Luận án Thạc sĩ Giáo dục học: Tìm hiểu tư tưởng giáo dục của Khổng Tử
7,193
788
101
43
nhƣ không học. Suy nghĩ mà không học thì nguy hiểm. Tóm tắt Kinh Thi, Khổng tử
nói: "Tư
vô tà" Suy nghĩ đừng tà vạy. Một cách cụ thể, Khổng tử dạy rằng: Ngƣời quân tử
có 9 điều
suy nghĩ:
- Nhìn thì nghĩ sao nhìn cho sáng;
- Nghe thì nghĩ sao nghe cho thông;
- Sắc diện ôn hòa;
- Dung mạo cung kính;
- Lời nói nghĩ sao cho trung thực;
- Làm việc gì nghĩ sao cho chín chắn;
- Nghi ngờ điều chi thì phải nghĩ cách hỏi cho rõ;
- Khi tức giận phải nghĩ đến hậu quả;
- Thấy đƣợc lợi phải nghĩ đến đạo nghĩa.
Cả 9 điều đều phải dụng công suy nghĩ.
Học mà thiếu suy nghĩ thì dẫu có thuộc lòng vẫn không hiểu, dẫu có nhớ nhiều vẫn
không phải là tri thức.
Ngƣợc lại suy nghĩ mà không học thì chỉ là mơ mộng viển vông, bởi suy nghĩ ấy
thiếu
mục đích, thiếu cơ sở cụ thể, chẳng những vô ích mà còn có hại, bởi nó là mộng
tƣởng hão
huyền.
Cách thứ ba: Học cái cũ để biết cái mới. Khổng tử nói: "Ôn cố nhi tri tân, khả
dĩ vi
sư hỉ" (LN. II, 11). Ôn việc cũ để biết việc mới, bấy nhiêu đó cũng đủ làm thầy
rồi. Đây
không phải là sự hoài cổ hay bảo thủ. Bởi tƣ tƣởng của Khổng tử cũng nhƣ tƣ
tƣởng Nho
giáo - khởi thủy hoàn toàn xa lạ với sự bảo thủ hay sùng cổ - mù quáng. Chính
Khổng tử đã
từng ví cuộc sống nhƣ dòng sông, ngày đêm tuôn chảy không ngừng ["Thệ giả như tư
phù bất
xả trú dạ" (LN. IX, 16)] và Tuổi trẻ đáng kính sợ ["Hậu sanh khả úy" (LN.IX.
22)], với tinh
thần "vô khả, vô bất khả" (LN. XVIII, 8). Cho nên ta có thể hiểu ôn cố nhi tri
tân ở đây là
44
việc sử dụng quá khứ nhƣ là một cái vốn - việc - làm giúp cho ngƣời học khám phá
ra hiện tại
và, nhờ đó, xây dựng tƣơng lai. Ngày nay Tâm lý học đã chứng minh vai trò của
tri - thức -
cũ trong việc tiếp thu tri - thức - mới: "Cái mới" phải đƣợc "móc" với "cái cũ"
thông qua cơ
chế liên tƣởng. Nhờ đó ngƣời học hiểu cái mới sâu hơn. Trên thực tế giáo dục,
học sinh nào
có vốn - tri - thức (cũ) phong phú thì học sinh ấy tiếp thu tri thức mới dễ dàng
hơn, nhanh
chóng hơn. Hơn nữa, nhƣ Michel de Montaige (1533 - 1592) nhà tƣ tƣởng giáo dục
lỗi lạc
của Pháp thời kỳ Phục hƣng, đã khẳng định "Lịch sử là tấm gương mà ta phải soi
vào đó để
tự biết mình". Quá khứ gắn liền với hiện tại và "liên kết" với tƣơng lai theo
quy luật của nó.
Nắm đƣợc quá khứ và vận dụng đƣợc quy luật vận hành ngƣời ta "thấy được" tƣơng
lai.
Cách thứ tƣ : Học với mọi ngƣời, ở mọi nơi, mọi lúc. Khổng tử từng nói: "Tam
nhân đồng hành tất hữu ngã sư yên" (LN. VII, 21). Trong ba ngƣời cùng đi với ta
tất có
ngƣời là thầy ta. "Ba người cùng đi", nghĩa là không kể ngƣời nào, bất kỳ ai và
bất kể ở đâu,
lúc nào. Thấy ai hơn mình, bất kể về điểm nào, điều phải học và làm theo. Thậm
chí thấy ai
có lỗi lầm, mình phải rút kinh nghiệm cho bản thân. Đó là học. Chỗ khác Khổng tử
lại nói:
"Bất sỉ hạ vấn" (LN. V, 14): Không lấy làm hổ thẹn khi phải học hỏi kẻ dƣới
mình, dù đó là
ngƣời thấp kém, nhƣng có điểm hơn mình, mình phải nghiêm túc học hỏi ngƣời ấy.
Không có
gì là xấu hổ cả. Tƣ tƣởng này càng có ý nghĩa giáo dục to lớn khi ông biết dè
chừng "bệnh sỉ"
vốn cố hữu ở giới trí thức.
Và chính bản thân mình, Khổng tử đã làm gƣơng. Ông rất vui mừng khi nhận lời phê
bình của ngƣời khác để sửa mình. Gặp ai hát hay ông đều nhờ ngƣời ấy hát lại để
ông học hát
theo. Và luôn luôn nhìn ra ƣu điểm ở ngƣời đối diện, nhất là ở học trò ông.
45
Suốt đời học tập không biết mỏi mệt và lúc nào cũng săn sàng tâm thế học tập với
mọi
ngƣời. Đó là đức tính nổi bật ở Khổng tử.
Thứ năm : Học bằng cách phát huy nội - lực - tự - thân.
Khổng tử luôn khuyến khích ngƣời học phải tận lực suy nghĩ, suy nghĩ thấu đáo
một
cách độc lập. Đã đành. Ông còn đòi hỏi học trò phải phát huy cho hết năng lực
tiềm tàng
trong mình để tự thân giải quyết vấn đề trƣớc, rồi ông mới giúp đỡ cho sau. Ông
nói: "Bất
viết: “như chi hà, như chi hà” giả, ngô mạt như chi hà dã dĩ kĩ" (LN.XV,15):
Ngƣời nào
không biết tự hỏi: "phải làm sao đây? phải làm sao đây?", thì ta cũng không biết
phải dạy
cách nào cho ngƣời ấy đƣợc!
Lần khác, Khổng tử lại nói: "Bất phẫn, bất khải; bất phỉ, bất phát. Cử nhất
ngung bất
dĩ tam ngung phản, tắc bất phục dã" (LN. VIII, 8): Ngƣời nào không tức giận vì
không hiểu
thì ta không giảng cho; không ráng bày tỏ ý kiến thì ta không khai phát cho. Ta
vén cho một
góc, còn 3 góc không biết tự vén lên, thì ta không dạy cho nữa. Thì ra cách học,
theo Khổng
tử, chẳng những phải phát huy nội lực để tự thân suy nghĩ tìm ra biện pháp giải
quyết vấn đề,
mà còn phải suy nghĩ về cách vận dụng biện pháp, cách thực hiện, cách hành động
và hành
động đúng một cách tự lực, một cách độc lập. Cuối Luận ngữ lại ghi thêm lời
Khổng tử:
"doãn chấp kỳ trung" (LN. XX, 1). Hãy tín thuận, hãy kiên trung với cái nội ngã
tâm linh của
mình. Sau này trong thƣ gửi nhân ngày khai trƣờng năm học 1945 - 1946, Bác Hồ
cũng nhấn
mạnh: "... một nền giáo dục làm phát triển hoàn toàn những năng lực sẵn có của
các em".
Đồng thời với Khổng tử ở phƣơng Tây, Socrate cũng khuyên hãy quay trở về với
chính mình,
hãy tự biết mình.
Thứ sáu: Học bằng cách hỏi:
"Bất sỉ hạ vấn" (LN. V, 14) là một phẩm chất đẹp của ngƣời cầu học : không hổ
thẹn
khi hỏi kẻ dƣới mình. Phải chăng Khổng tử đã dè chừng "bệnh sỉ"
46
và muốn tránh cho học trò mình căn bệnh cố hữu này ở giới trí thức. Biết học ở
học trò mình
là một phẩm chất đẹp ở nhân cách của những ngƣời Thầy lớn. Chƣa hết, lần khác
Khổng tử
dạy: "tựu hữu đạo nhi chính yên" (LN. I, 14) : Tìm đến ngƣời có học để thỉnh ý
mà sửa mình
cho thêm ngay chính. Chẳng những phải tìm hỏi ngƣời trên, kẻ dƣới, mà, theo
Khổng tử, để
học tốt còn phải biết đàm đạo, thảo luận với bạn bè, với những ngƣời cùng chí
hƣớng. Có vậy
mới thấy đƣợc niềm vui trong học tập "Hữu bằng tự viễn phương lai, bất diệc lạc
hồ."
(LN.I, 1)
Và trong thực tế, chính bản thân Khổng tử vẫn luôn học bằng cách hỏi: Vào thái
miếu
gặp cái gì cũng hỏi ("Tử nhập Thái miếu, mỗi sự vấn" (LN. III, 15). Đến Lạc
Dƣơng, gặp Lão
tử, hỏi về Lễ... Không hẹn mà gặp, gần thời Khổng tử bên phƣơng Tây, Socrate đề
xƣớng
phƣơng pháp Đàm thoại.
Thứ bảy : Học một cách nhất quán:
Khổng tử nói: "Ngô đạo nhất dĩ quán chi" (LN. IV, 15) : Đạo của ta chỉ có một lẽ
mà
thông suốt tất cả. Chỗ khác ông lại nhắc lại: "dư nhất dĩ quán chi", trong một
mẫu đối thoại
giữa thầy trò khá cảm động và thú vị:
- Khổng tử: "Anh Tứ (Tử cống - học trò của ông) anh cho rằng ta học nhiều mà nhớ
hết phải chăng?
- Tử Cống : "Vâng, không phải vậy sao "
- Khổng tử : "Không phải vậy. Ta tìm một điều căn bản mà khái quát, thông suốt
cả
"(Phi dã, dƣ nhất dĩ quán chi) (LN. XV, 2).
Một bằng cớ cụ thể là Khổng tử đã tổng hợp các Kinh nhƣ sau :
- Kinh Thi = Tƣ vô tà !
- Kinh Lễ = Kính
- Kinh Nhạc = Thân
- Đạo Thánh Hiền = Trung, Thành,
- Đạo làm ngƣời = Trung, Thứ
47
- Đạo Chính trị = Chính.
Nghĩa là học thì phải có đầu óc tổng hợp, hệ thống hóa và khái quát hóa để tìm
ra điều
cơ bản quán xuyến chung, tìm ra "sợi chỉ đỏ" xuyên suốt chƣơng trình học, cũng
nhƣ xuyên
suốt giữa bài học và cuộc sống.
Sau này khi Bác Hồ dặn cụ Huỳnh Thúc Kháng rằng "Dĩ bất biến ứng vạn biến" là có
ý nhắc cụ túc Nho về tính Nhất quán này vậy.
Thứ tám : Học một cách kiên trì - gắng sức:
Khổng tử khuyên: "Học như bất cập, do củng thất chi" (LN.VII,17): Học thì phải
gắng sức nhƣ sợ không kịp, học đƣợc điều gì rồi thì sợ quên mất.
Khổng tử ví việc học nhƣ việc đắp núi "nếu chỉ còn thiếu một sọt nữa mà ngừng,
là
tại ta bỏ vậy! Ví như tại đất bằng, tuy mới đổ xuống được một sọt, mà tiếp tục
đổ nữa là tại ta
muốn tiếp tục vậy" (LN. IX, 18), để khuyên ngƣời có chí đi học thì đừng ngại
đƣờng xa.
Cụ thể hơn, Khổng tử nói: Ngƣời quân tử không đặt nặng vấn đề cái ăn chốn ở mà
chú
trọng việc làm và lời nói và cầu học để sửa mình: "Quân tử thực vô cầu bão, cư
vô cầu an,
mẫn ư sự nhi thận ư ngôn, tựu hữu nhi chính yên, khả vị hiếu học dã dĩ" (LN. I,
14) : Làm
việc chuyên cần, siêng năng, thận trọng lời nói, tìm ngƣời có học mà thỉnh ý để
sửa mình,
nhƣ vậy mới gọi là ngƣời ham học.
Chính Khổng tử đã làm gƣơng hiếu học, học suốt đời, học không mệt mỏi, học ngay
trong lúc dạy (LN. VII, 2, 3).
Thứ chín : Học một cách vui thú "lạc học":
Ngay trang đầu, dòng đầu sách Luận ngữ đã trang trọng ghi lời Khổng tử : "Học mà
mỗi bữa mỗi tập thì không gì vui - thích bằng; có bạn bè cùng chí hướng tìm đến
để đàm đạo
thì không gì vui - thú bằng" (LN.I,1)
48
Sự học, dù phải khổ công, mà biết học đúng cách thì sẽ dẫn đến niềm say mê, vui
thú.
Thiếu lòng say mê, vui thú thì sự học ấy chƣa có kết quả cao. Bởi vậy, sau đó
Khổng tử nhắc
lại:
"Tri chi giả bất như hiếu chi giả;
Hiếu chi giả bất như lạc chi giả " (LN. VI, 18)
Biết học không bằng thích học;
Thích học không bằng vui học.
Đã trở thành châm ngôn ngàn đời cho ngƣời học xƣa nay. Chính vui học là tiền đề
của
vui sống, là lạc - thú - trí - tuệ, là hạnh phúc (happiness) sƣ phạm lớn lao của
ngƣời học. Vì
vậy, Phan bội Châu nói: "Học đạo mà chưa biết vui đạo, ví như người ăn mà chưa
biết say
mùi, thời e nếm qua mà mau sinh chán, chẳng làm sao đạt được mục đích mình học.
Vậy nên
đã cầu học, thì tất phải cầu học cho đến vui, đã vui thời say, say thời nghiện
..." [2, 259 -
260]
Trong thực tế Khổng tử có nhiều lúc "vui đạo" sung sƣớng đến quên hết mọi buồn
rầu
(lạc dĩ vong ƣu). Cả tâm trí chỉ say mê vào việc học mà không hay tuổi già đã
tới nơi rồi! (bất
tri lão chi tƣơng chí) (LN.VII,18) Khi đã tìm đƣợc thú vui trong học tập thì dù
có "ăn cơm
rau, uống nước lã, co cánh tay làm gối, tuy không ăn uống gì sang nhưng phần
ngon vì mùi
đạo lý, tuy không vật chất gì thích mà sướng về tinh thần, thời niềm vui ở trong
đó rồi" [2,
260]
Đã vui học thì tất sẽ vƣợt khó
Đã vui học thì học một cách say sƣa, không mệt mỏi và đầy hứng thú. Đó chính là
hạnh phúc -
học tập.
Qua nội dung giáo dục của Khổng tử ta thấy nổi bất mối quan hệ biện chứng giữa
xã
hội - con ngƣời - giáo dục, trong đó con ngƣời là chủ thể tích cực và gắn liền
với cộng đồng
xã hội thông qua con đƣờng giáo dục.
49
Tóm lại nội dung giáo dục của Khổng tử rất phong phú. Từ NHÂN - LỄ -NGHĨA -
TRÍ - TÍN đến chữ HỌC. Khổng tử không chỉ dạy nội dung kiến thức mà còn dạy cả
phƣơng
pháp học, dạy cách học, cách suy nghĩ, cách hành động.
Nhà nghiên cứu Trung Quốc Vũ Đại Quang đã nhận định "Tóm lại nội dung giáo dục
của Khổng tử tƣơng đối toàn diện, mặc dù ông coi thƣờng công việc lao lực cần
thiết nhƣ làm
ruộng, trồng rau... nhƣng đồng thời với truyền thụ tri thức văn hóa, ông chú ý
bồi dƣỡng cho
học sinh kỹ năng thực tế." [25, 231]
Khổng tử khuyên cái gì cũng phải học, cả những nghề nhỏ cũng đáng xem xét dù
không đi sâu vào (LN. XIX, 4). Tử Hạ, học trò Khổng tử đã đúc kết những điều
thầy dạy
bằng phƣơng châm:
"Bác học nhi đốc chí, thiết vấn nhi cận tư, nhân tại kỳ trung hỉ": Học rộng mà
vẫn giữ
chí hƣớng, hỏi điều thiết thực mà nghĩ đến việc thiết thân. Đạo nhân ở trong đó.
Rõ ràng Khổng tử rất chú trọng đến cách học, đến phƣơng pháp giáo dục. Ngày nay,
khoa học đã chứng minh phƣơng pháp nắm trong tay nó vận mệnh của công trình. Bác
Hồ
cũng từng dạy: "Muốn học tốt, bên cạnh thái độ tốt còn cần có phƣơng pháp tốt".
Chính đồng
chí Phạm Văn Đồng cũng đã từng nhấn mạnh: "Trong nhà trường, điều chủ yếu không
phải
là nhồi nhét cho học trò một mớ kiến thức hỗn độn, tuy rằng kiến thức là cần
thiết. Điều chủ
yếu là giáo dục cho học trò phương pháp suy nghĩ, phương pháp suy luận, phương
pháp học
tập, phương pháp giải quyết vấn đề"
(*)
.
(*)
Phạm Văn Đồng - Hãy tiến mạnh trên mặt trận khoa học và kỹ thuật - NXB Sự Thật -
Hà Nội 1969.
50
Bên cạnh nội dung giáo dục phong phú, Khổng tử còn chủ ý đến các nguyên tắc giáo
dục.
CHƢƠNG VI: KHỔNG TỬ VỚI PHƢƠNG PHÁP GIÁO DỤC
A. Những tƣ tƣởng mang tính nguyên tắc
1) Muốn nên người, phải học
Không phải tự nhiên con ngƣời thành NGƢỜI.
NGƢỜI là kết quả của một quá trình học tập lâu dài, gian khó. NGƢỜI là phần
thƣởng cho những ai biết kiên trì tự luyện. Mọi ngƣời đều cần học. Ngƣời ham
nhân đức, có
lòng tốt, mà không ham học thì cũng bị cái u tối che lấp, khó thấy "cái hại"
đằng sau lòng tốt.
Ngƣời ham trí tuệ mà không ham học thì bị sự che lấp là phóng đãng. Ngƣời ham
trung tín
mà không ham học thì bị che lấp là sự tổn hại. Ngƣời ham ngay thẳng mà không ham
học thì
bị sự che lấp là gắt gao, mất lòng ngƣời. Ngƣời ham dũng cảm mà không ham học
thì bị sự
che lấp là loạn động. Ngƣời ham cƣơng cƣờng mà không ham học thi bị sự che lấp
là cuồng
bạo. (LN. XVII, 8). Rõ ràng là theo Khổng tử, muốn nên NGƢỜI, chữ ngƣời viết
hoa, con
ngƣời chân chính, hoàn thiện thì phải học. Không học không thành ngƣời chân
chính đƣợc.
Muốn ra khỏi nhà phải đi qua cửa. Muốn thành ngƣời hiểu biết, phải học. Ngọc bất
trác bất
thành khí Nhân bất học bất tri lý. Con ngƣời nhờ có học mà trí óc trở nên sáng
suốt, minh
mẫn để biết đạo lý, quy luật của cuộc sống, phân biệt phải, trái, và hành động
hợp lý, hợp
tình. Người quân tử cũng phải học tập rồi mới thấy được đạo" (LN. XIX, 7)
2). Học là một quá trình
Sự học diễn ra theo trình tự và đòi hỏi thời gian. "Khổng tử cứ tuần tự khéo d ạ
y dỗ
người: Lấy văn học làm rộng mở kiến thức của ta, lấy lễ nghĩa mà ước thúc hành
vi của ta dù
ta có muốn thôi cũng không được." (LN. IX, 10)
51
Khổng tử nói sự học nhƣ đắp núi. Cứ kiên tâm trì chí ngày này qua ngày khác, ắt
có
ngày núi sẽ cao. Nếu núi đã gần đủ cao, chỉ còn thiếu một sọt đất mà không cố
gắng đến, sọt
cuối cùng thì chẳng khác nào nửa đƣờng đứt gánh, sẽ không có kết quả. Lại nữa sự
học giống
nhƣ sự trồng trọt: bên cạnh nƣớc, phân, cần, giống còn cần có thời gian. Không
thể nóng lòng
muốn sớm có cây cao mà mỗi ngày ra "nhớm gốc" cây một ít ắt có ngày cây sẽ héo.
Sự học
càng cần có quá trình, ở đấy quy luật "dục tốc bất đạt" (Muốn nhanh thì sẽ không
thành) chi
phối chặt chẽ hơn bất kỳ nơi nào khác. Vì quá trình học tập là lâu dài "Vì lợi
ích trăm năm
trồng người" mà, nhƣng cũng không vì năm dài tháng rộng mà chểnh mảng, ngƣợc lại
phải
gắng sức không ngừng, sợ nhƣ không kịp, học đƣợc rồi lại sợ quên mất. "Học như
bất cập,
do củng thất chi" (LN. VIII, 17) Ngƣời thực sự ham học sẽ không ngại đƣờng xa.
Hơn nữa
"hành động hiện tại của chúng ta quyết định tương lai của chúng ta" .
3). Muốn học giỏi phải biết mở rộng thông tin (đa kiến, đa văn):
Khổng tử luôn nhắc nhở học trò phải biết nghe nhiều, nhìn rộng (Đa văn, đa kiến)
(LN. II, 18) để có nhiều tri thức. Ông nói: "Có những kẻ không biết mà cứ làm
càn, ta không
như vậy! Nghe nhiều, chọn điều phải mà theo; thấy nhiều mà ghi nhớ, nhờ vậy mà
có tri thức
rộng" (LN. VII, 27). Chính Khổng tử cũng tự nhận xét mình rằng: "Ta chẳng phải
trời sanh
ra đã biết, ta thích văn hóa cổ mà siêng năng tìm học" (LN. VII, 19). Và chính
ông đã làm
gƣơng: Đi đâu cũng xem xét và lắng nghe. Nghe chƣa đủ thì hỏi, gặp gì cũng hỏi
(mỗi sự
vấn) (LN. III, 15).
Thái độ biết lắng nghe và mở rộng tầm mắt để nhìn xa trông rộng cầu thị là thái
độ
cần có của ngƣời học ở mọi thời đại. Thái độ ấy càng cần biết gấp bội lần trong
thời đại bùng
nổ thông tin của chúng ta ngày nay.
52
Ngƣời hiếu học là ngƣời: "Mỗi ngày biết thêm điều mình chưa biết; mỗi tháng
không
quên những điều mình đã biết". (LN. XIX, 5) Điều này càng có ý nghĩa tích cực
trong xã hội
"dựa vào tri thức" mà chúng ta đang hƣớng tới ngày nay. Xã hội hậu công nghiệp,
xã hội
thông tin, đang đòi hỏi chúng ta ngày càng mở rộng tầm mắt, ngày càng lắng nghe
cặn kẽ, và
nghe cả những gì ngƣời khác không thể nói. Thế mới biết thái độ "đa văn, đa
kiến" của
Khổng tử là cần thiết đến ngần nào.