Luận án Thạc sĩ Giáo dục học: Tìm hiểu tư tưởng giáo dục của Khổng Tử

6,926
788
101
53
4). Mun tiến b phi khiêm tn - trung thc.
Khng t nhc hc trò mình: "Biết thì nói là biết, không biết thì nhn là không biết,
thế mi biết "(Tri chi vi tri chi, bt tri vi bt tri, th tri dã). (LN. II, 17). Đấy thái độ
khiêm tn ca k sĩ. Hơn nữa đấy còn là thái độ trung thc của ngƣời có học: Ngƣời xƣa nói
"Càng hc càng thy mình dt”. Các nhà khoa học phƣơng Tây cũng tự nhn xét: "Nhng
điều tôi biết ch mt giọt nước trong khi những điều tôi chưa biết c một đại dương!"
Cùng thi vi Khng tử, Socrate cũng nhận xét v mình rng: "Điều tôi biết chc chn là tôi
không biết gì c !" - Vâng, ch có thùng rng mới kêu to. Ngƣời càng có nhiu tri thc càng
khiêm tốn. Thái độ trung thực là thái độ cn có của ngƣời làm công tác khoa học. Ngày xƣa
đã vy, ngày nay càng phải nhƣ vậy.
Khng t thƣờng phê phán ngƣời không biết làm càn, nói càn. Ông nói: "K
cung vng mà không ngay thẳng; ngây thơ mà không trung hậu, bt tài mà không th tín, ta
không biết hạng người y ra sao na!" (LN. VIII, 16). Ri ông li nhn mnh mt cách c
th: "Không có mà bo là có, rng mà bảo là đầy, thiếu mà bảo là dư, như vậy khó bo là tiết
tháo không thay đổi được!" (LN. VII, 27). Cho nên đƣợc thy Khng hi "có ghét ai không?"
- T Cng, hc trò Khng tử, thƣa: "Con ghét k ăn cắp sáng kiến của ngưi khác mà t cho
là ca mình tìm ra... " (LN. XVII, 24).
5). Mun thành công phi kh công :
Lun ng câu: "Mi ngày biết thêm được điều mình chưa biết, mi tháng không
quên những điều mình đã biết, như vậy có th gi hiếu hc" (LN. XIX, 5). Kế đó lại ghi
tiếp: "Người quân t phi chuyên tâm hc tp ri mi thấy được đạo" (LN. XIX, 7)
'Tin "thiên mnh" nhƣng Khổng t lại không tán thành quan điểm cho rng con
ngƣời c nhm mắt đƣa chân, dựa vào thiên mnh. Ông luôn
53 4). Muốn tiến bộ phải khiêm tốn - trung thực. Khổng tử nhắc học trò mình: "Biết thì nói là biết, không biết thì nhận là không biết, thế mới là biết "(Tri chi vi tri chi, bất tri vi bất tri, thị tri dã). (LN. II, 17). Đấy là thái độ khiêm tốn của kẻ sĩ. Hơn nữa đấy còn là thái độ trung thực của ngƣời có học: Ngƣời xƣa nói "Càng học càng thấy mình dốt”. Các nhà khoa học phƣơng Tây cũng tự nhận xét: "Những điều tôi biết chỉ là một giọt nước trong khi những điều tôi chưa biết là cả một đại dương!" Cùng thời với Khổng tử, Socrate cũng nhận xét về mình rằng: "Điều tôi biết chắc chắn là tôi không biết gì cả !" - Vâng, chỉ có thùng rỗng mới kêu to. Ngƣời càng có nhiều tri thức càng khiêm tốn. Thái độ trung thực là thái độ cần có của ngƣời làm công tác khoa học. Ngày xƣa đã vậy, ngày nay càng phải nhƣ vậy. Khổng tử thƣờng phê phán ngƣời không biết mà làm càn, nói càn. Ông nói: "Kẻ cuồng vọng mà không ngay thẳng; ngây thơ mà không trung hậu, bất tài mà không thủ tín, ta không biết hạng người ấy ra sao nữa!" (LN. VIII, 16). Rồi ông lại nhấn mạnh một cách cụ thể: "Không có mà bảo là có, rỗng mà bảo là đầy, thiếu mà bảo là dư, như vậy khó bảo là tiết tháo không thay đổi được!" (LN. VII, 27). Cho nên đƣợc thầy Khổng hỏi "có ghét ai không?" - Tử Cống, học trò Khổng tử, thƣa: "Con ghét kẻ ăn cắp sáng kiến của người khác mà tự cho là của mình tìm ra... " (LN. XVII, 24). 5). Muốn thành công phải khổ công : Luận ngữ có câu: "Mỗi ngày biết thêm được điều mình chưa biết, mỗi tháng không quên những điều mình đã biết, như vậy có thể gọi là hiếu học" (LN. XIX, 5). Kế đó lại ghi tiếp: "Người quân tử phải chuyên tâm học tập rồi mới thấy được đạo" (LN. XIX, 7) 'Tin có "thiên mệnh" nhƣng Khổng tử lại không tán thành quan điểm cho rằng con ngƣời cứ nhắm mắt đƣa chân, dựa vào thiên mệnh. Ông luôn
54
yêu cầu con ngƣời phi chú trng vào vic, n lc hc tp, làm vic tn tâm, tn lc ri s
thy "thiên mnh" (Tn nhân lc tri thiên mệnh). Ngày nay ta cũng thƣờng nói: Hãy t cu
mình trƣớc khi tri cu!
Khng t quan nim không th là ngƣời nhân mà thiếu trí. "Trí" theo ông không phi
ngu nhiên mà có, trái li nó ch đƣợc hình thành khi ngƣời ta đã trải qua quá trình hc tp, tu
dƣỡng lâu dài, gian khó. Trí thc là kết qu ca mt quá trình n lc bn b, lâu dài. Trí thc
là phần thƣởng cho nhng ai biết bền tâm, vƣợt khó, hc tập đến thun thc. Nếu không
thì dù có thiện tâm cũng bị cái ngu mui che m!
Hình nhƣ đã trở thành quy lut trong hc tp: có kh công mi thành công; mun tr
thành điêu luyện phi biết kh luyn! Cho nên Khng t thƣờng khuyên phi c gng n lc -
không mt mi: "K nào không c công tìm hiu, ta chng dy cho; k nào không t bc l
được tư tưởng ca mình ta chng khai sáng cho" (LN. VII, 8). Thật là thái độ "như thiết như
tha, như trác như ma" ca Kinh Thi mà T cống đã có ln nhc li.
B. Phƣơng pháp giáo dục c th :
1). Sát đối tượng, cơ sở của phương pháp may đo (The "sur mesure " method).
Ngày nay các nhà lun giáo dục phƣơng Tây đang ca ngợi phƣơng pháp dạy hc
theo kiểu may đo của ngƣời Pháp : "enseignement sur mesure" : Tùy theo tính tình, trí tuệ, tƣ
cách ca mỗi ngƣời, tùy trình độ và thái độ ca tng hc sinh mà có cách giáo dc phù hp
vi hc sinh ấy, cũng giống nhƣ may áo phải tùy kích thƣớc ca mỗi ngƣời. Không th ly s
đo của ngƣời này để may áo cho ni khác. Ngay cùng một ngƣời cũng tùy theo thời điểm.
Không th ly s đo năm ngoái để may áo cho năm nay vì chiều kích mỗi ngƣời không ngng
thay đổi.
54 yêu cầu con ngƣời phải chú trọng vào việc, nỗ lực học tập, làm việc tận tâm, tận lực rồi sẽ thấy "thiên mệnh" (Tận nhân lực tri thiên mệnh). Ngày nay ta cũng thƣờng nói: Hãy tự cứu mình trƣớc khi trời cứu! Khổng tử quan niệm không thể là ngƣời nhân mà thiếu trí. "Trí" theo ông không phải ngẫu nhiên mà có, trái lại nó chỉ đƣợc hình thành khi ngƣời ta đã trải qua quá trình học tập, tu dƣỡng lâu dài, gian khó. Trí thức là kết quả của một quá trình nỗ lực bền bỉ, lâu dài. Trí thức là phần thƣởng cho những ai biết bền tâm, vƣợt khó, học và tập đến thuần thục. Nếu không thì dù có thiện tâm cũng bị cái ngu muội che mờ! Hình nhƣ đã trở thành quy luật trong học tập: có khổ công mới thành công; muốn trở thành điêu luyện phải biết khổ luyện! Cho nên Khổng tử thƣờng khuyên phải cố gắng nỗ lực - không mệt mỏi: "Kẻ nào không cố công tìm hiểu, ta chẳng dạy cho; kẻ nào không tự bộc lộ được tư tưởng của mình ta chẳng khai sáng cho" (LN. VII, 8). Thật là thái độ "như thiết như tha, như trác như ma" của Kinh Thi mà Tử cống đã có lần nhắc lại. B. Phƣơng pháp giáo dục cụ thể : 1). Sát đối tượng, cơ sở của phương pháp may đo (The "sur mesure " method). Ngày nay các nhà lý luận giáo dục phƣơng Tây đang ca ngợi phƣơng pháp dạy học theo kiểu may đo của ngƣời Pháp : "enseignement sur mesure" : Tùy theo tính tình, trí tuệ, tƣ cách của mỗi ngƣời, tùy trình độ và thái độ của từng học sinh mà có cách giáo dục phù hợp với học sinh ấy, cũng giống nhƣ may áo phải tùy kích thƣớc của mỗi ngƣời. Không thể lấy số đo của ngƣời này để may áo cho ngƣời khác. Ngay cùng một ngƣời cũng tùy theo thời điểm. Không thể lấy số đo năm ngoái để may áo cho năm nay vì chiều kích mỗi ngƣời không ngừng thay đổi.
55
Thật ra xu hƣớng cá bit hóa giáo dc hay dy "sát đối tượng" đã có từ thi Khng t,
cch chúng ta gần 2500 năm! Khổng t luôn luôn tùy trình độ thái độ ca mi môn sinh
mà dn gii cho phù hp với tông ngƣời một. Để làm đƣợc nhƣ vy, Khng t đã tìm hiểu
thấu đáo, đã thông cảm và thu cm vi những đặc điểm nhân cách ca từng ngƣời trong s
hàng nghìn môn sinh ca ông. Ông biết rõ Nhan Hồi là ngƣời có đạo đức và làm việc gì cũng
không phi làm li ln th hai; T cng có tài bin thut và có óc kinh tế; T H có thành tu
ln v hc thuật; Tăng Sâm có học thc vng vàng và khiêm tốn, đôn hậu; T L gii vic tr
binh, qu cảm và cƣơng trực; Mu T Khiên ni tiếng là có hiếu; Trang Cung nghèo mà ung
dung v.v... Có lần ông đã nhận xét học trò mình nhƣ sau: "Anh Sài thì hay c chp; Anh Sâm
thì chm chạp, Anh Sư thì thiếu thành tht; Anh Do thì thô kch" [24, 23 - 24]
T ch hiu thấu đối tƣợng, Khng t đã tìm cách giảng dy phù hp vi từng đối
ợng. Nhƣ phần trên đã đề cập đến, cùng đƣợc hi v ni dung ch Hiếu, Khng t tr li
T Do rng: "Ngày nay người ta cho rng hiếu là biết chăm lo nuôi nng cha mẹ, nhưng đến
như giống chó, ging ngựa, người ta cũng nuôi nấng vy; nuôi không kính trng thì
không gi là hiếu được!", trong khi ông li tr li T H rng "Cái khó là biết gi v mt hòa
vui (trước mt cha m)". S Khổng t tr li mỗi ngƣời mỗi khác nhƣ vậy bi vì ông
biết rng T Do vn nuôi nng cha mẹ, nhƣng thái độ còn thiếu tôn kính; còn T H nuôi
nng, kính trng cha m nhƣng nét mặt thƣờng không đƣợc vui. Mt thí d khác: cùng tr li
câu hi ca hc trò "Nghe thấy điều phi có nên làm theo ngay không?" Khng t nói vi T
L: "Nhà còn có cha, anh sao nghe thy li làm ngay?" (còn phi tranh th ý kiến cha, anh
đã!); nhƣng ông li nói vi Nhim Hu: "Nghe thy thì làm ngay ch còn đợi gì !?" Khng
t gii thích cách tr li không thng nht của ông nhƣ sau: "Cu (tc là Nhim Hu) có tính
rt rè, nên
55 Thật ra xu hƣớng cá biệt hóa giáo dục hay dạy "sát đối tượng" đã có từ thời Khổng tử, cạch chúng ta gần 2500 năm! Khổng tử luôn luôn tùy trình độ và thái độ của mỗi môn sinh mà dẫn giải cho phù hợp với tông ngƣời một. Để làm đƣợc nhƣ vậy, Khổng tử đã tìm hiểu thấu đáo, đã thông cảm và thấu cảm với những đặc điểm nhân cách của từng ngƣời trong số hàng nghìn môn sinh của ông. Ông biết rõ Nhan Hồi là ngƣời có đạo đức và làm việc gì cũng không phải làm lại lần thứ hai; Tử cống có tài biện thuật và có óc kinh tế; Tử Hạ có thành tựu lớn về học thuật; Tăng Sâm có học thức vững vàng và khiêm tốn, đôn hậu; Tử Lộ giỏi việc trị binh, quả cảm và cƣơng trực; Mẫu Tử Khiên nổi tiếng là có hiếu; Trang Cung nghèo mà ung dung v.v... Có lần ông đã nhận xét học trò mình nhƣ sau: "Anh Sài thì hay cố chấp; Anh Sâm thì chậm chạp, Anh Sư thì thiếu thành thật; Anh Do thì thô kệch" [24, 23 - 24] Từ chỗ hiểu thấu đối tƣợng, Khổng tử đã tìm cách giảng dạy phù hợp với từng đối tƣợng. Nhƣ phần trên đã đề cập đến, cùng đƣợc hỏi về nội dung chữ Hiếu, Khổng tử trả lời Tử Do rằng: "Ngày nay người ta cho rằng hiếu là biết chăm lo nuôi nấng cha mẹ, nhưng đến như giống chó, giống ngựa, người ta cũng nuôi nấng vậy; nuôi mà không kính trọng thì không gọi là hiếu được!", trong khi ông lại trả lời Tử Hạ rằng "Cái khó là biết giữ vẻ mặt hòa vui (trước mặt cha mẹ)". Sở dĩ Khổng tử trả lời mỗi ngƣời mỗi khác nhƣ vậy là bởi vì ông biết rằng Tử Do vẫn nuôi nấng cha mẹ, nhƣng thái độ còn thiếu tôn kính; còn Tử Hạ nuôi nấng, kính trọng cha mẹ nhƣng nét mặt thƣờng không đƣợc vui. Một thí dụ khác: cùng trả lời câu hỏi của học trò "Nghe thấy điều phải có nên làm theo ngay không?" Khổng tử nói với Tử Lộ: "Nhà còn có cha, anh sao nghe thấy lại làm ngay?" (còn phải tranh thủ ý kiến cha, anh đã!); nhƣng ông lại nói với Nhiễm Hữu: "Nghe thấy thì làm ngay chứ còn đợi gì !?" Khổng tử giải thích cách trả lời không thống nhất của ông nhƣ sau: "Cầu (tức là Nhiễm Hữu) có tính rụt rè, nên
56
phải đẩy mnh lên; còn Do (tc là T Lộ) thì hăng hái hơn người nên phi kìm li!".
2). Phương pháp thuyết phc, cm hóa bng s gương mẫu.
Đấy là phƣơng pháp "Dĩ thân vi giáo", gi tt là "Thân giáo" ly chính bn thân mình
làm phƣơng tiện giáo dc. Mun vy nhà giáo dục trƣớc hết phải đƣợc - giáo - dc, phi tu
thân. Khi bản thân mình đã đƣợc tu chỉnh chính đáng thì tựsc thuyết phc, cm hóa
ngƣời khác. Lúc đó dù không ra lệnh ngƣời ta cũng làm theo. Ngƣợc li thân mình bt chính
thì du có ra lệnh ngƣời ta cũng không nghe theo (Kỳ thân chính, bt lnh nhi hành; k thân
bt chính tuy lnh bất tùng). (LN. XIII, 6). Nghĩa giá trị con ngƣời, theo Khng t
cuc sng, hành động, ch không phi lời nói. Ông nói: "Ngƣời có đức tt có lời, ngƣời
có lời chƣa chắc đã có đức" (LN. XIV.4)
Hc trò ca Khng t học đƣợc rt nhiu bài - hc - ln qua tấm gƣơng của thy
mình: Tinh thn hiếu học và lòng yêu ngƣời, yêu ngh, lòng nhân hậu, tính khiêm trung, đức
trung thc... H ca ngi ông : "Phu t ôn hòa mà nghiêm trang, oai v thƣ thái, hiền t"
(LN. VII, 37).
Khng t rt hiếu hc, suốt đời hc không biết chán, va dy va hc thêm, thành
ngƣời hc rng ni tiếng đƣơng thời, đó là điều kiện chính để môn đồ kính phc, vì nếu đức
hnh cùng s hiu biết ca ông thy không mỗi năm mỗi tiến thì hc trò không chu theo hc
lâu. Khng t có nhng môn sinh theo hc ông c chục năm trời, nhƣ trƣờng hp T cng,
T L...
Sách Lviết: "Khi người ta mun tp cho con ngựa kéo xe, trước tiên buc con
ngựa đó sau xe kéo nó đi" tập cho nó đi theo xe cho quen trƣớc; đến khi phi kéo xe, s
không b ng) (L Ký, XVI, 20).
Khng t cũng theo phƣơng pháp ấy. Ông đi đâu cũng dẫn môn đệ theo, để các hc
trò đƣợc thy cách ông x s hàng ngày, để mà bắt chƣớc, để
56 phải đẩy mạnh lên; còn Do (tức là Tử Lộ) thì hăng hái hơn người nên phải kìm lại!". 2). Phương pháp thuyết phục, cảm hóa bằng sự gương mẫu. Đấy là phƣơng pháp "Dĩ thân vi giáo", gọi tắt là "Thân giáo" lấy chính bản thân mình làm phƣơng tiện giáo dục. Muốn vậy nhà giáo dục trƣớc hết phải đƣợc - giáo - dục, phải tu thân. Khi bản thân mình đã đƣợc tu chỉnh chính đáng thì tự nó có sức thuyết phục, cảm hóa ngƣời khác. Lúc đó dù không ra lệnh ngƣời ta cũng làm theo. Ngƣợc lại thân mình bất chính thì dẫu có ra lệnh ngƣời ta cũng không nghe theo (Kỳ thân chính, bất lệnh nhi hành; kỳ thân bất chính tuy lệnh bất tùng). (LN. XIII, 6). Nghĩa là giá trị con ngƣời, theo Khổng tử là ở cuộc sống, ở hành động, chứ không phải ở lời nói. Ông nói: "Ngƣời có đức tất có lời, ngƣời có lời chƣa chắc đã có đức" (LN. XIV.4) Học trò của Khổng tử học đƣợc rất nhiều bài - học - lớn qua tấm gƣơng của thầy mình: Tinh thần hiếu học và lòng yêu ngƣời, yêu nghề, lòng nhân hậu, tính khiêm trung, đức trung thực... Họ ca ngợi ông : "Phu tử ôn hòa mà nghiêm trang, oai vệ mà thƣ thái, hiền từ" (LN. VII, 37). Khổng tử rất hiếu học, suốt đời học không biết chán, vừa dạy vừa học thêm, thành ngƣời học rộng nổi tiếng đƣơng thời, đó là điều kiện chính để môn đồ kính phục, vì nếu đức hạnh cùng sự hiểu biết của ông thầy không mỗi năm mỗi tiến thì học trò không chịu theo học lâu. Khổng tử có những môn sinh theo học ông cả chục năm trời, nhƣ trƣờng hợp Tử cống, Tử Lộ... Sách Lễ Ký viết: "Khi người ta muốn tập cho con ngựa kéo xe, trước tiên buộc con ngựa đó sau xe kéo nó đi" (để tập cho nó đi theo xe cho quen trƣớc; đến khi phải kéo xe, sẽ không bỡ ngỡ) (Lễ Ký, XVI, 20). Khổng tử cũng theo phƣơng pháp ấy. Ông đi đâu cũng dẫn môn đệ theo, để các học trò đƣợc thấy cách ông xử sự hàng ngày, để mà bắt chƣớc, để mà
57
thm nhuần theo gƣơng thầy. Ông tuyên b không h giu giếm gì cùng hc trò hết (LN. VII,
23). Mt ông thầy mà dám để hc trò biết mi hành vi, tâm tánh, cung cách ng x, giao tiếp
ca mình mọi nơi mọi lúc, không h che giu gì c, ông thy y tht s gƣơng mẫu, mt s
gƣơng mẫu lý tƣởng vy. Cách tt nhất để giáo dục ngƣời khác là t mình tr thành mt s
gƣơng mẫu. Nhà giáo dục nào cũng có một ngƣời học trò đầu tiên, cc k tn ty trung
thành, đó chính là anh ta. Anh ta phải là ngƣời trƣớc hết bng chính cuộc đời ca mình minh
chng cho những điều mình dy.
Chng những làm gƣơng, suốt đời gƣơng mẫu, Khng t còn biết nêu gƣơng ngƣời
khác. Ông nhắc đến Nghiêu, Thun, Văn, Vũ... để nêu gƣơng lịch sử. Chƣa hết. Ông còn ly
hình "quân t", "tiu nhân"... để nêu gƣơng cho học trò phấn đấu noi theo nhng hình
mu tt, xa tránh nhng hình nh xu.
3). Phương pháp khuyến khích, phát huy tài đức và lòng thành khn của người
hc.
Khng t quan nim rng trong quá trình giáo dục không đƣợc để cho môn đệ đóng
vai trò th động. Bi vy ông luôn luôn khuyến khích hc trò phi tích cc phát huy năng lực
phm cht ca mình. Ông thy, theo Khng t, ch đóng vai ngƣời hƣớng dn, ch bo,
khuyến khích, thm chí ch trích, trách cứ, để ngƣời hc phải suy nghĩ, phải gng gi, phi
tăng tiến, càng ngày càng ny n đƣợc các tiềm năng tiềm lực nơi mình. Thế mi là biết dy
và biết hc...
Sách L Ký viết:
"Người quân t dy d ch biết hướng dn, ch không thng thúc; ch thúc đẩy ch
không bc bách; ch m lối, soi đường, mà không dn dt - đến k- cùng!" (L Ký, Hc
XVI, 13).
Khng t tng nói rng: "K nào chng c gng tìm hiu, ta chng
57 thấm nhuần theo gƣơng thầy. Ông tuyên bố không hề giấu giếm gì cùng học trò hết (LN. VII, 23). Một ông thầy mà dám để học trò biết mọi hành vi, tâm tánh, cung cách ứng xử, giao tiếp của mình ở mọi nơi mọi lúc, không hề che giấu gì cả, ông thầy ấy thật sự gƣơng mẫu, một sự gƣơng mẫu lý tƣởng vậy. Cách tốt nhất để giáo dục ngƣời khác là tự mình trở thành một sự gƣơng mẫu. Nhà giáo dục nào cũng có một ngƣời học trò đầu tiên, cực kỳ tận tụy và trung thành, đó chính là anh ta. Anh ta phải là ngƣời trƣớc hết bằng chính cuộc đời của mình minh chứng cho những điều mình dạy. Chẳng những làm gƣơng, suốt đời gƣơng mẫu, Khổng tử còn biết nêu gƣơng ngƣời khác. Ông nhắc đến Nghiêu, Thuấn, Văn, Vũ... để nêu gƣơng lịch sử. Chƣa hết. Ông còn lấy mô hình "quân tử", "tiểu nhân"... để nêu gƣơng cho học trò phấn đấu noi theo những hình mẫu tốt, xa tránh những hình ảnh xấu. 3). Phương pháp khuyến khích, phát huy tài đức và lòng thành khẩn của người học. Khổng tử quan niệm rằng trong quá trình giáo dục không đƣợc để cho môn đệ đóng vai trò thụ động. Bởi vậy ông luôn luôn khuyến khích học trò phải tích cực phát huy năng lực và phẩm chất của mình. Ông thầy, theo Khổng tử, chỉ đóng vai ngƣời hƣớng dẫn, chỉ bảo, khuyến khích, thậm chí chỉ trích, trách cứ, để ngƣời học phải suy nghĩ, phải gắng gỏi, phải tăng tiến, càng ngày càng nẩy nở đƣợc các tiềm năng tiềm lực nơi mình. Thế mới là biết dạy và biết học... Sách Lễ Ký viết: "Người quân tử dạy dỗ chỉ biết hướng dẫn, chứ không thằng thúc; chỉ thúc đẩy chứ không bức bách; chỉ mở lối, soi đường, mà không dẫn dắt - đến kỳ- cùng!" (Lễ Ký, Học Ký XVI, 13). Khổng tử từng nói rằng: "Kẻ nào chẳng cố gắng tìm hiểu, ta chẳng
58
ch v cho. K nào chng phát biểu được tư tưởng mình, ta chng khai phóng cho. K nào ta
vén lên một góc mà không vén được ba góc còn li thì ta chng dy na" (LN. VII, 8). Nghĩa
là Khng t mun học trò phát huy đƣợc hết tiềm năng tiềm lc của mình, để phát trin nhân
cách, ch không phi là nhi nhét là biến ngƣời hc thành máy móc, khí c. Khng t tng
nói rng: "Quân t bt khí". (Ngƣời quân t không phải nhƣ một khí c) (LN. II, 12).
thế Khng t rt thích thú khi thấy môn đệ đặt đƣợc nhng câu hi sâu sc, hay
suy diễn đƣợc nhng ý t mi m. Ông khen T Cng khi T Cng biết rằng con ngƣời cũng
nhƣ viên ngọc, miếng ngà cn phi trau chuốt, giũa mài mới nên đẹp đẽ, thanh lch (LN. I,
15). Ông li khen T H khi T H suy ra đƣợc rng l nghi, hình thc, không quan trng
bng tm lòng thành tín bên trong. (LN. III, 8). Ông cũng khen Nhan Hồi Nhan Hi hc
mt biết mƣời (LN. V, 8). Ông khơi mào với Tăng Tử để suy ra "Đạo ca thy ta có th tóm
tt bng hai ch: "Trung - Th" (LN. IV, 15).
Phƣơng pháp phát huy lòng thành khẩn còn th hin ch Khng t không coi ngh
dy hc, dù trƣờng tƣ, là một kế sinh nhai. Ông dy hc là nhm - truyền bá đạo lý, ci hóa
nhân tâm, đào tạo nhân tài nên không ấn định hc phí. Ông nói: "Ai mun xin nhp môn,
t mình làm l, dù ch dâng lên mt chục nem. Cũng được !" (LN. VII, 7). Nhƣng ông đòi hi
tm lòng thành khn cu hc (Xem LN. VII, 28). Vì nếu không có lòng thành khn cu hc,
s không hứng thú cũng không tâm thế. Đã không tâm thế li thiếu hng thú thì hc
hành s nng n, khó có kết qu. Khng t cũng tng nói: "Biết mà hc không bng thích
hc; thích mà hc không bng vui mà hc" (LN.VI, 18). L Ký cũng viết : "Muốn đánh đàn,
phi luyện ngón tay trước. Muốn làm thơ phải biết quan sát cnh vật trước. Mun hc l,
phi biết ý nghĩa tượng trưng của các loi
58 chỉ vẽ cho. Kẻ nào chẳng phát biểu được tư tưởng mình, ta chẳng khai phóng cho. Kẻ nào ta vén lên một góc mà không vén được ba góc còn lại thì ta chẳng dạy nữa" (LN. VII, 8). Nghĩa là Khổng tử muốn học trò phát huy đƣợc hết tiềm năng tiềm lực của mình, để phát triển nhân cách, chứ không phải là nhồi nhét là biến ngƣời học thành máy móc, khí cụ. Khổng tử từng nói rằng: "Quân tử bất khí". (Ngƣời quân tử không phải nhƣ một khí cụ) (LN. II, 12). Vì thế Khổng tử rất thích thú khi thấy môn đệ đặt đƣợc những câu hỏi sâu sắc, hay suy diễn đƣợc những ý tứ mới mẻ. Ông khen Tử Cống khi Tử Cống biết rằng con ngƣời cũng nhƣ viên ngọc, miếng ngà cần phải trau chuốt, giũa mài mới nên đẹp đẽ, thanh lịch (LN. I, 15). Ông lại khen Tử Hạ khi Tử Hạ suy ra đƣợc rằng lễ nghi, hình thức, không quan trọng bằng tấm lòng thành tín bên trong. (LN. III, 8). Ông cũng khen Nhan Hồi vì Nhan Hồi học một biết mƣời (LN. V, 8). Ông khơi mào với Tăng Tử để suy ra "Đạo của thầy ta có thể tóm tắt bằng hai chữ: "Trung - Thứ" (LN. IV, 15). Phƣơng pháp phát huy lòng thành khẩn còn thể hiện ở chỗ Khổng tử không coi nghề dạy học, dù ở trƣờng tƣ, là một kế sinh nhai. Ông dạy học là nhằm - truyền bá đạo lý, cải hóa nhân tâm, đào tạo nhân tài nên không có ấn định học phí. Ông nói: "Ai muốn xin nhập môn, tự mình làm lễ, dù chỉ dâng lên một chục nem. Cũng được !" (LN. VII, 7). Nhƣng ông đòi hỏi tấm lòng thành khẩn cầu học (Xem LN. VII, 28). Vì nếu không có lòng thành khẩn cầu học, sẽ không hứng thú cũng không có tâm thế. Đã không có tâm thế lại thiếu hứng thú thì học hành sẽ nặng nề, khó có kết quả. Khổng tử cũng từng nói: "Biết mà học không bằng thích mà học; thích mà học không bằng vui mà học" (LN.VI, 18). Lễ Ký cũng viết : "Muốn đánh đàn, phải luyện ngón tay trước. Muốn làm thơ phải biết quan sát cảnh vật trước. Muốn học lễ, phải biết ý nghĩa tượng trưng của các loại
59
áo mão trưc. Mun hc ngh, phi yêu ngh đó trước, bng không hc s không hng
thú" (L ký, Hc Ký XVI, 8)
Phƣơng pháp giáo dục này ca Khng t tƣơng tự nhƣ phƣơng pháp "đỡ đẻ tinh thn"
ca Socrate mà tiếng Pháp gi là Maieutique. Ch Maieutique, theo nguyên nghĩa, có nghĩa
"h sinh". Đại ý rng: mt thy thuc h sinh "đỡ đẻ" ch không "đẻ h"; mt thy hc
giúp cho ngƣời hc biết nghĩ, biết suy ch không suy hộ, nghĩ hộ hc trò, sng h hc trò
[35, 270 - 271].
Cho nên Socrate, cũng nhƣ Khng t, trong khi dy hc trò, c hi han hc trò, sao
cho dn dn hc trò nhận định đƣợc rằng chân lý đã tìm ẩn ngay trong tâm trí h ri. Chính vì
thế Bác H cũng nhắc nh: chúng ta quan tâm xây dng và phát trin "mt nn giáo dc
s đào tạo các em nên những người công dân hữu ích cho nước Vit Nam, mt nn giáo dc
làm phát trin hoàn toàn những năng lực sn có các em" [19, 32]
Đó cũng là phƣơng pháp giáo dục ca Thin tông. Thin tông dùng mi cách giáo dc
cốt làm cho đệ t đến lúc nào đó, nhận thức đƣợc rng chân giá trị, chân lý đã tìm n ngay
trong lòng h.
4). Phương pháp tìm hiểu để thu hiu nội tâm con người.
Theo Khng tử, để đánh giá một con ngƣời, trƣớc hết phi thu hiu thu cm
ngƣời ấy. Để thu hiu và thu cm một ngƣời, phi theo dõi "xem vic làm ca anh ta, tìm
hiu vì l gì anh ta làm vic y, xét xem khi làm vic ấy, anh ta có an tâm không, như vậy thì
anh ta không th giấu mình điều được!" "th k s dĩ, quan kỳ s do, sát k s an. NhÂn
yên sưu tai? Nhân yên sưu tai?" (LN. II, 10)
Nhƣ vậy Khng t đã chỉ ra một phƣơng pháp để đi sâu vào "quan sát" ni tâm con
ngƣời. Điều nhiều ngƣời vẫn nghĩ là khó, khó cùng: "Dò sông dò bin d dò. Nào ai
lấy thƣớc mà đo lòng ngƣời!". Nhƣng khó khăn không có
59 áo mão trước. Muốn học nghề, phải yêu nghề đó trước, bằng không học sẽ không có hứng thú" (Lễ ký, Học Ký XVI, 8) Phƣơng pháp giáo dục này của Khổng tử tƣơng tự nhƣ phƣơng pháp "đỡ đẻ tinh thần" của Socrate mà tiếng Pháp gọi là Maieutique. Chữ Maieutique, theo nguyên nghĩa, có nghĩa là "hộ sinh". Đại ý rằng: một thầy thuốc hộ sinh "đỡ đẻ" chứ không "đẻ hộ"; một thầy học giúp cho ngƣời học biết nghĩ, biết suy chứ không suy hộ, nghĩ hộ học trò, sống hộ học trò [35, 270 - 271]. Cho nên Socrate, cũng nhƣ Khổng tử, trong khi dạy học trò, cố hỏi han học trò, sao cho dần dần học trò nhận định đƣợc rằng chân lý đã tìm ẩn ngay trong tâm trí họ rồi. Chính vì thế Bác Hồ cũng nhắc nhở: chúng ta quan tâm xây dựng và phát triển "một nền giáo dục nó sẽ đào tạo các em nên những người công dân hữu ích cho nước Việt Nam, một nền giáo dục làm phát triển hoàn toàn những năng lực sẵn có ở các em" [19, 32] Đó cũng là phƣơng pháp giáo dục của Thiền tông. Thiền tông dùng mọi cách giáo dục cốt làm cho đệ tử đến lúc nào đó, nhận thức đƣợc rằng chân giá trị, chân lý đã tìm ẩn ngay trong lòng họ. 4). Phương pháp tìm hiểu để thấu hiểu nội tâm con người. Theo Khổng tử, để đánh giá một con ngƣời, trƣớc hết phải thấu hiểu và thấu cảm ngƣời ấy. Để thấu hiểu và thấu cảm một ngƣời, phải theo dõi "xem việc làm của anh ta, tìm hiểu vì lẽ gì anh ta làm việc ấy, xét xem khi làm việc ấy, anh ta có an tâm không, như vậy thì anh ta không thể giấu mình điều gì được!" "thị kỳ sở dĩ, quan kỳ sở do, sát kỳ sở an. NhÂn yên sưu tai? Nhân yên sưu tai?" (LN. II, 10) Nhƣ vậy Khổng tử đã chỉ ra một phƣơng pháp để đi sâu vào "quan sát" nội tâm con ngƣời. Điều mà nhiều ngƣời vẫn nghĩ là khó, khó vô cùng: "Dò sông dò biển dễ dò. Nào ai lấy thƣớc mà đo lòng ngƣời!". Nhƣng khó khăn không có
60
nghĩa là không làm đƣợc, nếu ta làm phƣơng pháp. Phƣơng pháp đó, theo Khổng t, là:
"Th k s dĩ, quan kỳ s do, sát k s an": xem việc ngƣời ấy làm (HÀNH ĐỘNG), tìm hiu
nguyên do khiến ngƣời ấy làm nhƣ vậy (ĐỘNG cơ), xét tâm trạng ngƣời y khi làm việc đó
(THÁI ĐỘ). Nm bắt hành động, phân tích động cơ, xem xét thái độ, tâm trng... Tht là toàn
din thấu đáo xét theo quan điểm tâm học ngày nay! Đánh giá con ngƣời nhƣ vậy
đánh giá chiều sâu, tâm hn, ch không hi hợt, máy móc... Đó là sự đánh giá biết
ngƣời biết ta. Mà biết ngƣời, biết ta là tiền đề quan trọng để cng tác, hp tác có kết qu trên
mọi lĩnh vực đời sng. Giống nhƣ trong y học để chẩn đoán đúng cần hội đủ các bƣớc: vng,
văn, vấn, thiết vy.
Đánh giá con ngƣời theo phƣơng pháp này không n c vào lời nói căn cứ vào
hành động và vào thái độ, tâm trng... Ln khác, s môn đệ quên, Khng t li nhc nh li :
"Như thấy ai đàm luận mt cách kính cn, rành mch, hãy khoan nhận anh ta nhà đạo
đức. Hãy quan sát coi anh ta có phi thc là bc quân t chăng, hay chỉ là k có cái lt khéo
léo ngy trang b ngoài mà thôi!" (LN. XI, 20)
5). Phương pháp rèn luyện bng thc hành
Khng t rt ghét việc nói suông, nghe đầu đƣờng nói li cuối đƣờng. Ông nói :
"Nghe người ta nói li đầu đường ri đi đâu cũng loan truyền là k b mất đức hnh ca
mình rồi!" "đạo thính nhi đồ thuyết, đức chí nhi khí dã" (LN. XVII, 14)
Đối vi Khng t mun rèn luyện đức hnh phi thc hành, phi luyn tập thƣờng
xuyên: "Hc mà mi bui mi tp thì không gì vui thú bng" (LN. I. 1). Ngay lời ăn tiếng nói
cũng cần đƣợc rèn luyn. Khng t nói: "Muốn nói điều gì thì trước hết hãy thực hành điều
định nói đi, rồi sau đó, tùy theo kết qu thc hành y, mi nói theo" (Tiên hành k ngôn nhi
hu tùng chi - LN. II. 13). Khng
60 nghĩa là không làm đƣợc, nếu ta làm có phƣơng pháp. Phƣơng pháp đó, theo Khổng tử, là: "Thị kỳ sở dĩ, quan kỳ sở do, sát kỳ sở an": xem việc ngƣời ấy làm (HÀNH ĐỘNG), tìm hiểu nguyên do khiến ngƣời ấy làm nhƣ vậy (ĐỘNG cơ), xét tâm trạng ngƣời ấy khi làm việc đó (THÁI ĐỘ). Nắm bắt hành động, phân tích động cơ, xem xét thái độ, tâm trạng... Thật là toàn diện và thấu đáo xét theo quan điểm tâm lý học ngày nay! Đánh giá con ngƣời nhƣ vậy là đánh giá có chiều sâu, có tâm hồn, chứ không hời hợt, máy móc... Đó là sự đánh giá biết ngƣời biết ta. Mà biết ngƣời, biết ta là tiền đề quan trọng để cộng tác, hợp tác có kết quả trên mọi lĩnh vực đời sống. Giống nhƣ trong y học để chẩn đoán đúng cần hội đủ các bƣớc: vọng, văn, vấn, thiết vậy. Đánh giá con ngƣời theo phƣơng pháp này không căn cứ vào lời nói mà căn cứ vào hành động và vào thái độ, tâm trạng... Lần khác, sợ môn đệ quên, Khổng tử lại nhắc nhở lại : "Như thấy ai đàm luận một cách kính cẩn, rành mạch, hãy khoan nhận anh ta là nhà đạo đức. Hãy quan sát coi anh ta có phải thực là bậc quân tử chăng, hay chỉ là kẻ có cái lốt khéo léo ngụy trang bề ngoài mà thôi!" (LN. XI, 20) 5). Phương pháp rèn luyện bằng thực hành Khổng tử rất ghét việc nói suông, nghe đầu đƣờng nói lại ở cuối đƣờng. Ông nói : "Nghe người ta nói lại ở đầu đường rồi đi đâu cũng loan truyền là kẻ bỏ mất đức hạnh của mình rồi!" "đạo thính nhi đồ thuyết, đức chí nhi khí dã" (LN. XVII, 14) Đối với Khổng tử muốn rèn luyện đức hạnh phải thực hành, phải luyện tập thƣờng xuyên: "Học mà mỗi buổi mỗi tập thì không gì vui thú bằng" (LN. I. 1). Ngay lời ăn tiếng nói cũng cần đƣợc rèn luyện. Khổng tử nói: "Muốn nói điều gì thì trước hết hãy thực hành điều định nói đi, rồi sau đó, tùy theo kết quả thực hành ấy, mới nói theo" (Tiên hành kỳ ngôn nhi hậu tùng chi - LN. II. 13). Khổng
61
t rt s ngƣời nói mà không làm hoặc không làm đƣợc nhƣ lời mình nói. Cho nên, ông dy
"người quân t cn trng trong li nói mau mn trong vic làm" (quân t nt ƣ ngôn,
mẫn ƣ hành - LN. IV, 24): Chính thông qua thực hành mà ngƣời học hình thành đƣợc phm
cht, nhân cách. Chuyện xƣa kể rằng: Ngày xƣa có đôi v chng n đã luống tuổi mà chƣa có
mt mn con. Hai ông bà phi ln lội đi cầu t (cu nguyện đểcon) khắp nơi. Cuối cùng
l lòng thành khẩn động đến trời cao nên sau đó thọ thai. Sau chín tháng mƣi ngày
mang nng bà h sinh mt trai kháu khnh. Khỏi nói ai cũng biết hai ông bà rất đi vui
mng, bi vì niềm ƣớc bấy lâu đã thành sự tht. Và nâng niu thằng bé nhƣ trứng mng.
Mt hôm ông bàn vi bà: "Chúng mình tui già xế chiu trong khi thằng bé còn thơ dại.
Không khéo b nó bơ vơ giữa cuộc đời xa l, bi nó là con mt, chng có anh em. Phi làm
sao cho nó t đứng vng đời ch tôi vi bà không th lt da sng hoài vi nó! Mà mun t
đứng vng gia cuộc đời thì phi ngh, nghiệp. Nhưng muốn cho hc ngh vng
vàng thì trước hết phi cho nó hc ch! Thôi đừng chn ch nữa! Năm nay nó đã ba tuổi ri,
mau tìm thy cho nó theo học đi thôi! Phải chn thy giỏi đã chứ!".
Thế hai ông ln li tìm đƣợc mt v chân sƣ đang tu luyện trên non cao.
quyết đem thằng bé gi cho thy dy. Thy vui lòng nhn ch vi một điều kin: "Đúng một
năm sau ông bà mới có th thăm nó lần th nht". Tt c vì con thân yêu, hai ông bà đồng ý
tha thun vi thy ri quay v để lại đứa còn bé bng cho thy dạy đỗ.
Xa vắng đứa con yêu quý hai ông bà rất đổi buồn, lo. Song vì đã trót hứa vi thy nên
đành nén lòng thƣơng nhớ. Nhƣng dù có cố lắm cũng chỉ đƣợc ba tháng ba ngày. Không th
chịu đựng đƣợc hơn, hai ông đành dắt díu nhau lên núi thăm con. Mới leo đƣợc lƣng
chừng núi đã nghe tiếng khóc, la thm thiết ca thằng bé. thúc ông đi nhanh hơn. Chắc
thng bé có chuyn chng lành
61 tử rất sợ ngƣời nói mà không làm hoặc không làm đƣợc nhƣ lời mình nói. Cho nên, ông dạy "người quân tử cẩn trọng trong lời nói mà mau mắn trong việc làm" (quân tử nột ƣ ngôn, mẫn ƣ hành - LN. IV, 24): Chính thông qua thực hành mà ngƣời học hình thành đƣợc phẩm chất, nhân cách. Chuyện xƣa kể rằng: Ngày xƣa có đôi vợ chồng nọ đã luống tuổi mà chƣa có một mụn con. Hai ông bà phải lặn lội đi cầu tự (cầu nguyện để có con) khắp nơi. Cuối cùng có lẽ lòng thành khẩn động đến trời cao nên sau đó bà thọ thai. Sau chín tháng mƣời ngày mang nặng bà hạ sinh một bé trai kháu khỉnh. Khỏi nói ai cũng biết hai ông bà rất đỗi vui mừng, bởi vì niềm mơ ƣớc bấy lâu đã thành sự thật. Và nâng niu thằng bé nhƣ trứng mỏng. Một hôm ông bàn với bà: "Chúng mình tuổi già xế chiều trong khi thằng bé còn thơ dại. Không khéo bỏ nó bơ vơ giữa cuộc đời xa lạ, bởi nó là con một, chẳng có anh em. Phải làm sao cho nó tự đứng vững ở đời chứ tôi với bà không thể lột da sống hoài với nó! Mà muốn tự đứng vững giữa cuộc đời thì phải có nghề, có nghiệp. Nhưng muốn cho nó học nghề vững vàng thì trước hết phải cho nó học chữ! Thôi đừng chần chừ nữa! Năm nay nó đã ba tuổi rồi, mau tìm thầy cho nó theo học đi thôi! Phải chọn thầy giỏi đã chứ!". Thế là hai ông bà lặn lội tìm đƣợc một vị chân sƣ đang tu luyện trên non cao. Và quyết đem thằng bé gởi cho thầy dạy. Thầy vui lòng nhận chỉ với một điều kiện: "Đúng một năm sau ông bà mới có thể thăm nó lần thứ nhất". Tất cả vì con thân yêu, hai ông bà đồng ý thỏa thuận với thầy rồi quay về để lại đứa còn bé bỏng cho thầy dạy đỗ. Xa vắng đứa con yêu quý hai ông bà rất đổi buồn, lo. Song vì đã trót hứa với thầy nên đành nén lòng thƣơng nhớ. Nhƣng dù có cố lắm cũng chỉ đƣợc ba tháng ba ngày. Không thể chịu đựng đƣợc hơn, hai ông bà đành dắt díu nhau lên núi thăm con. Mới leo đƣợc lƣng chừng núi đã nghe tiếng khóc, la thảm thiết của thằng bé. Bà thúc ông đi nhanh hơn. Chắc thằng bé có chuyện chẳng lành
62
ri. Nó khóc la khàn c c hng! Leo lên đến nơi ông bà càng ngạc nhiên hơn khi thấy con
mình không mt mnh vi che thân, đang nằm lăn dƣới sàn đất mà khóc, mà la. Nhƣng việc
bé, c khóc, vic thy, thy c làm, tƣởng chng thy không nghe thy thng khóc
thm thiết! Hi ra biết nó đã khóc la nhƣ vậy ròng rã ba tháng ba ngày ri! Trƣớc tình cnh
ấy ông bà đành năn n. Nào là xin thầy quan tâm đến cháu, dy d cháu. Nào là chúng tôi có
mi mình cháu, cháu có b nào chúng tôi không sng ni ! ... Song thy ch trách sao ông bà
vi phm hợp đồng?! Nhƣng thấu cm tm lòng cha m thƣơng nhớ con thơ, thầy đành chấp
nhn tiếp tc dy thng bé với điều kin "đúng một năm sau kể t hôm nay", tc không
tính ba tháng ba ngày va qua, hai ông bà mới đƣợc lên thăm con!
Cha m thng bé mt ln na bóp bng quay v t nh c nén lòng thƣơng nhớ
con. Nhƣng dù cố gng hết sức cũng ch đƣợc ba tháng ba ngày na thôi. Ông bà li dt díu
nhau lên núi thăm con. Lần nay leo lên đến gn am ca thy mà vn không nghe tiếng khóc.
Ông nói vi bà "Chắc là con mình đang yên lặng chăm chú nghe thầy ging bài ". Nhƣng khi
bƣớc qua ca, ông rất đổi ngc nhiên khi thy con mình vn mình trn trùng trc ngi
ngay trên sàn đất, chung quanh nó la lit nhng mít mít mà qu nào cũng xẻ năm bổ by.
Thng bé ngi giữa đống mít, mt tay nm ly ming bao vi, mt tay thp tng con rui bu
vào đống mít, b bao, hết con này đến con khác. Hết ngày này đến ngày khác. Hi ra nó
đã bắt rui sut ba tháng ba ngày ri. Tức là sau khi đã "gii ngh" khóc la đến nay. Ông bà
hết sc tc giận. Song vì tƣơng lai con mình nên đành một ln nữa năn nỉ thy. Nào trăm
s nh thy. Mong thy dy d ch đừng bt cháu làm vic "mt v sinh". Chúng tôi có mình
cháu, cháu có b nào chúng tôi không sng ni. Mà thầy cũng không sống nổi đấy nhé! Thôi
thì hết năn n đến hăm dọa đủ điều. Thy ch nói: Thôi thì vì tƣơng lai ca cháu và
62 rồi. Nó khóc la khàn cả cổ họng! Leo lên đến nơi ông bà càng ngạc nhiên hơn khi thấy con mình không một mảnh vải che thân, đang nằm lăn dƣới sàn đất mà khóc, mà la. Nhƣng việc bé, bé cứ khóc, việc thầy, thầy cứ làm, tƣởng chừng thầy không nghe thấy thằng bé khóc thảm thiết! Hỏi ra biết nó đã khóc la nhƣ vậy ròng rã ba tháng ba ngày rồi! Trƣớc tình cảnh ấy ông bà đành năn nỉ. Nào là xin thầy quan tâm đến cháu, dạy dỗ cháu. Nào là chúng tôi có mỗi mình cháu, cháu có bề nào chúng tôi không sống nổi ! ... Song thầy chỉ trách sao ông bà vi phạm hợp đồng?! Nhƣng thấu cảm tấm lòng cha mẹ thƣơng nhớ con thơ, thầy đành chấp nhận tiếp tục dạy thằng bé với điều kiện "đúng một năm sau kể từ hôm nay", tức là không tính ba tháng ba ngày vừa qua, hai ông bà mới đƣợc lên thăm con! Cha mẹ thằng bé một lần nữa bóp bụng quay về và tự nhủ cố nén lòng thƣơng nhớ con. Nhƣng dù cố gắng hết sức cũng chỉ đƣợc ba tháng ba ngày nữa thôi. Ông bà lại dắt díu nhau lên núi thăm con. Lần nay leo lên đến gần am của thầy mà vẫn không nghe tiếng khóc. Ông nói với bà "Chắc là con mình đang yên lặng chăm chú nghe thầy giảng bài ". Nhƣng khi bƣớc qua cửa, ông bà rất đổi ngạc nhiên khi thấy con mình vẫn mình trần trùng trục ngồi ngay trên sàn đất, chung quanh nó la liệt những mít là mít mà quả nào cũng xẻ năm bổ bảy. Thằng bé ngồi giữa đống mít, một tay nắm lấy miệng bao vải, một tay thộp từng con ruồi bu vào đống mít, bỏ vô bao, hết con này đến con khác. Hết ngày này đến ngày khác. Hỏi ra nó đã bắt ruối suốt ba tháng ba ngày rồi. Tức là sau khi đã "giải nghệ" khóc la đến nay. Ông bà hết sức tức giận. Song vì tƣơng lai con mình nên đành một lần nữa năn nỉ thầy. Nào là trăm sự nhờ thầy. Mong thầy dạy dỗ chứ đừng bắt cháu làm việc "mất vệ sinh". Chúng tôi có mình cháu, cháu có bề nào chúng tôi không sống nổi. Mà thầy cũng không sống nổi đấy nhé! Thôi thì hết năn nỉ đến hăm dọa đủ điều. Thầy chỉ nói: Thôi thì vì tƣơng lai của cháu và