đầu lĩnh toán cƣớp lp tc ra lnh bt sng thằng bé. Chúng nghĩ rằng toán
p thêm thng vi ging hét y s li hi cùng. Ch cn thng thét lên mt
tiếng ối tượng" s riu ríu nghe theo! Nhƣng do đâu thằng chƣa đầy 4 tui li có ging
thét to và vang nhƣ vậy? Chúng nó hoàn toàn không biết rng thằng bé đã bỏ ra ba tháng ba
ngày ròng rã "luyn ging" bng cách khóc la thm thiết! Bn cƣớp gƣơm giáo tuốt trần lăm
le tiến đến quyết bt sng thng bé. B m hi hp nhìn ra, bt lc! Bng thot mt cái thng
bé đã nhảy lên cành cây cao chót vót mt cách nh nhàng, nhanh nhẹn nhƣ ngày nào đã
tng nhảy thoăn thoắt tng bậc đá để gánh nƣớc! Gi đây không còn sức nng ca gánh
nƣớc, nó càng nhảy cao hơn, xa hơn. Rồi, t trên cây cao, mt tay vn cành, tay còn li ch
vic thò xung thóp từng tên cƣớp mt thy xung núi, hết tên này đến tên khác, cũng
nh nhàng và nhanh nhẹn nhƣ ngày nào nó thp rui b vô bao vy!
ràng câu chuyện hoàn toàn hƣ cấu. Không thực. Nhƣng bên trong lớp v
không có thc y, câu chuyn nhm phn ánh mt s tht có thc, một sƣ thật rt thực. Đó là
hãy hành động và hành động bn b, c kiên trì lặp đi lặp lại thì đến một lúc nào đó nó sẽ
thm sâu vào tim thc và vô thc, tr thành mt "thuc tính" nhân cách thc s.
Thế mi biết phƣơng pháp "Hc bng cách làm: Learning by doing" ca nhà giáo dc
M John Dewey là có cơ sở. Phƣơng pháp này chẳng những đúng với học trò trong phƣơng
châm "học đi đôi với hành", "học đồng thi vi tp" còn đúng với nhng ai làm công tác
giáo dc. Bi nhà giáo dc lớn trƣớc hết phi thc hành những điều mình mun dạy ngƣời
khác. Để tr thành mt nhà giáo lớn có khi còn khó hơn là để tr thành một nhà tƣ tƣởng ln.
C hai đều cn s sân sắc. Nhƣng trong khi nhà tƣ tƣởng ch cn s nhất quán trong tƣ tƣởng
ca
64 thét của nó ! Đầu lĩnh toán cƣớp lập tức ra lệnh bắt sống thằng bé. Chúng nghĩ rằng toán cƣớp có thêm thằng bé với giọng hét ấy sẽ lợi hại vô cùng. Chỉ cần thằng bé thét lên một tiếng "đối tượng" sẽ riu ríu nghe theo! Nhƣng do đâu thằng bé chƣa đầy 4 tuổi lại có giọng thét to và vang nhƣ vậy? Chúng nó hoàn toàn không biết rằng thằng bé đã bỏ ra ba tháng ba ngày ròng rã "luyện giọng" bằng cách khóc la thảm thiết! Bọn cƣớp gƣơm giáo tuốt trần lăm le tiến đến quyết bắt sống thằng bé. Bố mẹ hồi hộp nhìn ra, bất lực! Bỗng thoắt một cái thằng bé đã nhảy lên cành cây cao chót vót một cách nhẹ nhàng, nhanh nhẹn nhƣ ngày nào nó đã từng nhảy thoăn thoắt từng bậc đá để gánh nƣớc! Giờ đây không còn sức nặng của gánh nƣớc, nó càng nhảy cao hơn, xa hơn. Rồi, từ trên cây cao, một tay vịn cành, tay còn lại chỉ việc thò xuống thóp từng tên cƣớp một mà thảy xuống núi, hết tên này đến tên khác, cũng nhẹ nhàng và nhanh nhẹn nhƣ ngày nào nó thộp ruồi bỏ vô bao vậy! Rõ ràng là câu chuyện hoàn toàn hƣ cấu. Không có thực. Nhƣng bên trong lớp vỏ không có thực ấy, câu chuyện nhằm phản ánh một sự thật có thực, một sƣ thật rất thực. Đó là hãy hành động và hành động bền bỉ, cứ kiên trì lặp đi lặp lại thì đến một lúc nào đó nó sẽ thấm sâu vào tiềm thức và vô thức, trở thành một "thuộc tính" nhân cách thực sự. Thế mới biết phƣơng pháp "Học bằng cách làm: Learning by doing" của nhà giáo dục Mỹ John Dewey là có cơ sở. Phƣơng pháp này chẳng những đúng với học trò trong phƣơng châm "học đi đôi với hành", "học đồng thời với tập" mà còn đúng với những ai làm công tác giáo dục. Bởi nhà giáo dục lớn trƣớc hết phải thực hành những điều mình muốn dạy ngƣời khác. Để trở thành một nhà giáo lớn có khi còn khó hơn là để trở thành một nhà tƣ tƣởng lớn. Cả hai đều cần sự sân sắc. Nhƣng trong khi nhà tƣ tƣởng chỉ cần sự nhất quán trong tƣ tƣởng của
65
mình thì nhà giáo li cn, rt cn, tuyệt đối cn, s nht quán giữa tƣ tƣởng với đời sng, vi
hành động ca mình.
Tuy nhiên trong lúc nhn mạnh phƣơng pháp thực hành, Khng t vn không quên s
dụng phƣơng pháp dùng lời, đặc biệt là phƣơng pháp đàm thoại.
6). Phương pháp đàm thoại - "bt s h vn"
Toàn b sách Lun ng nhng lời đối thoi gia Khng thc trò ca ông
cũng nhƣ giữa các hc trò vi nhau hay gia Khng t và những ngƣời đàm đạo cùng ông.
đó luôn luôn có hỏi - đáp, đặt vấn đề gii thích vấn đề... đó Khổng t luôn luôn xut
phát t ni dung nhu cu của ngƣời học để có câu tr li phù hợp. Xa hơn, Khng t còn nm
bắt đƣợc nhu cầu mà ngƣời học chƣa nói, hoặc không th hỏi, đ giải đáp. Nói cách khác ông
đã "gãi đúng chỗ nga" trong tâm tƣ ngƣời khác. Khng t còn biết khuyến khích ngƣời hc
phi c gng phát biu ý kiến ca mình. Ông nói: "Bt phn, bt khi; bt ph, bt phát !"
(LN. VII, 8). Ông còn khuyên không nên ly làm xu h khi phi hi han k dƣới mình "Bt
s h vn!" (LN. V, 14). Khng t luôn biết lng nghe hc trò một cách đầy đủ, thm chí biết
chp nhn li trách ca h nữa. Ngƣợc li học trò tuy kính ông nhƣng không nhút nhát sợ st,
có điều gì thc mc, h thng thn hi ông mt cách t nhiên và ông cũng thẳng thn tr li
h mt cách t nhiên - đến nỗi đôi lúc tƣ tƣởng ca ông có v nhƣ mâu thuẫn nhau.
Lp hc do Khng t dạy đúng là mt lp hc ca mt triết nhân: Thy trò cùng nhau
bàn luận, trao đổi vi nhau một cách bình đẳng, t nhiên để cùng tìm ra đạo lý, ch không
phi lp hc ca mt triết gia đem thuyết ca mình ra mà rao ging một cách độc thoi thao
thao bt tuyt!
Hc gi Nguyn Hiến đã từng thích thú khi tƣởng tƣợng ra hình nh: Khng t
ngi i hiên mt bui chiều đẹp tri gảy đàn từng tƣng, rồi cao hng hát lên một điệu
hát, còn Nhan Hi, T L, T cng, Mn T Khiên...
65 mình thì nhà giáo lại cần, rất cần, tuyệt đối cần, sự nhất quán giữa tƣ tƣởng với đời sống, với hành động của mình. Tuy nhiên trong lúc nhấn mạnh phƣơng pháp thực hành, Khổng tử vẫn không quên sử dụng phƣơng pháp dùng lời, đặc biệt là phƣơng pháp đàm thoại. 6). Phương pháp đàm thoại - "bất sỉ hạ vấn" Toàn bộ sách Luận ngữ là những lời đối thoại giữa Khổng tử và và học trò của ông cũng nhƣ giữa các học trò với nhau hay giữa Khổng tử và những ngƣời đàm đạo cùng ông. Ở đó luôn luôn có hỏi - đáp, đặt vấn đề và giải thích vấn đề... Ở đó Khổng tử luôn luôn xuất phát từ nội dung nhu cầu của ngƣời học để có câu trả lời phù hợp. Xa hơn, Khổng tử còn nắm bắt đƣợc nhu cầu mà ngƣời học chƣa nói, hoặc không thể hỏi, để giải đáp. Nói cách khác ông đã "gãi đúng chỗ ngứa" trong tâm tƣ ngƣời khác. Khổng tử còn biết khuyến khích ngƣời học phải cố gắng phát biểu ý kiến của mình. Ông nói: "Bất phẫn, bất khải; bất phỉ, bất phát !" (LN. VII, 8). Ông còn khuyên không nên lấy làm xấu hổ khi phải hỏi han kẻ dƣới mình "Bất sỉ hạ vấn!" (LN. V, 14). Khổng tử luôn biết lắng nghe học trò một cách đầy đủ, thậm chí biết chấp nhận lời trách của họ nữa. Ngƣợc lại học trò tuy kính ông nhƣng không nhút nhát sợ sệt, có điều gì thắc mắc, họ thẳng thắn hỏi ông một cách tự nhiên và ông cũng thẳng thắn trả lời họ một cách tự nhiên - đến nỗi đôi lúc tƣ tƣởng của ông có vẻ nhƣ mâu thuẫn nhau. Lớp học do Khổng tử dạy đúng là một lớp học của một triết nhân: Thầy trò cùng nhau bàn luận, trao đổi với nhau một cách bình đẳng, tự nhiên để cùng tìm ra đạo lý, chứ không phải lớp học của một triết gia đem thuyết của mình ra mà rao giảng một cách độc thoại thao thao bất tuyệt! Học giả Nguyễn Hiến Lê đã từng thích thú khi tƣởng tƣợng ra hình ảnh: Khổng tử ngồi ở dƣới hiên một buổi chiều đẹp trời gảy đàn từng tƣng, rồi cao hứng hát lên một điệu hát, còn Nhan Hồi, Tử Lộ, Tử cống, Mẫn Tử Khiên...
66
các đệ t ông, thì ngồi chung quanh chăm chăm nhìn nét mặt thy, lng tai nghe và mỉm cƣời.
Thình lình ông bo h:
- Các con hãy k ý chí, hoài bão ca mình cho thy nghe vi!
T L thì mong xe để đi, có ngựa để i, ao lông cừu để mc và chia x cho
bn. Nhan Uyên thì khiêm tn, ch mong không khoe khoang nhng vic thin ca mình. T
cống thì mong buôn bán để làm giàu. T Du mong đƣợc cai tr mt p nh mà thc hiện đƣợc
đạo ca thy. H k xong, T L hi li Khng t :
- Chúng con xin đƣợc nghe chí nguyn ca thy !
Khng t đáp:
- Thy mong muốn cho ngƣời già c đƣợc yên vui, bn tin nhau, còn bn tr thì
đƣợc nuôi nng dy d. (LN. V, 25)
Tht là thú v. Và tht là nhân hu!
Bàn luận để làm sáng t đạo lý, theo Khng t một phƣơng pháp hữu hiệu đồng
thi là mt nim vui, mt lc thú trí tu khó sánh kp! Ông nói: "Có bn cùng chí
hướng t xa tìm đến để đàm đạo là mt nim vui ln!" (LN. I, 1)
Nhƣ vy hc phi hi và hỏi để mà học. Không đƣợc giu dốt! Nhƣng hỏi nhng gì và
hỏi nhƣ thế nào? Khng t nói: "Hi những điều thiết yếu, suy tư về nhng gần gũi, thiết
thân, đức nhân nm ch đó" (LN. XIX, 6). Ti sao vy? Bi chân lý vn gin d: "D gin
nhi đắc thiên lý" (H từ). Nhƣng để đạt chân lý phi có ý thc.
7). Làm cho người hc có ý thc cu hc, cu tiến - "mưu đạo bất mưu thực"
- Hc không phải để cu bng lc (LN. VIII, 12)
Khng t nói: "Người quân t mưu cầu đạt đạo ch không mưu
66 các đệ tử ông, thì ngồi chung quanh chăm chăm nhìn nét mặt thầy, lặng tai nghe và mỉm cƣời. Thình lình ông bảo họ: - Các con hãy kể ý chí, hoài bão của mình cho thầy nghe với! Tử Lộ thì mong có xe để đi, có ngựa để cƣỡi, có ao lông cừu để mặc và chia xẻ cho bạn. Nhan Uyên thì khiêm tốn, chỉ mong không khoe khoang những việc thiện của mình. Tử cống thì mong buôn bán để làm giàu. Tử Du mong đƣợc cai trị một ấp nhỏ mà thực hiện đƣợc đạo của thầy. Họ kể xong, Tử Lộ hỏi lại Khổng tử : - Chúng con xin đƣợc nghe chí nguyện của thầy ! Khổng tử đáp: - Thầy mong muốn cho ngƣời già cả đƣợc yên vui, bạn bè tin nhau, còn bọn trẻ thì đƣợc nuôi nấng dạy dỗ. (LN. V, 25) Thật là thú vị. Và thật là nhân hậu! Bàn luận để làm sáng tỏ đạo lý, theo Khổng tử là một phƣơng pháp hữu hiệu đồng thời là một niềm vui, một lạc thú trí tuệ khó có gì sánh kịp! Ông nói: "Có bạn bè cùng chí hướng từ xa tìm đến để đàm đạo là một niềm vui lớn!" (LN. I, 1) Nhƣ vậy học phải hỏi và hỏi để mà học. Không đƣợc giấu dốt! Nhƣng hỏi những gì và hỏi nhƣ thế nào? Khổng tử nói: "Hỏi những điều thiết yếu, suy tư về những gì gần gũi, thiết thân, đức nhân nằm ở chỗ đó" (LN. XIX, 6). Tại sao vậy? Bởi chân lý vốn giản dị: "Dị giản nhi đắc thiên lý" (Hệ từ). Nhƣng để đạt chân lý phải có ý thức. 7). Làm cho người học có ý thức cầu học, cầu tiến - "mưu đạo bất mưu thực" - Học không phải để cầu bổng lộc (LN. VIII, 12) Khổng tử nói: "Người quân tử mưu cầu đạt đạo chứ không mưu
67
cầu cái ăn. Người quân t lo không đạt đạo ch không lo nghèo !" (LN. V, 31) Tht vy, tin
của, cái ăn cái mặc, bng lc... ch là phƣơng tiện. Cu cánh của ngƣời hc không nm đó.
Mà là cái gì đó cao cả hơn. Cao cả hơn cuộc sng ca riêng mình!
Học trƣớc hết là vì s tiến b ca bn thân mình. "Vì mình" ngƣời đi học luôn nghiêm
túc t kiểm điểm xem mình hôm nay hơn chính nh hôm qua không. Tht cht ca s
hc là sa mình cho mi ngày mt tiến b, "mi ngày mt thêm nhng kiến thc mi" (LN.
XIX, 5) để mình t vƣợt lên bản thân mình. Ngƣợc li ạo đức không sa tiến, hc vn
không gii tập, nghe được điều nghĩa mà không m theo, li không sửa đổi, đó
nhng mi lo ca ta" (Khng t - (LN. VII, 3).
Trình t (960 - 1276) cũng nối tiếp đƣờng li ca Khng t nói rng: "Bác hc
(hc rng), thm vn (hi k), thận tư (suy nghĩ cẩn thn), minh bin (phân bit rõ ràng), đốc
hành (dc lòng thc hành), nếu b một trong năm điều y thì không phi lo hc vy."
Để hc trò có th t học nhƣ vậy, ngƣời thy cần khơi dậy ý thức trƣớc. Để hc trò ý
thức đƣợc điều thy dy, trƣớc hết li dy ca thy phi phù hp từng trình độ ngƣời nghe.
Khng t nói: "Người có tư chất t bc trung tr lên thì có th bo ban những điều cao xa.
Người có tư chất t bc trung tr xung không th dy bo nhng điều cao xa được" (LN.
VI,19). Nghĩa là cách dy ca thy tùy theo từng trình đ ý thc ca trò cao hay thp mà dy
bo, lời nói nhƣ vậy mi d hiu, mới đánh thức dậy lý trí ngƣời học. Và, do đó, tránh đƣợc
cái t dạy vƣợt bc, quá sc hc trò .
Thm chí ngay t đầu, Khng t đã đòi hòi ngƣời đi học phi dc lòng chng t lòng
hâm m hc. "L văn lai học, bất văn vãng giáo": Theo Lê thì ch nghe có chuyn môn sinh
tìm đến thy cu hc, ch không nghe chuyn thy
67 cầu cái ăn. Người quân tử lo không đạt đạo chứ không lo nghèo !" (LN. V, 31) Thật vậy, tiền của, cái ăn cái mặc, bổng lộc... chỉ là phƣơng tiện. Cứu cánh của ngƣời học không nằm ở đó. Mà là cái gì đó cao cả hơn. Cao cả hơn cuộc sống của riêng mình! Học trƣớc hết là vì sự tiến bộ của bản thân mình. "Vì mình" ngƣời đi học luôn nghiêm túc tự kiểm điểm xem mình hôm nay có hơn chính mình hôm qua không. Thật chất của sự học là sửa mình cho mỗi ngày một tiến bộ, "mỗi ngày một thêm những kiến thức mới" (LN. XIX, 5) để mình tự vƣợt lên bản thân mình. Ngƣợc lại "đạo đức không sửa tiến, học vấn không giải tập, nghe được điều nghĩa mà không làm theo, có lỗi mà không sửa đổi, đó là những mối lo của ta" (Khổng tử - (LN. VII, 3). Trình tử (960 - 1276) cũng nối tiếp đƣờng lối của Khổng tử mà nói rằng: "Bác học (học rộng), thẩm vấn (hỏi kỹ), thận tư (suy nghĩ cẩn thận), minh biện (phân biệt rõ ràng), đốc hành (dốc lòng thực hành), nếu bỏ một trong năm điều ấy thì không phải lo học vậy." Để học trò có thể tự học nhƣ vậy, ngƣời thầy cần khơi dậy ý thức trƣớc. Để học trò ý thức đƣợc điều thầy dạy, trƣớc hết lời dạy của thầy phải phù hợp từng trình độ ngƣời nghe. Khổng tử nói: "Người có tư chất từ bậc trung trở lên thì có thể bảo ban những điều cao xa. Người có tư chất từ bậc trung trở xuống không thể dạy bảo những điều cao xa được" (LN. VI,19). Nghĩa là cách dạy của thầy tùy theo từng trình độ ý thức của trò cao hay thấp mà dạy bảo, lời nói nhƣ vậy mới dễ hiểu, mới đánh thức dậy lý trí ngƣời học. Và, do đó, tránh đƣợc cái tệ dạy vƣợt bậc, quá sức học trò . Thậm chí ngay từ đầu, Khổng tử đã đòi hòi ngƣời đi học phải dốc lòng chứng tỏ lòng hâm mộ học. "Lễ văn lai học, bất văn vãng giáo": Theo Lê thì chỉ nghe có chuyện môn sinh tìm đến thầy cầu học, chứ không nghe chuyện thầy
68
phải đi tìm trò đ dy (Kinh L). Hoàn toàn khác vi lối ra đƣờng tìm môn sinh kiu Mc
Địch hay kiu Socrate .
Cũng khác với Mc t thƣờng dùng li ha tìm việc để lôi kéo môn sinh theo hc,
Khng t không làm nhƣ vậy, dù ông biết rằng đấy ch là mt th "lừa đảo - đạo đức" (pia
fraus) để lôi kéo ngƣời ta đi học thôi. Qu thực đó kiểu đánh lừa ý tốt. Nhƣng sao
Khng t không làm? Ông không kéo lƣới (ép buộc) cũng không bắn chim lúc đang ngủ
(LN. VII, 26) tức là không nhân lúc đối tƣợng vô thức mà làm! Ngƣợc li ông bt môn sinh
phi ý thc, ý thức đầy đủ giá tr ý nghĩa của s hc và ý thc ngay t đầu, t lúc làm l
"nhp môn", l vt ch mt chục nem! Điều quan trọng là ngƣời đi học phi t ý, t
nguyện đến cùng thy vi mt tm lòng mun cu hc, cu tiến, còn tâm hn thì trong sch,
không, nhằm tƣ lợi.
Ri tiếp theo, trong sut quá trình ging dy ca Khng t, trò phải đặt vấn đề ra
trƣớc, ch không phi là thy. Thy s không th dy nếu trò không biết t đặt vấn đề: "Nếu
người nào không biết t hi phi làm sao? m sao đây? Thì ta cũng chẳng biết phi dy
người đó như thế nào na!" (LN. XV, 15). Bt buc phải điu kin y nếu không thì
tâm trạng chƣa nghĩ tới việc đặt vấn đề, tức là chƣa có tâm thế để học. Đó là dấu hiu "chưa
đói". Ngƣời không đói, có nhét thức ăn vào cũng vô bổ, s khó tiêu hoặc nôn ói ra. Sách Đại
hc nói "Tâm bt ti th chi bt kiến" Khi tâm hn còn đâu đâu thì có xem cũng không thấy
gì. Có nghe cũng không hiểu. Có hiểu cũng không thấu...
Mt khác khi trò đặt vấn đề, đã hỏi ri thì thầy cũng chỉ gi ý, hoc ch ra mt khía
cạnh nào đó phù hợp vi tâm thế ca trò, ri trò phải nhàn đấy mà t tìm ra "'ba góc kia". Đó
là nguyên tắc khơi mào nhƣng không nói hết c t để cho trò phải suy nghĩ, phải động não mà
độc lp gii quyết vấn đề.
68 phải đi tìm trò để dạy (Kinh Lễ). Hoàn toàn khác với lối ra đƣờng tìm môn sinh kiểu Mạc Địch hay kiểu Socrate . Cũng khác với Mặc tử thƣờng dùng lời hứa tìm việc để lôi kéo môn sinh theo học, Khổng tử không làm nhƣ vậy, dù ông biết rằng đấy chỉ là một thứ "lừa đảo - đạo đức" (pia fraus) để lôi kéo ngƣời ta đi học thôi. Quả thực đó là kiểu đánh lừa có ý tốt. Nhƣng sao Khổng tử không làm? Ông không kéo lƣới (ép buộc) cũng không bắn chim lúc nó đang ngủ (LN. VII, 26) tức là không nhân lúc đối tƣợng vô thức mà làm! Ngƣợc lại ông bắt môn sinh phải ý thức, ý thức đầy đủ giá trị và ý nghĩa của sự học và ý thức ngay từ đầu, từ lúc làm lễ "nhập môn", dù lễ vật chỉ là một chục nem! Điều quan trọng là ngƣời đi học phải tự ý, tự nguyện đến cùng thầy với một tấm lòng muốn cầu học, cầu tiến, còn tâm hồn thì trong sạch, không, nhằm tƣ lợi. Rồi tiếp theo, trong suốt quá trình giảng dạy của Khổng tử, trò phải đặt vấn đề ra trƣớc, chứ không phải là thầy. Thầy sẽ không thể dạy nếu trò không biết tự đặt vấn đề: "Nếu người nào không biết tự hỏi phải làm sao? Làm sao đây? Thì ta cũng chẳng biết phải dạy người đó như thế nào nữa!" (LN. XV, 15). Bắt buộc phải có điều kiện ấy vì nếu không thì tâm trạng chƣa nghĩ tới việc đặt vấn đề, tức là chƣa có tâm thế để học. Đó là dấu hiệu "chưa đói". Ngƣời không đói, có nhét thức ăn vào cũng vô bổ, sẽ khó tiêu hoặc nôn ói ra. Sách Đại học nói "Tâm bất tại thị chi bất kiến" Khi tâm hồn còn ở đâu đâu thì có xem cũng không thấy gì. Có nghe cũng không hiểu. Có hiểu cũng không thấu... Mặt khác khi trò đặt vấn đề, đã hỏi rồi thì thầy cũng chỉ gợi ý, hoặc chỉ ra một khía cạnh nào đó phù hợp với tâm thế của trò, rồi trò phải nhàn đấy mà tự tìm ra "'ba góc kia". Đó là nguyên tắc khơi mào nhƣng không nói hết cố t để cho trò phải suy nghĩ, phải động não mà độc lập giải quyết vấn đề.
69
lun dy học ngày nay cũng đi đến kết luận nhƣ vậy: Ảnh hƣởng giáo dc sâu xa
nht là ảnh hƣởng khơi gợi cho hc trò t đi tìm kiếm. Đồng thi vi Khng t, t bên tri
Tây, Héraclite (530 - 470 TCN) cũng nói: giáo dục không phi là rót kiến thức vào đầu nhƣ
ngƣời ta rót cht lng vào phu là thp lên mt ngọn đuốc đ soi đƣờng cho ngƣời ta t
đi! Và Mạnh t v sau cũng trung thành với đƣờng li y khi viết: "Quân t du ch bt phát,
dược như dã": Ngƣời quân t dy học nhƣ dạy bắn: giƣơng cung mà không nẩy cò. Coi nhƣ
nhẩy vƣợt qua vy.
Nhƣ thế vấn đề s đƣợc giải đáp tùy câu hỏi và tùy s khám phá ca trò. Vì vy cùng
mt vấn đề mà mi lúc mt khác. Thí d điển hình nhƣ chữ "nhân ch "hiếu ", ch "chính"...
Không h một định nghĩa chung mà chỉ vi mi hc trò mt câu tr li khác nhau.
Theo Kim Định thì làm nhƣ thế cốt để sa thi những ngƣời "hin din - vng mt" (présents
absents) tc là hin diện nhƣng tâm bất ti: Nghe mà không chịu suy nghĩ tìm tòi; không tìm
tòi thì làm sao bt gp chân lý!
Tóm li, Khng t mun dy cho môn sinh tr nên hin triết ch không dy cho biết
mt nn triết hc. Li giáo dục đào tạo con ngƣời ngày nay ta gi Dạy Ngƣời ch
không ch dng li dy ch. Kết qu ca li giáo dc này là vng bóng hn mnh lnh bt
phi vâng phục ngƣời này hay ngƣời khác hoc sách này sách n. Nếu có trung thành thì
không phi vi thầy mà là đối vi chính mình, vi tính bn nhiên ca mình ""Doãn chp k
trung" (LN. XX. 1). Không bt hc trò theo mình, Khng t ch nói: Tiến lên! Tiến lên bao
hàm vic phi t ý thức đƣờng hƣớng, ngƣợc vi "hãy theo" th nhm mt chy theo
không cn ý thức, suy nghĩ. Vì mục đích chính là giúp tr nên ngƣời
i
quân t, mà quân t thì
cầu nơi mình "quân t cầu chư kỷ", ngƣợc
vi tiu
nhân "cầu chư nhân" (LN. XV, 20).
69 Lý luận dạy học ngày nay cũng đi đến kết luận nhƣ vậy: Ảnh hƣởng giáo dục sâu xa nhất là ảnh hƣởng khơi gợi cho học trò tự đi tìm kiếm. Đồng thời với Khổng tử, từ bên trời Tây, Héraclite (530 - 470 TCN) cũng nói: giáo dục không phải là rót kiến thức vào đầu nhƣ ngƣời ta rót chất lỏng vào phễu mà là thắp lên một ngọn đuốc để soi đƣờng cho ngƣời ta tự đi! Và Mạnh tử về sau cũng trung thành với đƣờng lối ấy khi viết: "Quân tử dẫu chỉ bất phát, dược như dã": Ngƣời quân tử dạy học nhƣ dạy bắn: giƣơng cung mà không nẩy cò. Coi nhƣ nhẩy vƣợt qua vậy. Nhƣ thế vấn đề sẽ đƣợc giải đáp tùy câu hỏi và tùy sự khám phá của trò. Vì vậy cùng một vấn đề mà mỗi lúc một khác. Thí dụ điển hình nhƣ chữ "nhân chữ "hiếu ", chữ "chính"... Không hề có một định nghĩa chung mà chỉ có với mỗi học trò một câu trả lời khác nhau. Theo Kim Định thì làm nhƣ thế cốt để sa thải những ngƣời "hiện diện - vắng mặt" (présents absents) tức là hiện diện nhƣng tâm bất tại: Nghe mà không chịu suy nghĩ tìm tòi; không tìm tòi thì làm sao bắt gặp chân lý! Tóm lại, Khổng tử muốn dạy cho môn sinh trở nên hiền triết chứ không dạy cho biết một nền triết học. Lối giáo dục đào tạo con ngƣời mà ngày nay ta gọi là Dạy Ngƣời chứ không chỉ dừng lại ở dạy chữ. Kết quả của lối giáo dục này là vắng bóng hẳn mệnh lệnh bắt phải vâng phục ngƣời này hay ngƣời khác hoặc sách này sách nọ. Nếu có trung thành thì là không phải với thầy mà là đối với chính mình, với tính bản nhiên của mình ""Doãn chấp kỳ trung" (LN. XX. 1). Không bắt học trò theo mình, Khổng tử chỉ nói: Tiến lên! Tiến lên bao hàm việc phải tự ý thức đƣờng hƣớng, ngƣợc với "hãy theo" có thể nhắm mắt chạy theo không cần ý thức, suy nghĩ. Vì mục đích chính là giúp trở nên ngƣời i quân tử, mà quân tử thì cầu nơi mình "quân tử cầu chư kỷ", ngƣợc với tiểu nhân "cầu chư nhân" (LN. XV, 20).
70
Vi li giáo dục nhƣ vậy, Khng t đã xây dng nên mt nn dân ch thc s trong
hc tập: Ngƣời hc hoàn toàn t do trong suy nghĩ, trên con đƣờng đi tìm chân lý.
Nh t do và t giác, ngƣời hc d tìm ra hnh phúc hc tp .
8). Ly nim vui, ngun hnh phúc kích thích s phát trin người hc - "lc hc"
Trong giáo dục, cũng nhƣ trong nhiều lĩnh vực khác đời, nim vui va là kết qu,
vừa là điều kin đ kích thích s hƣng phấn hoạt động của con ngƣời. Chính nim vui, ngun
hnh phúc kh năng giúp con ngƣời thêm phn chn, thêm tin yêu thêm ngh lực để
vƣợt khó, để tiến lên, để phát trin...
Ý thức đƣợc giá tri y, Khng t thƣờng khơi dậy nim vui và dn truyn cho nó ny
n. M đầu Lun ngữ, ngay chƣơng đầu, dòng đầu li Khng t: "Hc nhi thi tp chi,
bt dic duyt h; hu bng T viễn phương lai bt dic lc h. Nn bt tri nhi bt un, bt
dic quân t h?!" (LN. I, 1): Hc mà mi bui mi tp thì không vui thú lí? Có bn cùng chí
hƣớng xa tìm đến (để đàm đạo) thì không vui thích ƣ? Nhƣng nếu không ai biết ti mình
mà mình không hn gin (vn vui hc) thì chng là quân t ƣ? Có ba niềm vui trong mt câu
nói y.
- Th nht: "duyt" là vui bên trong, là s thích thú trong lòng, vi chính mình, nh
"tp" .
- Th hai: "lc" là vui ta ra bên ngoài, là s vui v khi bàn bc với ngƣời, nh "bn".
- Th ba: "bt un : Không tc gin, di hn, tc là niềm vui đã đƣợc th thách, đã
bn vng và chiến thng ni bun, nh "có nghch cnh"
C ba đều niềm vui nhƣng nhng cung bc khác nhau và c dng không
giống nhau. Song đều cần cho ngƣời hc.
70 Với lối giáo dục nhƣ vậy, Khổng tử đã xây dựng nên một nền dân chủ thực sự trong học tập: Ngƣời học hoàn toàn tự do trong suy nghĩ, trên con đƣờng đi tìm chân lý. Nhờ tự do và tự giác, ngƣời học dễ tìm ra hạnh phúc học tập . 8). Lấy niềm vui, nguồn hạnh phúc kích thích sự phát triển ở người học - "lạc học" Trong giáo dục, cũng nhƣ trong nhiều lĩnh vực khác ở đời, niềm vui vừa là kết quả, vừa là điều kiện để kích thích sự hƣng phấn hoạt động của con ngƣời. Chính niềm vui, nguồn hạnh phúc có khả năng giúp con ngƣời thêm phấn chấn, thêm tin yêu và thêm nghị lực để vƣợt khó, để tiến lên, để phát triển... Ý thức đƣợc giá tri ấy, Khổng tử thƣờng khơi dậy niềm vui và dẫn truyền cho nó nẩy nở. Mở đầu Luận ngữ, ngay chƣơng đầu, dòng đầu là lời Khổng tử: "Học nhi thời tập chi, bất diệc duyệt hồ; hữu bằng Tự viễn phương lai bất diệc lạc hồ. Nhân bất tri nhi bất uấn, bất diệc quân tử hồ?!" (LN. I, 1): Học mà mỗi buổi mỗi tập thì không vui thú lí? Có bạn cùng chí hƣớng ở xa tìm đến (để đàm đạo) thì không vui thích ƣ? Nhƣng nếu không ai biết tới mình mà mình không hờn giận (vẫn vui học) thì chẳng là quân tử ƣ? Có ba niềm vui trong một câu nói ấy. - Thứ nhất: "duyệt" là vui bên trong, là sự thích thú trong lòng, với chính mình, nhờ "tập" . - Thứ hai: "lạc" là vui tỏa ra bên ngoài, là sự vui vẻ khi bàn bạc với ngƣời, nhờ "bạn". - Thứ ba: "bất uấn : Không tức giận, dỗi hờn, tức là niềm vui đã đƣợc thử thách, đã bền vững và chiến thắng nỗi buồn, nhờ "có nghịch cảnh" Cả ba đều là niềm vui nhƣng ở những cung bậc khác nhau và có tác dụng không giống nhau. Song đều cần cho ngƣời học.
71
Bi l đỉnh cao của thái độ hc tập đúng đắn là vui hc. Khng t nói: "Tri ch gi bt
như hiếu chi gi. Hiếu chi gi bất như lạc chi gi" (LN. VI, 18) Biết hc không bng
thích mà hc. Thích mà học cũng không bng vui mà hc. "Vui hc" biu hin ca "lc thú
- trí tu", là cánh ca dn vào "Hnh phúc hc tp" muốn đạt ti ít nhất ngƣời hc phi
tri nghim qua bn yếu t ngày nay gi là "4H":
- Head : cái đầu - trí tu .
- Heart: trái tim - tình cm
- Hand : Bàn tay - thc hành, tp luyn .
- Happiness : Nim vui - Hnh phúc .
S say mê trau gii hc vn ch có th có đƣợc t nim vui, ngun hnh phúc y. Bi
l nếu thiếu niềm vui nhƣ là sự hòa hp ca c tâm hn, trí tu và hành động thì ch mi dng
li s thích thú mang tính xúc cm, ch chƣa là sự say sƣa mang tính tình cm thc s .
Bi mc tiêu y Khng t thƣờng khuyên hc trò trong hoàn cnh hay cnh
ng nào cũng cần gi ly niềm vui để hc và hc - có - kết - qu: "An bn lạc đạo": vui vi
s giàu có v tri thc, v tinh thần và đạo đức là chính. Nh có nim vui nhƣ vậy mà ngƣời
hc "hc không chán" (hc bt yếm). Nhn xét v Nhan Hi, hc trò yêu quí ca mình,
Khng t nói: "Hin thay, anh Hi! Mt gi cơm, một bầu nước, trong ngõ hẻm, người
khác u su không chu ni cnh khn kh đó. Anh Hồi thì vẫn không đổi nim vui. Hin thay,
anh Hi!" (LN. VI, 9).
Hạnh phúc phạm xut phát t bản thân công tác phạm: Khi thy trò cùng
khám phá ra cái mi, say quên c nhng chung quanh - quên c nhng lo toan đời
thƣờng, để tận hƣởng "lc thú - trí tu". Ngƣời thy hay biết
71 Bởi lẽ đỉnh cao của thái độ học tập đúng đắn là vui học. Khổng tử nói: "Tri chỉ giả bất như hiếu chi giả. Hiếu chi giả bất như lạc chi giả" (LN. VI, 18) Biết mà học không bằng thích mà học. Thích mà học cũng không bằng vui mà học. "Vui học" là biểu hiện của "lạc thú - trí tuệ", là cánh cửa dẫn vào "Hạnh phúc học tập" mà muốn đạt tới ít nhất ngƣời học phải trải nghiệm qua bốn yếu tố ngày nay gọi là "4H": - Head : cái đầu - trí tuệ . - Heart: trái tim - tình cảm - Hand : Bàn tay - thực hành, tập luyện . - Happiness : Niềm vui - Hạnh phúc . Sự say mê trau giồi học vấn chỉ có thể có đƣợc từ niềm vui, nguồn hạnh phúc ấy. Bởi lẽ nếu thiếu niềm vui nhƣ là sự hòa hợp của cả tâm hồn, trí tuệ và hành động thì chỉ mới dừng lại ở sự thích thú mang tính xúc cảm, chứ chƣa là sự say sƣa mang tính tình cảm thực sự . Bởi mục tiêu ấy mà Khổng tử thƣờng khuyên học trò dù trong hoàn cảnh hay cảnh ngộ nào cũng cần giữ lấy niềm vui để học và học - có - kết - quả: "An bần lạc đạo": vui với sự giàu có về tri thức, về tinh thần và đạo đức là chính. Nhờ có niềm vui nhƣ vậy mà ngƣời học "học không chán" (học bất yếm). Nhận xét về Nhan Hồi, học trò yêu quí của mình, Khổng tử nói: "Hiền thay, anh Hồi! Một giỏ cơm, một bầu nước, ở trong ngõ hẻm, người khác u sầu không chịu nổi cảnh khốn khổ đó. Anh Hồi thì vẫn không đổi niềm vui. Hiền thay, anh Hồi!" (LN. VI, 9). Hạnh phúc sƣ phạm xuất phát tử bản thân công tác sƣ phạm: Khi thầy và trò cùng khám phá ra cái mới, say mê quên cả những gì chung quanh - quên cả những lo toan đời thƣờng, để tận hƣởng "lạc thú - trí tuệ". Ngƣời thầy hay biết
72
chia x lý tƣởng vi trò. Tht hạnh phúc. đƣợc hnh phúc y ri thì chết cũng
vui: "Triêu văn đạo tch t kh h" (LN. IV, 8). Đó mới là cái hc t nguyn, t giác, t lc,
t ch và sáng to không ngng. Tht là th hc "Say sưa đến quên ăn, vui sướng đến quên
mi lo bun" (LN. VII, 18)
Tóm li, Khng t luôn coi trng và biết to ra niềm vui để có ngun hnh phúc cho
ngƣời học. Đó một trong những nguyên do sâu xa đã đƣa Ông đến v trí hàng đầu trong
nn giáo dục phƣơng Đông lúc by gi. không ch by giờ. Cũng không chỉ phƣơng
Đông. Ngày nay phƣơng Tây cũng đồng ý rng "Nim vui là linh hn ca giáo dc: "La joie
est l'âme de l' éducation." Bi l "Mt trái tim vui v xoay s đủ mi chiu: "A merry heart
goes all the ways." Các nhà tâm lý hc hiện nay cũng có cùng nhận định, khi nói rng: "N
i luôn là tr th đắc lc nht cho mi nhà giáo mi tình hung giáo dc."
Phải chăng cũng chính niềm vui Khng t luôn khen ngi hc trò, khen
nhiều hơn chê ?
9 - Biết khuyến khích, động viên và tạo dư luận khi cn thiết.
Khng t thƣờng khuyến khích môn đồ bng cách khen ngi. khi khen thì khen
không tiếc li. Nhan Hồi là ngƣời đƣợc thy khen nhiu nht (Riêng trong Lun ng đã gần
i lần). Khen trƣớc các môn sinh khác. Khen c với ngƣời ngoài là: "Nhan Hi hiếu hc,
không biết gin lây, ri có lm li thì ch mt ln thôi, không tái phm". (LN. VI, 2), "có th
gi được Đức nhân liên tiếp ba tháng, còn nhng trò khác thì ch mt tháng là cùng" (LN VI.
5). "nghèo mù không buồn, không đổi nim vui" (LN. VI 9) "tiến hoài mà không ngng trên
đường Đạo lý (LN.IX, 20).
72 chia xẻ lý tƣởng với trò. Thật là hạnh phúc. Có đƣợc hạnh phúc ấy rồi thì dù có chết cũng vui: "Triêu văn đạo tịch tử khả hỉ" (LN. IV, 8). Đó mới là cái học tự nguyện, tự giác, tự lực, tự chủ và sáng tạo không ngừng. Thật là thứ học "Say sưa đến quên ăn, vui sướng đến quên mọi lo buồn" (LN. VII, 18) Tóm lại, Khổng tử luôn coi trọng và biết tạo ra niềm vui để có nguồn hạnh phúc cho ngƣời học. Đó là một trong những nguyên do sâu xa đã đƣa Ông đến vị trí hàng đầu trong nền giáo dục phƣơng Đông lúc bấy giờ. Và không chỉ bấy giờ. Cũng không chỉ phƣơng Đông. Ngày nay phƣơng Tây cũng đồng ý rằng "Niềm vui là linh hồn của giáo dục: "La joie est l'âme de l' éducation." Bởi lẽ "Một trái tim vui vẻ xoay sở đủ mọi chiều: "A merry heart goes all the ways." Các nhà tâm lý học hiện nay cũng có cùng nhận định, khi nói rằng: "Nụ cười luôn là trợ thủ đắc lực nhất cho mọi nhà giáo ở mọi tình huống giáo dục." Phải chăng cũng chính là niềm vui mà Khổng tử luôn khen ngợi học trò, và khen nhiều hơn chê ? 9 - Biết khuyến khích, động viên và tạo dư luận khi cần thiết. Khổng tử thƣờng khuyến khích môn đồ bằng cách khen ngợi. Và khi khen thì khen không tiếc lời. Nhan Hồi là ngƣời đƣợc thầy khen nhiều nhất (Riêng trong Luận ngữ đã gần mƣời lần). Khen trƣớc các môn sinh khác. Khen cả với ngƣời ngoài là: "Nhan Hồi hiếu học, không biết giận lây, rủi có lầm lỗi thì chỉ một lần thôi, không tái phạm". (LN. VI, 2), "có thể giữ được Đức nhân liên tiếp ba tháng, còn những trò khác thì chỉ một tháng là cùng" (LN VI. 5). "nghèo mù không buồn, không đổi niềm vui" (LN. VI 9) "tiến hoài mà không ngừng trên đường Đạo lý (LN.IX, 20).