Luận án Thạc sĩ Giáo dục học: Tìm hiểu tư tưởng giáo dục của Khổng Tử
7,195
788
101
33
Không phải vô tình Khổng tử đặt Lễ sau Thi (Tử dĩ tứ giáo: Văn, Hạnh, trung, tín
(LN. VII, 24) "Lễ hậu hồ" (LN. III, 8).Lễ đi sau vì phải hƣng ƣ thi cho tình lớn
mạnh đã, rồi
mới tiết chế nó sau. Chƣa "hưng" mà "tiết" ngay thì lấy chi mà tiết?! [Nhƣ vậy
khẩu hiệu
"Tiên học lễ, hậu học văn" đi ngƣợc lại tinh thần của Khổng tử, do đời sau đi
quá trớn đến
chỗ "thượng lễ" (đặt lễ lên trên văn)].
Khổng tử quan niệm con ngƣời gắn liền với xã hội thì nhất định mỗi ngƣời phải
đƣợc
ƣớc thúc gò bó, không thể không có Lễ: Điều kiện tiên quyết để duy trì tự do là
phải hạn chế
tự do!
Thành ư Nhạc: là nét đặc sắc của Khổng học. Lòng yêu nhạc của Khổng tử thật là
sâu sắc và chan hòa. Cửa trƣờng Khổng tử luôn chan hòa đàn hát: Lời một ẩn sĩ
nói khi đi
ngang qua Khổng môn, nghe tiếng Khánh, thì khen ngƣời đánh Khánh là có tâm huyết
ƣu
thời mẫn thế. Thầy trò Khổng tử ngồi bàn chuyện cũng vừa đánh đàn vừa ca hát.
Anh Điểm -
một môn sinh của Khổng tử, tự là Tăng Tích - lúc đứng lên trình bày ý kiến riêng
mới buông
đàn ra cho nó ngân lên tiếng nhạc dài. (LN. XI, 25).
Trong tiểu phẩm của mình, giáo sƣ Trần Văn Khê kết luận:
"Như vậy, Khổng tử chẳng những biết luận về âm nhạc, mà còn sáng tác được âm
nhạc (như bản u Lan
(+)
). Nếu Ngài còn sống thời này, người ta sẽ gọi Ngài là một nhà Nhạc
học, một chuyên gia lý luận về âm nhạc và là một nhạc sĩ sáng tác" [12, 282]
Tƣ Mã Thiên cho rằng Khổng tử đã học đàn cổ cầm với Tƣơng tử. Và "năm ngày sau
khi mãn tang mẹ, Khổng tử lấy đàn Cầm ra đàn, mà lên dây đàn chẳng êm tai" (Lễ
Ký).
Khổng tử rất thích đàn Cầm. Đi đâu xa, gần ông cũng đem đàn theo, thƣờng đàn cho
học trò
nghe và giảng cho học trò biết những cái
34
hay của tiếng đàn Cầm. Ngoài ra, sách Luận ngữ còn ghi lại hai lần về cây đàn
sắt:
- Một hôm có ngƣời muốn gặp Khổng tử, ông không muốn tiếp nên cho học trò ra
nói: "Thầy hôm nay không được khỏe ". Nhƣng khi ngƣời khách vừa bƣớc ra thì
Khổng tử cất
tiếng ca và tự đệm đàn sắt, cốt cho ngƣời khách ấy nghe.
- Một hôm khác, Khổng tử chợt nghe tiếng đàn sắt của Tử Lộ, liền nói với các môn
sinh :
"Lạ quá ! Trong trường ta dạy chữ Hòa mà sao tiếng đàn của Do (tên của Tử Lộ)
lại
có tính cách sát phạt, không đúng như ta đã dạy ?! "
Môn sinh tìm Tử Lộ để nói lại lời phê bình của thầy, mới biết Tử Lộ đang đơn,
bỗng
thấy một con mèo rình bắt chuột. Do đó tiếng đàn có vẻ sát phạt !
Khổng tử chẳng những biết đờn lại biết nghe đờn đến độ có thể nhận ra đƣợc sự
giao
động trong tâm của ngƣời đang đờn. [12, 288]
Khổng tử còn biết ca và cùng hòa ca với những ngƣời khác. Luận ngữ ghi: Khi
Khổng
tử nghe ngƣời ta ca , bảo lặp lại lời ca để Khổng tử ca theo !
Theo Khổng tử "âm nhạc do xúc cảm trong lòng người sinh ra. Ai biết được bí
quyết
của âm nhạc tức là biết cái bí quyết làm giao động lòng người. Ai biết được bí
quyết làm
giao động lòng người tức là biết bí quyết dẫn dắt con người..." [12, 292]
Sức cảm hóa của nhạc thực ra Đông Tây đều nhận thấy: Tây phƣơng có câu chuyện
ẩn dụ của Orphée, một nhạc sĩ thiên phú có tiếng địch làm hiền đƣợc cả thú dữ và
chim
muông. Ngay ngƣời thầy duy lý nhƣ Socrate cũng chiêm bao thấy thần khuyên nên
học nhạc,
và cho rằng khi điệu nhạc đổi thì hiến chƣơng một nƣớc cũng đổi theo.
35
Do vậy, sau đó Platon chủ trƣơng bỏ thơ trong trƣờng học mà vẫn giữ lại nhạc.
Nên
sau này ta thấy các trƣờng cổ điển không có thơ, lễ, nhƣng có nhạc.
Tuy vậy Nho giáo vẫn là nơi quy cho nhạc một vai trò đặc biệt quan trọng: hoàn
thành
con đƣờng tiến hóa: đã khởi đầu ở thi, và đƣợc củng cố ở lễ, nhƣng thành đạt là
ở nhạc. Cái
tinh túy của nhạc là Hòa: "Nhạc dữ thiên địa đồng hòa". Hòa cùng con ngƣời, cùng
xã hội và
hòa với thiên nhiên. Nhạc biểu lộ tiết điệu một cách rõ rệt. Mà tiết điệu là Đạo
rồi: "Nhất âm
nhất dương chi vị Đạo."
Nhƣ vậy quá trình tu thân bắt đầu bằng thơ ca và kết thúc ở nhạc. Quá trình ấy
diễn ra
bằng Lễ và xoay quanh chữ "Nhân". Khổng tử là một trong những nhà tƣ tƣởng đầu
tiên của
nhân loại đã tập trung mọi sự chú ý của con ngƣời vào những vấn đề thuần túy
"con người".
Ông là nhà Nhân văn chủ nghĩa đầu tiên theo đứng nghĩa của nó. Đọc sách Luận
ngữ, ta thấy
phần lớn những câu chuyện của ông đều xoay quanh chữ "nhân". Toàn bộ Luận ngữ
gồm 502
bài, trong đó có 58 bài bàn riêng chẵn về "nhân". Chữ nhân xuất hiện cả thảy 109
lần, đứng
đầu trong Luận ngữ. Định cho nhân một nội dung cụ thể là rất khó vì đó là đức
tính tối cao,
khiến con ngƣời trở thành "Người" nhất . Có thể nêu lên bốn điểm chủ yếu của
"nhân":
- Rộng lƣợng với mọi ngƣời (Điều gì mình không muốn thì chớ làm cho ngƣời).
- Có một thái độ đúng đắn trong mọi hoàn cảnh.
- Dũng cảm nhận trách nhiệm.
- Giữ mình đúng lễ và an nhiên trƣớc mọi thử thách.
Khổng tử nói: "Nghiêm khắc đòi hỏi ở bản thân và rộng lượng cư xử với người; như
vậy người khác sẽ không oán giận mình." (LN.XV.14). Nhƣ vậy "nhân là yêu người",
là xử
mối quan hệ tốt đẹp giữa ngƣời với ngƣời.
36
Mặt khác, Khổng tử lại phiếm chỉ "nhân là lạc quan, là có tư tưởng, tình cảm cao
thượng". Ông nói: "Nhân là không lo buồn" [Nhân giả bất ƣu (LN. IX, 28)].
Khổng tử đặc biệt coi trọng sự giáo hóa. Từ góc độ này, ngay cái "ghét ngƣời"
của
ông, về thực chất là hình thức thể hiện khác của "yêu ngƣời" mà sau này nhà Nho,
nhà giáo
Nguyễn Đình Chiểu của ta đã diễn Nôm thành:
"Vì chưng hay ghét cũng là hay thương"
(Lục Vân Tiên)
Ở đây yếu tố tình cảm là không thể thiếu. Có "thấu tình mới đạt lý". Mà muốn
ngƣời
"thấu tình ta" thì ta phải "thấu tình người". Bởi lẽ về mặt tâm lý học, sự "phản
hồi yêu
thương" là một đặc điểm chung của loài ngƣời, và là cơ chế để "đắc nhân tâm"
vậy.
Tóm lại quá trình "tu thân" ở đây là quá trình hƣớng tới mục tiêu "thành nhân",
nói
theo thuật ngữ ngày nay là hƣớng tới một "mẫu nhân cách" vừa có giá - trị - tâm
- linh vừa có
giá - trị - xã - hội.
- Giá – trị - tâm - linh là hƣớng thƣợng để hoàn thành nhân cách.
- Giá - trị - xã - hội là hƣớng thiện tích cực - vì đời để trở nên nhân tài -
ích nƣớc lợi
dân.
Vào thời Xuân Thu của Khổng tử, Trung quốc đang dần dần tiến tới xã hội phong
kiến. Trong điều kiện lịch sử nhƣ vậy, ông rất coi trọng nhân tài, coi nó có tác
dụng quyết
định bƣớc tiến của đất nƣớc, nên ra sức "cử hiền" (cất nhắc ngƣời tài), đồng
thời tự bản thân,
Khổng tử trƣờng kỳ tiến hành công việc giáo dục trong thực tế đối với mọi ngƣời,
kể cả giới
bình dân, dạy dỗ và tiến cử cho xã hội một lƣợng nhân tài vô cùng lớn với rất
nhiều loại năng
lực khác nhau. Tổng số đến 3000 ngƣời!
37
Xét kỹ, quan điểm của Khổng tử về nhân tài có tính chất đi trƣớc thời đại, vƣợt
trƣớc
lịch sử. Đúng nhƣ nhà nghiên cứu Phan Nải Việt (TQ) đã nhận định:
"Đọc kỹ những bàn luận của Khổng tử về vấn đề nhân tài, không khó phát hiện ra
rằng, vấn đề ấy không những là một cái mới đối với người đương thời, mà cho tới
tận cả
ngày nay cũng vẫn không mất đi ý nghĩa hiện thực". [39, 350]
Rõ ràng bài học giáo dục nhân tài vẫn còn giá trị nóng hổi đến ngày nay và không
riêng cho Trung Quốc. Đặc biệt trong thời đại hậu công nghiệp, bởi lẽ nhƣ các
nhà nghiên
cứu lịch sử đã nhận xét nếu nhƣ trong xã hội nô lệ, tiêu chí định giàu có là số
- lƣợng - nô -
lệ; tiêu chí định giàu có của xã hội phong kiến là số - lƣợng - ruộng - đất;
tiêu chí chủ yếu
quy định giàu có của xã hội Tiền -công - nghiệp là số lƣợng tiền - vốn (tƣ bản),
thì tiêu chí
chủ yếu quy định giàu có của xã hội Hậu - công - nghiệp là chất - xám, là nhân
tài! Điều này
đƣợc Khổng tử tiên liệu hơn 2500 năm trƣớc :
"Vi chính tại nhân"
(Lễ Ký - Trung Dung)
Ở Việt Nam, ông cha ta đã từng coi trọng và đánh giá cao Nhân tài: "Hiền tài là
nguyên khí của nhà nước. Nguyên khí vững thì thế nước mạnh và thịnh ; nguyên khí
kém thì
thế nước yếu và suy. Cho nên các đấng thánh đế minh vương không ai không chăm lo
việc
gây dựng nhân tài, bồi đắp nguyên khí" [40]
Nhƣng Nhân vô thập toàn, căn cứ vào đâu để tuyển chọn nhân tài? Khổng tử cho
rằng: Cần phải xem cái chính, cái đại thể, cái sở trƣờng, tức là nhìn vào sức
cống hiến, vào
giá trị - xã hội của nhân cách, chứ không chú ý vào cái chi li tiểu tiết, không
nên quá chú ý
đến những tiểu dị, những thiếu sót, sai lầm của họ. Cần phải dung thứ, độ lƣợng
với những
nhƣợc điểm, sai sót của họ.
38
Cần phải có lòng khoan dung, rộng lƣợng nhƣ thế mới có thể phát hiện đƣợc nhân
tài, mới có
thể tiến cử, cất nhắc đƣợc ngƣời tài. Khổng tử dạy:
"Xá tiểu quá, Cử hiền tài": Bỏ qua lỗi nhỏ, cất nhắc ngƣời có tài lớn. (LN.
XIII, 2)
Có thể nói Khổng tử là ngƣời đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc đề ra một ý nghĩ
khác
với huyết thống luận. Khổng tử có đến 3000 học trò, trong đó phần lớn xuất thân
từ nghèo
khó. Mục đích của việc giáo dục của ông là đào tạo nhân tài cho xã hội. Vì vậy,
có thêm bằng
cớ để khẳng định rằng ông đã phá việc tuyển chọn ngƣời căn cứ theo huyết thống
luận mà
chủ trƣơng phải căn cứ vào hành động thực tiễn. Ngày nay các nhà nho học vẫn
quan niệm
"Nhân tài là báu nước nhà ", là "trụ cột của quốc gia" ... Thế nhƣng trƣớc khi
trở thành
ngƣời "trị quốc, bình thiên hạ ", kẻ sĩ phải là ngƣời "tề gia". Phải là ngƣời
giữ đƣợc "nền
nếp gia phong" để gia đình thuận hòa hạnh phúc ấm êm, thì mới nêu gƣơng để trị
quốc.
Trong đại gia đình phƣơng Đông có các mối quan hệ nhƣ ông bà, cha mẹ với cháu,
con
(Hiếu) ; anh chị em với nhau (đễ); và vợ - chồng với nhau (Nghĩa). Các mối quan
hệ ấy phải
đƣợc vẹn toàn đẹp đẽ :
"Thuận chị em trên dưới gia tề,
Nghịch chồng vợ cửa nhà hư hại ". [4]
Nhƣng trƣớc hết vẫn là chữ Hiếu. Khi Tử Do hỏi thế nào là hiếu, Khổng tử đáp :
"Ngày nay, người ta cho rằng hiếu là biết nuôi dưỡng cha mẹ; nhưng đến như chó
ngựa
người ta cũng nuôi dưỡng nó vậy. Nuôi dưỡng mà không kính trọng thì sao có thể
gọi là
hiếu?!" (LN. II, 7)
Trong khi Tử Hạ cũng hỏi về hiếu, thì Khổng tử đáp: Đỉnh cao của chữ hiếu là giữ
được sự hòa vui trên nét mặt. Đó là việc khó! ("sắc nan" !). (LN. II. 8).
Khó, nhƣng khó khăn không có nghĩa là không làm đƣợc. Và chính vì khó làm nên
khi làm đƣợc thì giá trị mới cao! Cha mẹ thƣờng lấy niềm vui của con
39
cái làm niềm hạnh phúc cho mình. Bởi vậy, chăm lo cái ăn cái mặc cho cha mẹ đầy
đủ mà
không kính trọng thì không thể gọi là hiếu. Đã đành. Nhƣng chăm sóc chu đáo,
kính trọng rất
mực mà vẻ mặt lúc nào cũng đăm chiêu, lo lắng (biến sắc hay thất sắc) thì có cho
ăn vàng cha
mẹ cũng không vui, ngƣợc lại cha mẹ còn chẳng an lòng. Làm cho cha mẹ bất an thì
sao gọi
là hiếu đƣợc?! Cho nên điều khó nhất mà cũng là đỉnh cao nhất của đạo hiếu là
giữ vẻ mặt
hòa vui trƣớc cha mẹ.
Thật ra, đó cũng là căn cơ của hạnh phúc. Cho nên gần đây nhiều nơi trên thế
giới chủ
trƣơng dạy cƣời. Trung tâm dạy cƣời ở Nhật ngày càng đông ngƣời theo học.
Trƣớc hết là biết cách mỉm cƣời. Một trong những lợi ích của dạy cách mỉm cƣời
là
làm thƣ dãn những bắp thịt trên mặt cũng nhƣ trên toàn thân. "Cười là tập yoga
cho cái
miệng". Những nghiên cứu gần đây cũng cho thấy là khi ta thực tập tỏ lộ niềm vui
thì những
bắp thịt trên mặt liền tác động lên hệ thần kinh của ta khiến ta tự nhiên thấy
vui thực sự.
(Arold Kotler - Mỹ 1990)
Rõ ràng tề gia đã trở thành tiêu chuẩn để xây dựng hạnh phúc gia đình. Mà gia
đình là
tế bào kiến tạo nên quốc gia, xã hội. Nên gia tề còn là điều kiện của quốc trị
và thiên hạ
bình. Về trị quốc: Khổng tử chủ trƣơng dùng Đức trị. Ông nói: "làm chính trị mà
dùng đức
để cảm hóa dân thì như sao Bắc Đẩu ở một nơi cố định mà các sao khác hướng về"
(LN. II,
1). Ý nói nhà cầm quyền có đức thì thiên hạ theo về, quy phục.
Đây là chủ trƣơng "vô vi" theo kiểu Khổng tử: không phải dùng hình pháp, tránh
đƣợc
phiền phức, chống đƣợc mọi biến động. Ông phản đối việc dùng bạo lực hay hình
phạt. Theo
Khổng tử "nếu dùng chính lệnh để dắt dẫn dân, dùng hình phạt để bắt dân vào
khuôn phép,
dân tránh khỏi tội nhưng không biết hổ
40
thẹn. Trái lại, dùng đạo đức để dắt dẫn dân, dùng lễ để đặt dân vào khuân phép,
dân biết hổ
thẹn mà theo đường chính" (LN. II, 3)
Khổng tử chỉ ra một cách cụ thể: "Cai trị một nước, khi dân đã đông (thứ) thì
phải
làm cho dân giàu (phú chi). Khi dân đã giàu thì phải dạy dỗ dân (giáo chi)" (LN.
XIII, 9)
Tại sao cần phải làm giàu cho dân trƣớc rồi mới giáo dục dân sau? Điều này có
mâu
thuẫn hay không với câu nói của Khổng tử "Quân tử dụ ƣ nghĩa, tiểu nhân dụ ƣ
lợi" (LN. IV,
16). Quân tử ở đây là ngƣời cai trị dân còn tiểu nhân là ngƣời dân, bị trị. Vì
ngƣời dân hiểu rõ
về lợi, cho nên ngƣời trị dân riêng phần mình thì không tính lợi, nhƣng phải xét
cái lợi của
dân mà làm lợi cho họ. Đối với dân phải làm cho họ thấy cái lợi trƣớc, rồi sau
đó mới nói đến
nghĩa đƣợc. Nhƣ vậy đối với ngƣời trị quốc , bình thiên hạ thì phải "lo trƣớc
cái lo của thiên
hạ và vui sau cái vui của thiên hạ", phải lấy "lợi cho thiên hạ" làm nghĩa vụ
của mình
Khổng tử hết sức chú trọng việc giáo dục dân. Ông nói: "Đƣa dân
-không-đƣợc-giáo-
dục ra đánh giặc, tức là bỏ dân" (LN. XIU, 30). Muốn đƣa dân ra chiến đấu, trƣớc
hết phải
giáo dục họ.
Muốn giáo dục dân phải giữ chữ TÍN.
Nói về cách trị dân, Khổng tử nhấn mạnh ba điều: "Lương thực đủ, binh bị đủ, dân
tin chính quyền". "Trong ba điều đó nếu phải bỏ một điều thì phải bỏ binh bị.
Trong hai điều
còn lại nếu bất đắc dĩ phải bỏ một nữa thì bỏ lƣơng thực. Nếu dân mất niềm tin
thì chính
quyền không còn!" (LN. XII, 7)
Để giữ niềm tin ở dân. Khổng tử khuyên ngƣời cai trị phải giữ mình cho ngay
chính.
Ông nói rõ: "kỳ thân Chính, bất lệnh nhi hành ; Kỳ thân bất Chính tuy lệnh bất
tùng" (LN.
XIII. 6) : Thân mình mà chính đáng, ngay thẳng, đàng
41
hoàng, dù không ra lệnh ngƣời dân cũng làm theo; thân mình không chính đáng, dù
cố ra lệnh
dân cũng chẳng theo.
Khổng tử nói: làm chính trị mà dùng Đức để cảm hóa thì giống nhƣ sao Bắc đẩu,
đứng ở một chỗ mà các ngôi sao khác đều hƣớng về. Sao Bắc đẩu cách trái đất rất
xa, khoảng
782 năm ánh sáng. Do vậy ngƣời xƣa không cảm thấy sự chuyển động của nó, cho
rằng nó
đứng yên một chỗ mà không di động. Vì thế câu nói của Khổng tử có nghĩa là: Nếu
nhƣ
ngƣời lãnh đạo dùng Đức trị thì giống nhƣ sao Bắc đẩu định vị ở giữa trời còn
các vì sao khác
đều chuyển động xoay quanh nó. Sự ví von của Khổng tử nhƣ vậy thật sinh động và
chính
xác. Trong xã hội nếu nhƣ mọi thành viên đều tự giác và không phải bị ép buộc,
gò bó (quan
hệ giữa các vì sao là dựa vào sức hút lẫn nhau) hành động xoay quanh mục tiêu,
quan niệm
giá trị, mẫu mực đạo đức của nhà cầm quyền, thì xã hội ấy nhất định là đang ở
trong trạng
thái tốt đẹp nhất
Hạt nhân trong tƣ tƣởng đức trị của Khổng tử là giáo hóa. Thông qua giáo dục,
dẫn
dắt và tiêu chuẩn hóa hƣớng lựa chọn hành động và đƣờng đi của con ngƣời, làm
cho mọi
ngƣời xây dựng đƣợc quan niệm giá trị chung.
Tóm lại, đức trị là dựa vào giáo dục, dựa vào tƣ tƣởng, tình cảm để giải quyết
mọi vấn
đề.
Tƣ chỗ biết thấu đáo sự vật xung quanh (cách vật trí tri) đến chỗ tu thân hoàn
thiện và
có mối quan hệ tốt đẹp với những ngƣời thân trong gia đình (tề gia), rồi trở
thành một thành
viên tích cực đối với cộng đồng xã hội (chính danh), góp phần làm cho quốc gia
thanh trị,
thiên hạ thái bình, là tiến trình giáo dục mà Khổng tử đề ra với những nội dung
giáo dục cụ
thể gắn với từng giai đoạn trong tiến trình ấy. Về sau các nhà Nho khái quát
thành Tam
cƣơng: Quân -Thần, Phụ - Tử, Phu - Thê. Trong đó vị trí ngƣời phụ nữ chỉ đƣợc
nhìn nhận
trong quan hệ vợ chồng (Phu - Thê) hoàn toàn vắng bóng trong hai cƣơng đầu: Quân
–
42
Thần, Phụ - Tử. Do vậy một hệ luận tất yếu, có tính nhất quán trong tƣ tƣởng
giáo dục của
Khổng tử là để xây dựng xã hội theo tôn ti trật tự của Nho giáo thì không cần
giáo dục ngƣời
phụ nữ. Ngƣời phụ nữ không đƣợc đi học đó là hạn chế lớn trong nền giáo dục
phong kiến.
CHƢƠNG V: KHỔNG TỬ DẠY CÁCH HỌC
Bên cạnh những nội dung cụ thể và thiết thực để xây dựng nhân cách con ngƣời, từ
chỗ là một cá thể, đại diện cho loài, đến chỗ là một thành viên tích cực của gia
đình, đến một
công dân trong cộng đồng xã hội.... Khổng tử còn đặc biệt quan tâm đến một nội
dung quan
trọng mà thiếu nó, ngƣời học không thể tiếp thu những nội dung kể trên. Đó là
học - cách -
học, học - phƣơng pháp - giáo dục để nâng cao hiệu quả đào tạo và tự đào tạo.
Mở đầu Luận ngữ là một câu nói nổi tiếng của Khổng tử, trở thành tiêu đề của một
chƣơng (thiên), chƣơng đầu tiên : "Học nhi" : "Học nhi thời tập chi, bất diệc
duyệt hồ" :
Học mà mỗi buổi mỗi luyện tập thì không có gì vui thích bằng ! (LN. I, 1) -
Học gắn liền với luyện tập ; học đi đôi với hành. Đó là cách học thứ nhất. Bởi
lẽ học mà không hành thì khó nhớ. Chính Lão tử cũng nói : "'Những gì ta nghe, ta
sẽ quên ;
những gì ta thấy tận mắt, ta có thể nhớ phần nào; chính những gì ta làm ta sẽ
nhớ đời!" Bên
cạnh ký ức, để hình thành kỹ năng. kỹ xảo thì tất nhiên không thể không tập
luyện. Có khổ
luyện mới đạt mức điêu luyện. Kỹ xảo không tự có. Nó là kết quả của một quá
trình luyện tập
lâu dài. Không có một sự giáo dục nào có thể thành công đƣợc nếu tách rời cái
hiểu với cái
hành.
Cách thứ hai : Học phải suy nghĩ. Suy nghĩ là để học tập "Học nhi bất tri tắc
võng,
tư nhi bất học tắc đãi" (LN. II, 15). Học mà không suy nghĩ thì