Luận án Thạc sĩ Giáo dục học: Tìm hiểu tư tưởng giáo dục của Khổng Tử
7,054
788
101
53
4). Muốn tiến bộ phải khiêm tốn - trung thực.
Khổng tử nhắc học trò mình: "Biết thì nói là biết, không biết thì nhận là không
biết,
thế mới là biết "(Tri chi vi tri chi, bất tri vi bất tri, thị tri dã). (LN. II,
17). Đấy là thái độ
khiêm tốn của kẻ sĩ. Hơn nữa đấy còn là thái độ trung thực của ngƣời có học:
Ngƣời xƣa nói
"Càng học càng thấy mình dốt”. Các nhà khoa học phƣơng Tây cũng tự nhận xét:
"Những
điều tôi biết chỉ là một giọt nước trong khi những điều tôi chưa biết là cả một
đại dương!"
Cùng thời với Khổng tử, Socrate cũng nhận xét về mình rằng: "Điều tôi biết chắc
chắn là tôi
không biết gì cả !" - Vâng, chỉ có thùng rỗng mới kêu to. Ngƣời càng có nhiều
tri thức càng
khiêm tốn. Thái độ trung thực là thái độ cần có của ngƣời làm công tác khoa học.
Ngày xƣa
đã vậy, ngày nay càng phải nhƣ vậy.
Khổng tử thƣờng phê phán ngƣời không biết mà làm càn, nói càn. Ông nói: "Kẻ
cuồng vọng mà không ngay thẳng; ngây thơ mà không trung hậu, bất tài mà không
thủ tín, ta
không biết hạng người ấy ra sao nữa!" (LN. VIII, 16). Rồi ông lại nhấn mạnh một
cách cụ
thể: "Không có mà bảo là có, rỗng mà bảo là đầy, thiếu mà bảo là dư, như vậy khó
bảo là tiết
tháo không thay đổi được!" (LN. VII, 27). Cho nên đƣợc thầy Khổng hỏi "có ghét
ai không?"
- Tử Cống, học trò Khổng tử, thƣa: "Con ghét kẻ ăn cắp sáng kiến của người khác
mà tự cho
là của mình tìm ra... " (LN. XVII, 24).
5). Muốn thành công phải khổ công :
Luận ngữ có câu: "Mỗi ngày biết thêm được điều mình chưa biết, mỗi tháng không
quên những điều mình đã biết, như vậy có thể gọi là hiếu học" (LN. XIX, 5). Kế
đó lại ghi
tiếp: "Người quân tử phải chuyên tâm học tập rồi mới thấy được đạo" (LN. XIX, 7)
'Tin có "thiên mệnh" nhƣng Khổng tử lại không tán thành quan điểm cho rằng con
ngƣời cứ nhắm mắt đƣa chân, dựa vào thiên mệnh. Ông luôn
54
yêu cầu con ngƣời phải chú trọng vào việc, nỗ lực học tập, làm việc tận tâm, tận
lực rồi sẽ
thấy "thiên mệnh" (Tận nhân lực tri thiên mệnh). Ngày nay ta cũng thƣờng nói:
Hãy tự cứu
mình trƣớc khi trời cứu!
Khổng tử quan niệm không thể là ngƣời nhân mà thiếu trí. "Trí" theo ông không
phải
ngẫu nhiên mà có, trái lại nó chỉ đƣợc hình thành khi ngƣời ta đã trải qua quá
trình học tập, tu
dƣỡng lâu dài, gian khó. Trí thức là kết quả của một quá trình nỗ lực bền bỉ,
lâu dài. Trí thức
là phần thƣởng cho những ai biết bền tâm, vƣợt khó, học và tập đến thuần thục.
Nếu không
thì dù có thiện tâm cũng bị cái ngu muội che mờ!
Hình nhƣ đã trở thành quy luật trong học tập: có khổ công mới thành công; muốn
trở
thành điêu luyện phải biết khổ luyện! Cho nên Khổng tử thƣờng khuyên phải cố
gắng nỗ lực -
không mệt mỏi: "Kẻ nào không cố công tìm hiểu, ta chẳng dạy cho; kẻ nào không tự
bộc lộ
được tư tưởng của mình ta chẳng khai sáng cho" (LN. VII, 8). Thật là thái độ
"như thiết như
tha, như trác như ma" của Kinh Thi mà Tử cống đã có lần nhắc lại.
B. Phƣơng pháp giáo dục cụ thể :
1). Sát đối tượng, cơ sở của phương pháp may đo (The "sur mesure " method).
Ngày nay các nhà lý luận giáo dục phƣơng Tây đang ca ngợi phƣơng pháp dạy học
theo kiểu may đo của ngƣời Pháp : "enseignement sur mesure" : Tùy theo tính
tình, trí tuệ, tƣ
cách của mỗi ngƣời, tùy trình độ và thái độ của từng học sinh mà có cách giáo
dục phù hợp
với học sinh ấy, cũng giống nhƣ may áo phải tùy kích thƣớc của mỗi ngƣời. Không
thể lấy số
đo của ngƣời này để may áo cho ngƣời khác. Ngay cùng một ngƣời cũng tùy theo
thời điểm.
Không thể lấy số đo năm ngoái để may áo cho năm nay vì chiều kích mỗi ngƣời
không ngừng
thay đổi.
55
Thật ra xu hƣớng cá biệt hóa giáo dục hay dạy "sát đối tượng" đã có từ thời
Khổng tử,
cạch chúng ta gần 2500 năm! Khổng tử luôn luôn tùy trình độ và thái độ của mỗi
môn sinh
mà dẫn giải cho phù hợp với tông ngƣời một. Để làm đƣợc nhƣ vậy, Khổng tử đã tìm
hiểu
thấu đáo, đã thông cảm và thấu cảm với những đặc điểm nhân cách của từng ngƣời
trong số
hàng nghìn môn sinh của ông. Ông biết rõ Nhan Hồi là ngƣời có đạo đức và làm
việc gì cũng
không phải làm lại lần thứ hai; Tử cống có tài biện thuật và có óc kinh tế; Tử
Hạ có thành tựu
lớn về học thuật; Tăng Sâm có học thức vững vàng và khiêm tốn, đôn hậu; Tử Lộ
giỏi việc trị
binh, quả cảm và cƣơng trực; Mẫu Tử Khiên nổi tiếng là có hiếu; Trang Cung nghèo
mà ung
dung v.v... Có lần ông đã nhận xét học trò mình nhƣ sau: "Anh Sài thì hay cố
chấp; Anh Sâm
thì chậm chạp, Anh Sư thì thiếu thành thật; Anh Do thì thô kệch" [24, 23 - 24]
Từ chỗ hiểu thấu đối tƣợng, Khổng tử đã tìm cách giảng dạy phù hợp với từng đối
tƣợng. Nhƣ phần trên đã đề cập đến, cùng đƣợc hỏi về nội dung chữ Hiếu, Khổng tử
trả lời
Tử Do rằng: "Ngày nay người ta cho rằng hiếu là biết chăm lo nuôi nấng cha mẹ,
nhưng đến
như giống chó, giống ngựa, người ta cũng nuôi nấng vậy; nuôi mà không kính trọng
thì
không gọi là hiếu được!", trong khi ông lại trả lời Tử Hạ rằng "Cái khó là biết
giữ vẻ mặt hòa
vui (trước mặt cha mẹ)". Sở dĩ Khổng tử trả lời mỗi ngƣời mỗi khác nhƣ vậy là
bởi vì ông
biết rằng Tử Do vẫn nuôi nấng cha mẹ, nhƣng thái độ còn thiếu tôn kính; còn Tử
Hạ nuôi
nấng, kính trọng cha mẹ nhƣng nét mặt thƣờng không đƣợc vui. Một thí dụ khác:
cùng trả lời
câu hỏi của học trò "Nghe thấy điều phải có nên làm theo ngay không?" Khổng tử
nói với Tử
Lộ: "Nhà còn có cha, anh sao nghe thấy lại làm ngay?" (còn phải tranh thủ ý kiến
cha, anh
đã!); nhƣng ông lại nói với Nhiễm Hữu: "Nghe thấy thì làm ngay chứ còn đợi gì
!?" Khổng
tử giải thích cách trả lời không thống nhất của ông nhƣ sau: "Cầu (tức là Nhiễm
Hữu) có tính
rụt rè, nên
56
phải đẩy mạnh lên; còn Do (tức là Tử Lộ) thì hăng hái hơn người nên phải kìm
lại!".
2). Phương pháp thuyết phục, cảm hóa bằng sự gương mẫu.
Đấy là phƣơng pháp "Dĩ thân vi giáo", gọi tắt là "Thân giáo" lấy chính bản thân
mình
làm phƣơng tiện giáo dục. Muốn vậy nhà giáo dục trƣớc hết phải đƣợc - giáo -
dục, phải tu
thân. Khi bản thân mình đã đƣợc tu chỉnh chính đáng thì tự nó có sức thuyết
phục, cảm hóa
ngƣời khác. Lúc đó dù không ra lệnh ngƣời ta cũng làm theo. Ngƣợc lại thân mình
bất chính
thì dẫu có ra lệnh ngƣời ta cũng không nghe theo (Kỳ thân chính, bất lệnh nhi
hành; kỳ thân
bất chính tuy lệnh bất tùng). (LN. XIII, 6). Nghĩa là giá trị con ngƣời, theo
Khổng tử là ở
cuộc sống, ở hành động, chứ không phải ở lời nói. Ông nói: "Ngƣời có đức tất có
lời, ngƣời
có lời chƣa chắc đã có đức" (LN. XIV.4)
Học trò của Khổng tử học đƣợc rất nhiều bài - học - lớn qua tấm gƣơng của thầy
mình: Tinh thần hiếu học và lòng yêu ngƣời, yêu nghề, lòng nhân hậu, tính khiêm
trung, đức
trung thực... Họ ca ngợi ông : "Phu tử ôn hòa mà nghiêm trang, oai vệ mà thƣ
thái, hiền từ"
(LN. VII, 37).
Khổng tử rất hiếu học, suốt đời học không biết chán, vừa dạy vừa học thêm, thành
ngƣời học rộng nổi tiếng đƣơng thời, đó là điều kiện chính để môn đồ kính phục,
vì nếu đức
hạnh cùng sự hiểu biết của ông thầy không mỗi năm mỗi tiến thì học trò không
chịu theo học
lâu. Khổng tử có những môn sinh theo học ông cả chục năm trời, nhƣ trƣờng hợp Tử
cống,
Tử Lộ...
Sách Lễ Ký viết: "Khi người ta muốn tập cho con ngựa kéo xe, trước tiên buộc con
ngựa đó sau xe kéo nó đi" (để tập cho nó đi theo xe cho quen trƣớc; đến khi phải
kéo xe, sẽ
không bỡ ngỡ) (Lễ Ký, XVI, 20).
Khổng tử cũng theo phƣơng pháp ấy. Ông đi đâu cũng dẫn môn đệ theo, để các học
trò đƣợc thấy cách ông xử sự hàng ngày, để mà bắt chƣớc, để mà
57
thấm nhuần theo gƣơng thầy. Ông tuyên bố không hề giấu giếm gì cùng học trò hết
(LN. VII,
23). Một ông thầy mà dám để học trò biết mọi hành vi, tâm tánh, cung cách ứng
xử, giao tiếp
của mình ở mọi nơi mọi lúc, không hề che giấu gì cả, ông thầy ấy thật sự gƣơng
mẫu, một sự
gƣơng mẫu lý tƣởng vậy. Cách tốt nhất để giáo dục ngƣời khác là tự mình trở
thành một sự
gƣơng mẫu. Nhà giáo dục nào cũng có một ngƣời học trò đầu tiên, cực kỳ tận tụy
và trung
thành, đó chính là anh ta. Anh ta phải là ngƣời trƣớc hết bằng chính cuộc đời
của mình minh
chứng cho những điều mình dạy.
Chẳng những làm gƣơng, suốt đời gƣơng mẫu, Khổng tử còn biết nêu gƣơng ngƣời
khác. Ông nhắc đến Nghiêu, Thuấn, Văn, Vũ... để nêu gƣơng lịch sử. Chƣa hết. Ông
còn lấy
mô hình "quân tử", "tiểu nhân"... để nêu gƣơng cho học trò phấn đấu noi theo
những hình
mẫu tốt, xa tránh những hình ảnh xấu.
3). Phương pháp khuyến khích, phát huy tài đức và lòng thành khẩn của người
học.
Khổng tử quan niệm rằng trong quá trình giáo dục không đƣợc để cho môn đệ đóng
vai trò thụ động. Bởi vậy ông luôn luôn khuyến khích học trò phải tích cực phát
huy năng lực
và phẩm chất của mình. Ông thầy, theo Khổng tử, chỉ đóng vai ngƣời hƣớng dẫn,
chỉ bảo,
khuyến khích, thậm chí chỉ trích, trách cứ, để ngƣời học phải suy nghĩ, phải
gắng gỏi, phải
tăng tiến, càng ngày càng nẩy nở đƣợc các tiềm năng tiềm lực nơi mình. Thế mới
là biết dạy
và biết học...
Sách Lễ Ký viết:
"Người quân tử dạy dỗ chỉ biết hướng dẫn, chứ không thằng thúc; chỉ thúc đẩy chứ
không bức bách; chỉ mở lối, soi đường, mà không dẫn dắt - đến kỳ- cùng!" (Lễ Ký,
Học Ký
XVI, 13).
Khổng tử từng nói rằng: "Kẻ nào chẳng cố gắng tìm hiểu, ta chẳng
58
chỉ vẽ cho. Kẻ nào chẳng phát biểu được tư tưởng mình, ta chẳng khai phóng cho.
Kẻ nào ta
vén lên một góc mà không vén được ba góc còn lại thì ta chẳng dạy nữa" (LN. VII,
8). Nghĩa
là Khổng tử muốn học trò phát huy đƣợc hết tiềm năng tiềm lực của mình, để phát
triển nhân
cách, chứ không phải là nhồi nhét là biến ngƣời học thành máy móc, khí cụ. Khổng
tử từng
nói rằng: "Quân tử bất khí". (Ngƣời quân tử không phải nhƣ một khí cụ) (LN. II,
12).
Vì thế Khổng tử rất thích thú khi thấy môn đệ đặt đƣợc những câu hỏi sâu sắc,
hay
suy diễn đƣợc những ý tứ mới mẻ. Ông khen Tử Cống khi Tử Cống biết rằng con
ngƣời cũng
nhƣ viên ngọc, miếng ngà cần phải trau chuốt, giũa mài mới nên đẹp đẽ, thanh
lịch (LN. I,
15). Ông lại khen Tử Hạ khi Tử Hạ suy ra đƣợc rằng lễ nghi, hình thức, không
quan trọng
bằng tấm lòng thành tín bên trong. (LN. III, 8). Ông cũng khen Nhan Hồi vì Nhan
Hồi học
một biết mƣời (LN. V, 8). Ông khơi mào với Tăng Tử để suy ra "Đạo của thầy ta có
thể tóm
tắt bằng hai chữ: "Trung - Thứ" (LN. IV, 15).
Phƣơng pháp phát huy lòng thành khẩn còn thể hiện ở chỗ Khổng tử không coi nghề
dạy học, dù ở trƣờng tƣ, là một kế sinh nhai. Ông dạy học là nhằm - truyền bá
đạo lý, cải hóa
nhân tâm, đào tạo nhân tài nên không có ấn định học phí. Ông nói: "Ai muốn xin
nhập môn,
tự mình làm lễ, dù chỉ dâng lên một chục nem. Cũng được !" (LN. VII, 7). Nhƣng
ông đòi hỏi
tấm lòng thành khẩn cầu học (Xem LN. VII, 28). Vì nếu không có lòng thành khẩn
cầu học,
sẽ không hứng thú cũng không có tâm thế. Đã không có tâm thế lại thiếu hứng thú
thì học
hành sẽ nặng nề, khó có kết quả. Khổng tử cũng từng nói: "Biết mà học không bằng
thích mà
học; thích mà học không bằng vui mà học" (LN.VI, 18). Lễ Ký cũng viết : "Muốn
đánh đàn,
phải luyện ngón tay trước. Muốn làm thơ phải biết quan sát cảnh vật trước. Muốn
học lễ,
phải biết ý nghĩa tượng trưng của các loại
59
áo mão trước. Muốn học nghề, phải yêu nghề đó trước, bằng không học sẽ không có
hứng
thú" (Lễ ký, Học Ký XVI, 8)
Phƣơng pháp giáo dục này của Khổng tử tƣơng tự nhƣ phƣơng pháp "đỡ đẻ tinh thần"
của Socrate mà tiếng Pháp gọi là Maieutique. Chữ Maieutique, theo nguyên nghĩa,
có nghĩa
là "hộ sinh". Đại ý rằng: một thầy thuốc hộ sinh "đỡ đẻ" chứ không "đẻ hộ"; một
thầy học
giúp cho ngƣời học biết nghĩ, biết suy chứ không suy hộ, nghĩ hộ học trò, sống
hộ học trò
[35, 270 - 271].
Cho nên Socrate, cũng nhƣ Khổng tử, trong khi dạy học trò, cố hỏi han học trò,
sao
cho dần dần học trò nhận định đƣợc rằng chân lý đã tìm ẩn ngay trong tâm trí họ
rồi. Chính vì
thế Bác Hồ cũng nhắc nhở: chúng ta quan tâm xây dựng và phát triển "một nền giáo
dục nó
sẽ đào tạo các em nên những người công dân hữu ích cho nước Việt Nam, một nền
giáo dục
làm phát triển hoàn toàn những năng lực sẵn có ở các em" [19, 32]
Đó cũng là phƣơng pháp giáo dục của Thiền tông. Thiền tông dùng mọi cách giáo
dục
cốt làm cho đệ tử đến lúc nào đó, nhận thức đƣợc rằng chân giá trị, chân lý đã
tìm ẩn ngay
trong lòng họ.
4). Phương pháp tìm hiểu để thấu hiểu nội tâm con người.
Theo Khổng tử, để đánh giá một con ngƣời, trƣớc hết phải thấu hiểu và thấu cảm
ngƣời ấy. Để thấu hiểu và thấu cảm một ngƣời, phải theo dõi "xem việc làm của
anh ta, tìm
hiểu vì lẽ gì anh ta làm việc ấy, xét xem khi làm việc ấy, anh ta có an tâm
không, như vậy thì
anh ta không thể giấu mình điều gì được!" "thị kỳ sở dĩ, quan kỳ sở do, sát kỳ
sở an. NhÂn
yên sưu tai? Nhân yên sưu tai?" (LN. II, 10)
Nhƣ vậy Khổng tử đã chỉ ra một phƣơng pháp để đi sâu vào "quan sát" nội tâm con
ngƣời. Điều mà nhiều ngƣời vẫn nghĩ là khó, khó vô cùng: "Dò sông dò biển dễ dò.
Nào ai
lấy thƣớc mà đo lòng ngƣời!". Nhƣng khó khăn không có
60
nghĩa là không làm đƣợc, nếu ta làm có phƣơng pháp. Phƣơng pháp đó, theo Khổng
tử, là:
"Thị kỳ sở dĩ, quan kỳ sở do, sát kỳ sở an": xem việc ngƣời ấy làm (HÀNH ĐỘNG),
tìm hiểu
nguyên do khiến ngƣời ấy làm nhƣ vậy (ĐỘNG cơ), xét tâm trạng ngƣời ấy khi làm
việc đó
(THÁI ĐỘ). Nắm bắt hành động, phân tích động cơ, xem xét thái độ, tâm trạng...
Thật là toàn
diện và thấu đáo xét theo quan điểm tâm lý học ngày nay! Đánh giá con ngƣời nhƣ
vậy là
đánh giá có chiều sâu, có tâm hồn, chứ không hời hợt, máy móc... Đó là sự đánh
giá biết
ngƣời biết ta. Mà biết ngƣời, biết ta là tiền đề quan trọng để cộng tác, hợp tác
có kết quả trên
mọi lĩnh vực đời sống. Giống nhƣ trong y học để chẩn đoán đúng cần hội đủ các
bƣớc: vọng,
văn, vấn, thiết vậy.
Đánh giá con ngƣời theo phƣơng pháp này không căn cứ vào lời nói mà căn cứ vào
hành động và vào thái độ, tâm trạng... Lần khác, sợ môn đệ quên, Khổng tử lại
nhắc nhở lại :
"Như thấy ai đàm luận một cách kính cẩn, rành mạch, hãy khoan nhận anh ta là nhà
đạo
đức. Hãy quan sát coi anh ta có phải thực là bậc quân tử chăng, hay chỉ là kẻ có
cái lốt khéo
léo ngụy trang bề ngoài mà thôi!" (LN. XI, 20)
5). Phương pháp rèn luyện bằng thực hành
Khổng tử rất ghét việc nói suông, nghe đầu đƣờng nói lại ở cuối đƣờng. Ông nói :
"Nghe người ta nói lại ở đầu đường rồi đi đâu cũng loan truyền là kẻ bỏ mất đức
hạnh của
mình rồi!" "đạo thính nhi đồ thuyết, đức chí nhi khí dã" (LN. XVII, 14)
Đối với Khổng tử muốn rèn luyện đức hạnh phải thực hành, phải luyện tập thƣờng
xuyên: "Học mà mỗi buổi mỗi tập thì không gì vui thú bằng" (LN. I. 1). Ngay lời
ăn tiếng nói
cũng cần đƣợc rèn luyện. Khổng tử nói: "Muốn nói điều gì thì trước hết hãy thực
hành điều
định nói đi, rồi sau đó, tùy theo kết quả thực hành ấy, mới nói theo" (Tiên hành
kỳ ngôn nhi
hậu tùng chi - LN. II. 13). Khổng
61
tử rất sợ ngƣời nói mà không làm hoặc không làm đƣợc nhƣ lời mình nói. Cho nên,
ông dạy
"người quân tử cẩn trọng trong lời nói mà mau mắn trong việc làm" (quân tử nột ƣ
ngôn,
mẫn ƣ hành - LN. IV, 24): Chính thông qua thực hành mà ngƣời học hình thành đƣợc
phẩm
chất, nhân cách. Chuyện xƣa kể rằng: Ngày xƣa có đôi vợ chồng nọ đã luống tuổi
mà chƣa có
một mụn con. Hai ông bà phải lặn lội đi cầu tự (cầu nguyện để có con) khắp nơi.
Cuối cùng
có lẽ lòng thành khẩn động đến trời cao nên sau đó bà thọ thai. Sau chín tháng
mƣời ngày
mang nặng bà hạ sinh một bé trai kháu khỉnh. Khỏi nói ai cũng biết hai ông bà
rất đỗi vui
mừng, bởi vì niềm mơ ƣớc bấy lâu đã thành sự thật. Và nâng niu thằng bé nhƣ
trứng mỏng.
Một hôm ông bàn với bà: "Chúng mình tuổi già xế chiều trong khi thằng bé còn thơ
dại.
Không khéo bỏ nó bơ vơ giữa cuộc đời xa lạ, bởi nó là con một, chẳng có anh em.
Phải làm
sao cho nó tự đứng vững ở đời chứ tôi với bà không thể lột da sống hoài với nó!
Mà muốn tự
đứng vững giữa cuộc đời thì phải có nghề, có nghiệp. Nhưng muốn cho nó học nghề
vững
vàng thì trước hết phải cho nó học chữ! Thôi đừng chần chừ nữa! Năm nay nó đã ba
tuổi rồi,
mau tìm thầy cho nó theo học đi thôi! Phải chọn thầy giỏi đã chứ!".
Thế là hai ông bà lặn lội tìm đƣợc một vị chân sƣ đang tu luyện trên non cao. Và
quyết đem thằng bé gởi cho thầy dạy. Thầy vui lòng nhận chỉ với một điều kiện:
"Đúng một
năm sau ông bà mới có thể thăm nó lần thứ nhất". Tất cả vì con thân yêu, hai ông
bà đồng ý
thỏa thuận với thầy rồi quay về để lại đứa còn bé bỏng cho thầy dạy đỗ.
Xa vắng đứa con yêu quý hai ông bà rất đổi buồn, lo. Song vì đã trót hứa với
thầy nên
đành nén lòng thƣơng nhớ. Nhƣng dù có cố lắm cũng chỉ đƣợc ba tháng ba ngày.
Không thể
chịu đựng đƣợc hơn, hai ông bà đành dắt díu nhau lên núi thăm con. Mới leo đƣợc
lƣng
chừng núi đã nghe tiếng khóc, la thảm thiết của thằng bé. Bà thúc ông đi nhanh
hơn. Chắc
thằng bé có chuyện chẳng lành
62
rồi. Nó khóc la khàn cả cổ họng! Leo lên đến nơi ông bà càng ngạc nhiên hơn khi
thấy con
mình không một mảnh vải che thân, đang nằm lăn dƣới sàn đất mà khóc, mà la.
Nhƣng việc
bé, bé cứ khóc, việc thầy, thầy cứ làm, tƣởng chừng thầy không nghe thấy thằng
bé khóc
thảm thiết! Hỏi ra biết nó đã khóc la nhƣ vậy ròng rã ba tháng ba ngày rồi!
Trƣớc tình cảnh
ấy ông bà đành năn nỉ. Nào là xin thầy quan tâm đến cháu, dạy dỗ cháu. Nào là
chúng tôi có
mỗi mình cháu, cháu có bề nào chúng tôi không sống nổi ! ... Song thầy chỉ trách
sao ông bà
vi phạm hợp đồng?! Nhƣng thấu cảm tấm lòng cha mẹ thƣơng nhớ con thơ, thầy đành
chấp
nhận tiếp tục dạy thằng bé với điều kiện "đúng một năm sau kể từ hôm nay", tức
là không
tính ba tháng ba ngày vừa qua, hai ông bà mới đƣợc lên thăm con!
Cha mẹ thằng bé một lần nữa bóp bụng quay về và tự nhủ cố nén lòng thƣơng nhớ
con. Nhƣng dù cố gắng hết sức cũng chỉ đƣợc ba tháng ba ngày nữa thôi. Ông bà
lại dắt díu
nhau lên núi thăm con. Lần nay leo lên đến gần am của thầy mà vẫn không nghe
tiếng khóc.
Ông nói với bà "Chắc là con mình đang yên lặng chăm chú nghe thầy giảng bài ".
Nhƣng khi
bƣớc qua cửa, ông bà rất đổi ngạc nhiên khi thấy con mình vẫn mình trần trùng
trục ngồi
ngay trên sàn đất, chung quanh nó la liệt những mít là mít mà quả nào cũng xẻ
năm bổ bảy.
Thằng bé ngồi giữa đống mít, một tay nắm lấy miệng bao vải, một tay thộp từng
con ruồi bu
vào đống mít, bỏ vô bao, hết con này đến con khác. Hết ngày này đến ngày khác.
Hỏi ra nó
đã bắt ruối suốt ba tháng ba ngày rồi. Tức là sau khi đã "giải nghệ" khóc la đến
nay. Ông bà
hết sức tức giận. Song vì tƣơng lai con mình nên đành một lần nữa năn nỉ thầy.
Nào là trăm
sự nhờ thầy. Mong thầy dạy dỗ chứ đừng bắt cháu làm việc "mất vệ sinh". Chúng
tôi có mình
cháu, cháu có bề nào chúng tôi không sống nổi. Mà thầy cũng không sống nổi đấy
nhé! Thôi
thì hết năn nỉ đến hăm dọa đủ điều. Thầy chỉ nói: Thôi thì vì tƣơng lai của cháu
và