Luận án Thạc sĩ Giáo dục học: Tìm hiểu tư tưởng giáo dục của Khổng Tử

7,059
788
101
23
Hình 2. Khng T và các môn sinh
23 Hình 2. Khổng Tử và các môn sinh
24
"Nhà sƣ phạm chân chính, không chp nhn mt xã hi không có k cƣơng" [41,15].
Giáo dục trƣớc hết là đức dc.
... Ngoài hi, Khng t dy phi lấy lòng nhân ái mà đối đãi với mọi ngƣời; phi
cn thn và thành thực, thƣơng yêu mọi ngƣời và gần gũi ngƣời nhân đức! (LN. I. 6)
Khng t ch trƣơng trƣớc hết phi tu thân ri mi t gia, tr quốc... Nghĩa là phải
đạo đức đã rồi mi làm chính tr. Ông nói: hết tâm trí vào đạo lý, c gi đức hnh, theo
điều nhân ái... còn vic hc lc ngh là ph". (LN. VU .6)
Ông đòi hỏi hc trò phi luôn luôn t xét mình, làm ch lấy mình: Ngƣời quân t có 9
mối xét nét để t tu sa bn thân (LN. XVI, 10). Và tu thân là nhim v trng yếu cơ bản ca
mỗi ngƣời không phân biệt đẳng cấp hay địa vhi "t thiên t chí ƣ thứ dân, nht th
giai dĩ tu thân vi bản"
CHƢƠNG III. KHNG T VI MC TIÊU XÂY DNG MU
NGƢI QUÂN T
Đối vi Khng t:
1. Hc trƣc hết là đ biết, đ làm - ngƣi - - tri - thc.
Ông nói:
"Ngc bt trác bt thành khí
Nhân bt hc bt tri đạo"
Ngc không mài giũa không nên vật trang sc quý; Ngƣời không hc không tri
thức (đạo thi by gi tri thc, là hiu biết quy lut vn hành ca vn vt). Tc thành
ngƣời trí thc (TRÍ). Mun vy phi tìm hiu cho thu trit ngn ngun s vt (cách vt trí
tri). Có tri chân mi có th hành thin. Đó là chữ trí. Bên cnh ch Trí, Khng t còn nhn
mạnh đến ch NHÂN.
2. Hc đ làm ngƣời - có lòng nhân:
Hạt nhân trong tƣ tƣởng ca Khng t "Nhân ". Nhân quan h ln nhau gia
ngƣời với ngƣời trong sinh hot xã
24 "Nhà sƣ phạm chân chính, không chấp nhận một xã hội không có kỷ cƣơng" [41,15]. Giáo dục trƣớc hết là đức dục. ... Ngoài xã hội, Khổng tử dạy phải lấy lòng nhân ái mà đối đãi với mọi ngƣời; phải cẩn thận và thành thực, thƣơng yêu mọi ngƣời và gần gũi ngƣời nhân đức! (LN. I. 6) Khổng tử chủ trƣơng trƣớc hết phải tu thân rồi mới tề gia, trị quốc... Nghĩa là phải có đạo đức đã rồi mới làm chính trị. Ông nói: "Để hết tâm trí vào đạo lý, cố giữ đức hạnh, theo điều nhân ái... còn việc học lục nghệ là phụ". (LN. VU .6) Ông đòi hỏi học trò phải luôn luôn tự xét mình, làm chủ lấy mình: Ngƣời quân tử có 9 mối xét nét để tự tu sửa bản thân (LN. XVI, 10). Và tu thân là nhiệm vụ trọng yếu cơ bản của mỗi ngƣời không phân biệt đẳng cấp hay địa vị xã hội "tự thiên tử dĩ chí ƣ thứ dân, nhất thị giai dĩ tu thân vi bản" CHƢƠNG III. KHỔNG TỬ VỚI MỤC TIÊU XÂY DỰNG MẪU NGƢỜI QUÂN TỬ Đối với Khổng tử: 1. Học trƣớc hết là để biết, để làm - ngƣời - có - tri - thức. Ông nói: "Ngọc bất trác bất thành khí Nhân bất học bất tri đạo" Ngọc không mài giũa không nên vật trang sức quý; Ngƣời không học không có tri thức (đạo thời bấy giờ là tri thức, là hiểu biết quy luật vận hành của vạn vật). Tức là thành ngƣời trí thức (TRÍ). Muốn vậy phải tìm hiểu cho thấu triệt ngọn nguồn sự vật (cách vật trí tri). Có tri chân mới có thể hành thiện. Đó là chữ trí. Bên cạnh chữ Trí, Khổng tử còn nhấn mạnh đến chữ NHÂN. 2. Học để làm ngƣời - có lòng nhân: Hạt nhân trong tƣ tƣởng của Khổng tử là "Nhân ". Nhân là quan hệ lẫn nhau giữa ngƣời với ngƣời trong sinh hoạt xã
25
hi. Ch nhân gm ch nhân bên trái người, ch nh bên phi là hai,
ợng trƣng cho số nhiều… Vậy là nhân là quan h giữa ngƣời với ngƣời trong cộng đồng xã
hi. Ni dung ca ch Nhân bao hàm c: Hiếu, đễ trung, th. Ông nói: "Hiếu, đễ cái
gốc để làm người "
Hc trò ông li nói: "Tư tường ca thy nói tóm li mt t, chng qua TRUNG
TH thôi". TRUNG biểu đạt tình cm chân thành xut phát t trong lòng mình. Theo
Phan Bi Châu thì ch TRUNG bao gm ch Trung là trong trên ch Tâm
lòng." Nghĩa là nhất thiết x vic, tiếp người, đều móc trong lòng mình ra, không mt tí gì
di lòng, y TRUNG, là cái "th" ca ch NHÂN" [2]. Nghĩa là hết lòng, nghĩa "quên
mình" vì ngƣời, là TRUNG THÀNH vy.
Còn ch Th viết ch "như" trên ch "tâm i, nghĩa là ng phó
vi nht thiết ngƣời nào tt thảy xem ngƣời nhƣ mình. Suy trong lòng mình mà đo lƣờng
đến lòng ngƣời thi biết đƣợc lòng ngƣời cũng nhƣ lòng mình mà đối đãi bằng mt cách bình
đẳng, bác ái. Ấy là nghĩa chữ THchính là cái "dng" ca ch NHÂN vy (1). Nói cách
khác, theo li Khng t "th" "vic mà mình không thích, ch áp đặt cho người ".
Nhƣ vậy, mc tiêu giáo dc ca Khng t là đào tạo con ngƣời vừa DŨNG, vừa TRÍ,
va NHÂN - ngƣời quân t. Theo Vũ Đại Quang thì:
"Bồi dưỡng những chí sĩ thương người có tiết tháo cao thượng và nhng quân t Nho
gia có tri thức uyên bác, đó là mục đích giáo dục mà Khng t rt nhn mnh" [25, 232]
Ông cho rng k sĩ phải có chí truy tìm chân lí, không xu hphải ăn đói mặc rách,
ngay c tính mng thậm chí cũng có thể coi nh, "sáng nghe được đạo, chiu chết cũng vui ".
(LN. IV, 8).
25 hội. Chữ nhân gồm chữ nhân bên trái là người, và chữ nhị bên phải là hai, tƣợng trƣng cho số nhiều… Vậy là nhân là quan hệ giữa ngƣời với ngƣời trong cộng đồng xã hội. Nội dung của chữ Nhân bao hàm cả: Hiếu, đễ và trung, thứ. Ông nói: "Hiếu, đễ là cái gốc để làm người " Học trò ông lại nói: "Tư tường của thầy nói tóm lại một từ, chẳng qua là TRUNG THỨ mà thôi". TRUNG biểu đạt tình cảm chân thành xuất phát từ trong lòng mình. Theo Phan Bội Châu thì chữ TRUNG bao gồm chữ Trung là trong trên chữ Tâm là lòng." Nghĩa là nhất thiết xử việc, tiếp người, đều móc ở trong lòng mình ra, không một tí gì dối lòng, ấy là TRUNG, là cái "thể" của chữ NHÂN" [2]. Nghĩa là hết lòng, nghĩa là "quên mình" vì ngƣời, là TRUNG THÀNH vậy. Còn chữ Thứ viết chữ "như" ở trên chữ "tâm ở dƣới, nghĩa là ứng phó với nhất thiết ngƣời nào tất thảy xem ngƣời nhƣ mình. Suy ở trong lòng mình mà đo lƣờng đến lòng ngƣời thời biết đƣợc lòng ngƣời cũng nhƣ lòng mình mà đối đãi bằng một cách bình đẳng, bác ái. Ấy là nghĩa chữ THỨ mà chính là cái "dụng" của chữ NHÂN vậy (1). Nói cách khác, theo lời Khổng tử "thứ" là "việc mà mình không thích, chớ áp đặt cho người ". Nhƣ vậy, mục tiêu giáo dục của Khổng tử là đào tạo con ngƣời vừa DŨNG, vừa TRÍ, vừa NHÂN - ngƣời quân tử. Theo Vũ Đại Quang thì: "Bồi dưỡng những chí sĩ thương người có tiết tháo cao thượng và những quân tử Nho gia có tri thức uyên bác, đó là mục đích giáo dục mà Khổng tử rất nhấn mạnh" [25, 232] Ông cho rằng kẻ sĩ phải có chí truy tìm chân lí, không xấu hổ vì phải ăn đói mặc rách, ngay cả tính mạng thậm chí cũng có thể coi nhẹ, "sáng nghe được đạo, chiều chết cũng vui ". (LN. IV, 8).
26
3. Chiu sâu trong mục đích giáo dục theo Khng t không phi ch "biết" ,
ch là Tri thc, mà còn phi "làm ", phải "hành đạo" .
Ngƣời quân t phi học để thấu đạo (tri đạo). Thấu đạo ri mới hành đạo, giúp đời,
cứu ngƣời. Tri chân, hành thin: biết cho thu trit, sng cho tuyt vi. Khng t phê phán li
hc mà không hành: "người xưa thận trng li nói, s s xu h nếu nói mà không làm được"
(LN. IV, 22)
Tc là tƣ tƣởng chính tr hoá giáo dục mà ta đề cp phn trên.
Tr li vi khái nim Trung trên ta có th nói thêm, đối vi Khng t "Trung "
đạo đức thc hành, vừa hƣớng ni, vừa hƣớng ngoại. Hƣớng ni ch s trung thành, trung
thực, trung trinh; hƣớng ngoi ch s hết lòng, hết sc, hết mình, vì ngƣời, vô tƣ. Nhƣ vậy, để
đạt ch trung, k sĩ không thể không thực hành. Chính hành động mi bc l lòng trung.
Còn ch "th"?. Ch "th" cũng đƣợc Khng t định ranh gii ràng. Trong Lun
ng, thiên V Linh Công, đoạn đối thoi thú gia Khng t T Cng, hc trò ca
ông, nhƣ sau: "T cng hi: Có câu nói nào có th suốt đời theo đuổi không? Khng t đáp
rằng: Có. Đó là đạo "thứ" chăng ? Việc gì mình không thích, ch áp đặt cho người" . Tc là
nói đến hành vi vic làm
Ch khác, Khng t li nói: "Vic gì mình muốn đạt tới, hãy giúp cho người khác đạt
tới trước; Vic gì mình mun lập nên, hãy giúp cho người lập nên trước" (LN. VI, 28)
Cũng ám chỉ giá tr hành động vy. Mẫu con ngƣời, mu nhân cách Khng t
muốn đào tạo đã đƣợc ông tóm tt trong câu nói:
"Chí ư đạo, c ư đức, y ư nhân, du ư nghệ" (LN. VII, 6)
26 3. Chiều sâu trong mục đích giáo dục theo Khổng tử không phải chỉ là "biết" , chỉ là Tri thức, mà còn phải "làm ", phải "hành đạo" . Ngƣời quân tử phải học để thấu đạo (tri đạo). Thấu đạo rồi mới hành đạo, giúp đời, cứu ngƣời. Tri chân, hành thiện: biết cho thấu triệt, sống cho tuyệt vời. Khổng tử phê phán lối học mà không hành: "người xưa thận trọng lời nói, sợ sẽ xấu hổ nếu nói mà không làm được" (LN. IV, 22) Tức là tƣ tƣởng chính trị hoá giáo dục mà ta đề cập ở phần trên. Trở lại với khái niệm Trung ở trên ta có thể nói thêm, đối với Khổng tử "Trung " là đạo đức thực hành, vừa hƣớng nội, vừa hƣớng ngoại. Hƣớng nội chỉ sự trung thành, trung thực, trung trinh; hƣớng ngoại chỉ sự hết lòng, hết sức, hết mình, vì ngƣời, vô tƣ. Nhƣ vậy, để đạt chữ trung, kẻ sĩ không thể không thực hành. Chính hành động mới bộc lộ lòng trung. Còn chữ "thứ"?. Chữ "thứ" cũng đƣợc Khổng tử định ranh giới rõ ràng. Trong Luận ngữ, thiên Vệ Linh Công, có đoạn đối thoại lí thú giữa Khổng tử và Tử Cống, học trò của ông, nhƣ sau: "Tử cống hỏi: Có câu nói nào có thể suốt đời theo đuổi không? Khổng tử đáp rằng: Có. Đó là đạo "thứ" chăng ? Việc gì mình không thích, chớ áp đặt cho người" . Tức là nói đến hành vi việc làm Chỗ khác, Khổng tử lại nói: "Việc gì mình muốn đạt tới, hãy giúp cho người khác đạt tới trước; Việc gì mình muốn lập nên, hãy giúp cho người lập nên trước" (LN. VI, 28) Cũng ám chỉ giá trị ở hành động vậy. Mẫu con ngƣời, mẫu nhân cách mà Khổng tử muốn đào tạo đã đƣợc ông tóm tắt trong câu nói: "Chí ư đạo, cứ ư đức, y ư nhân, du ư nghệ" (LN. VII, 6)
27
Đó là một mẫu ngƣời hin tài thc s, một nhân tài đích thực. Nhân cách y phi gm
đủ bn yếu t:
- Chí ư đạo: tức là xác định rõ mục đích của cuộc đời, hun đúc một lý tƣởng sng và
vì lý tƣởng y mà hiến thân, lp chí.
- C ư đức : tức là n c vào đạo đức mà làm vic, làm vic thc s và hoàn thành
tt công việc trên cơ sở đạo đức.
- Y ư nhân : tc là gần điều nhân, nƣơng theo lòng nhân ái làm việc. Thc hin
điều nhân, yêu thƣơng con ngƣời, quan h tốt đẹp với con ngƣời và thái độ đứng đắn vi
bn thân.
- Du ư ngh : vui vi lc ngh. Thi Khng t, lc ngh gm: l, nhc, x, ngự, thƣ
c sách viết ch) và s (toán pháp). Ch yếu ch nhng k thut c th, theo Phan
Ni Vit so sánh thì:
"... du ư nghệ ca Khng t theo quan điểm ngày nay mà nói thì, đó chính là chân tài
thc hc, k ngh cao siêu, chuyên gia giỏi. Đồng thi, “du ư nghệ” cũng phản ánh
quan điểm ca Khng t v nhân tài là cn phi có chuyên môn k thut sâu rng'' [38, 381]
Trong thiên Vi chính sách Lun ng, Khng t li nói:
"Quân t bt khí" - Ngƣời quân t không phi khí c, phải tài năng đa
phƣơng, thể ng phó vi nhng nhu cầu đa dạng, trong nhng tình hung bt ng ca
cuc sng. Ngày nay ta phát trin thành mẫu ngƣời năng động sáng to, ch không máy
móc.
Tóm li, mục đích giáo dục ca Khng t là đào tạo con ngƣời tài, đức song toàn để
x thân đem lại an bình cho thiên h.
4. Mẫu ngƣời hành -động - vì - đời - mẫu ngƣời quân t:
là ngƣời rt tốt nhƣ Phan Bội Châu đã phân tích: "vì c sao một ngƣời rt tt gi
quân t? Bởi ngƣời ấy đạo đức đã cao, tài năng cũng giỏi, nhân cách li rt hoàn toàn, nếu
đem ra gánh việc xã hi thi
27 Đó là một mẫu ngƣời hiền tài thực sự, một nhân tài đích thực. Nhân cách ấy phải gồm đủ bốn yếu tố: - Chí ư đạo: tức là xác định rõ mục đích của cuộc đời, hun đúc một lý tƣởng sống và vì lý tƣởng ấy mà hiến thân, lập chí. - Cứ ư đức : tức là căn cứ vào đạo đức mà làm việc, làm việc thực sự và hoàn thành tốt công việc trên cơ sở đạo đức. - Y ư nhân : tức là gần điều nhân, nƣơng theo lòng nhân ái mà làm việc. Thực hiện điều nhân, yêu thƣơng con ngƣời, quan hệ tốt đẹp với con ngƣời và có thái độ đứng đắn với bản thân. - Du ư nghệ : vui với lục nghệ. Thời Khổng tử, lục nghệ gồm: lễ, nhạc, xạ, ngự, thƣ (đọc sách và viết chữ) và số (toán pháp). Chủ yếu chỉ những kỹ thuật cụ thể, mà theo Phan Nải Việt so sánh thì: "... du ư nghệ của Khổng tử theo quan điểm ngày nay mà nói thì, đó chính là chân tài thực học, có kỹ nghệ cao siêu, là chuyên gia giỏi. Đồng thời, “du ư nghệ” cũng phản ánh quan điểm của Khổng tử về nhân tài là cần phải có chuyên môn kỹ thuật sâu rộng'' [38, 381] Trong thiên Vi chính sách Luận ngữ, Khổng tử lại nói: "Quân tử bất khí" - Ngƣời quân tử không phải là khí cụ, mà phải có tài năng đa phƣơng, có thể ứng phó với những nhu cầu đa dạng, trong những tình huống bất ngờ của cuộc sống. Ngày nay ta phát triển thành mẫu ngƣời năng động và sáng tạo, chứ không máy móc. Tóm lại, mục đích giáo dục của Khổng tử là đào tạo con ngƣời tài, đức song toàn để xả thân đem lại an bình cho thiên hạ. 4. Mẫu ngƣời hành -động - vì - đời - mẫu ngƣời quân tử: là ngƣời rất tốt nhƣ Phan Bội Châu đã phân tích: "vì cớ sao một ngƣời rất tốt gọi là quân tử? Bởi ngƣời ấy đạo đức đã cao, tài năng cũng giỏi, nhân cách lại rất hoàn toàn, nếu đem ra gánh việc xã hội thời
28
đáng làm một ngƣời ch, nên có ch "quân". Quân nghĩa là ông chủ. Nếu đem ra gánh vic
loài ngƣời thi cung cấp đƣợc việc cho loài ngƣời cũng nhƣ con thờ cha, nên có ch "t". T
nghĩa là con. Góp xắp c hai ý nghĩa nhƣ trên ấy mới đặt tên bng "quân t" [2, 28].
Ngày nay, trong tâm thc ca nhiều ngƣời, quân t vẫn là ngƣời mẫu lý tƣởng, tài đức
song toàn phẩm cách cao thƣợng. th so sánh "quân t" vi mẫu ngƣời "đại trƣợng
phu" ca Mnh t.
Để đạt mục đích ấy, Khng t đã dạy nhng gì?
CHƢƠNG IV : KHỔNG T VỚI TƢ TƢỞNG TU - T - TR - BÌNH
Ni dung dy hc và giáo dc ca Khng t rt phong phú và gn cht vi tiến trình
TU THÂN T GIA TR QUC BÌNH THIÊN H i hc). Mun thiên h thái
bình thì trƣớc đó quốc gia phi thnh tr; mun quc gia thnh tr thì trƣớc đó nhà nhà phải êm
m; muốn gia đình êm ấm thì trƣớc đó mọi ngƣời phi tu thân mình. Phật giáo cũng đồng mt
quan điểm nhƣ vậy. Đức Đạt Lai Lạt Ma đã từng nói: "muốn đem lại hòa bình cho thế gii,
trước hết mỗi người chúng ta phi t chuyển hóa chính mình. Đó là con đường cam go,
nhưng không còn con đường nào khác."
Trƣớc hết phi tu thân, tc sa mình, t chuyn hóa mình. Tu thân xut phát
điểm ca mi quá trình giáo dc, ng vi mọi con ngƣời:
"T đấng thiên t (vua) cho đến k th dân, ai cũng phải ly sa mình làm gc" i
hc).
Trong Lun ng, Khng t li nói "Bt hon vô v, hon s lập. Bt hon mc k
tri, cu v kh tri dã" (LN. IV, 14): đừng lo không có chc v, ch lo không đủ tài đức để nhn
chc vị. Đừng lo không
28 đáng làm một ngƣời chủ, nên có chữ "quân". Quân nghĩa là ông chủ. Nếu đem ra gánh việc loài ngƣời thời cung cấp đƣợc việc cho loài ngƣời cũng nhƣ con thờ cha, nên có chữ "tử". Tử nghĩa là con. Góp xắp cả hai ý nghĩa nhƣ trên ấy mới đặt tên bằng "quân tử" [2, 28]. Ngày nay, trong tâm thức của nhiều ngƣời, quân tử vẫn là ngƣời mẫu lý tƣởng, tài đức song toàn và phẩm cách cao thƣợng. Có thể so sánh "quân tử" với mẫu ngƣời "đại trƣợng phu" của Mạnh tử. Để đạt mục đích ấy, Khổng tử đã dạy những gì? CHƢƠNG IV : KHỔNG TỬ VỚI TƢ TƢỞNG TU - TỀ - TRỊ - BÌNH Nội dung dạy học và giáo dục của Khổng tử rất phong phú và gắn chặt với tiến trình TU THÂN → TỀ GIA → TRỊ QUỐC → BÌNH THIÊN HẠ (Đại học). Muốn thiên hạ thái bình thì trƣớc đó quốc gia phải thịnh trị; muốn quốc gia thịnh trị thì trƣớc đó nhà nhà phải êm ấm; muốn gia đình êm ấm thì trƣớc đó mọi ngƣời phải tu thân mình. Phật giáo cũng đồng một quan điểm nhƣ vậy. Đức Đạt Lai Lạt Ma đã từng nói: "muốn đem lại hòa bình cho thế giới, trước hết mỗi người chúng ta phải tự chuyển hóa chính mình. Đó là con đường cam go, nhưng không còn con đường nào khác." Trƣớc hết phải tu thân, tức là sửa mình, tự chuyển hóa mình. Tu thân là xuất phát điểm của mọi quá trình giáo dục, ứng với mọi con ngƣời: "Từ đấng thiên tử (vua) cho đến kẻ thứ dân, ai cũng phải lấy sửa mình làm gốc" (Đại học). Trong Luận ngữ, Khổng tử lại nói "Bất hoạn vô vị, hoạn sở dĩ lập. Bất hoạn mạc kỷ tri, cầu vị khả tri dã" (LN. IV, 14): đừng lo không có chức vị, chỉ lo không đủ tài đức để nhận chức vị. Đừng lo không
29
ai biết mình, ch mong sao cho mình có tài đức để cho ngƣời ta biết đến. Nghĩa là trƣớc hết
phi biết tu thân.
Nhƣng để tu thân đt kết qu thì phi bắt đầu bng "trí tri" nghĩa là phải hc, hc cho
thu sut ti ch uyên thâm ca s vt thì sau mi biết ch cùng cc; biết đến ch cùng cc
thì sau cái ý mới tinh thành; cái ý đã tinh thành thì sau cái tâm mi chính; cái tâm có chính thì
sau cái thân mi tu; cái thân có tu thì sau cái nhà mi t; nhà có t thì sau nƣớc mi trị, nƣớc
có tr thì sau thiên h mi bình. i Hc) [37, 82].
Nhƣ vy biết thu - đáo sự vt (cách vt, trí tri) là yêu cầu đầu tiên mà cũng là nội
dung sơ khởi trong quá trình hc tp. S thiếu hiu biết v mình và v ngƣời khác là nguyên
nhân gây ra s đau buồn, trái đạo.
Trong Triết hc C Đại Trung Hoa ch o " va là quy lut t nhiên, nguyên lý vũ
tr, va là quy tc sng ca con ngƣời, quy tc ng x xã hi. Nho giáo dy rằng con ngƣời
trƣớc hết là mt nhân vt - xã hi, gn bó vi nhau bng nhng ràng buc xã hi: Trung vi
vua, hiếu vi cha mẹ, đễ vi anh em, thun hòa vi v chng...
Các mi quan h xã hi y ch tht s tr nên tốt đẹp khi ch khi nó đặt trên nn
tng là "tu thân ", mỗi ngƣời t hoàn thin bn thân mình.
Để giúp hc trò tu thân, Khng t dùng cách dy theo trình t nhất định: Trƣớc hết
dùng Thi Thƣ Dy, ri ly Hiếu đễ Đạo dn, ly nhân nghĩa ging d, ly l
nhc mà khiến ngƣời ta xem xét, sau cùng ly Văn ly Đức mà làm cho nên ngƣời [14, 64].
Trƣớc hết lấy Thi và Thƣ mà gây nuôi tính tình và mở mang trí thc cho hc trò; ri ly Hiếu
đễ - l nhc mà sa tâm tính cho ngay chính; cui cùng ly văn chƣơng, Đạo Đức mà trang
sc cho thành v cao quý. Trong Lun ng, Khng t nói: "Bt học thì vô dĩ ngôn. Bất hc l
vô dĩ
29 ai biết mình, chỉ mong sao cho mình có tài đức để cho ngƣời ta biết đến. Nghĩa là trƣớc hết phải biết tu thân. Nhƣng để tu thân đạt kết quả thì phải bắt đầu bằng "trí tri" nghĩa là phải học, học cho thấu suốt tới chỗ uyên thâm của sự vật thì sau mới biết chỗ cùng cực; biết đến chỗ cùng cực thì sau cái ý mới tinh thành; cái ý đã tinh thành thì sau cái tâm mới chính; cái tâm có chính thì sau cái thân mới tu; cái thân có tu thì sau cái nhà mới tề; nhà có tề thì sau nƣớc mới trị, nƣớc có trị thì sau thiên hạ mới bình. (Đại Học) [37, 82]. Nhƣ vậy biết – thấu - đáo sự vật (cách vật, trí tri) là yêu cầu đầu tiên mà cũng là nội dung sơ khởi trong quá trình học tập. Sự thiếu hiểu biết về mình và về ngƣời khác là nguyên nhân gây ra sự đau buồn, trái đạo. Trong Triết học Cổ Đại Trung Hoa chữ "đạo " vừa là quy luật tự nhiên, nguyên lý vũ trụ, vừa là quy tắc sống của con ngƣời, quy tắc ứng xử xã hội. Nho giáo dạy rằng con ngƣời trƣớc hết là một nhân vật - xã hội, gắn bó với nhau bằng những ràng buộc xã hội: Trung với vua, hiếu với cha mẹ, đễ với anh em, thuận hòa với vợ chồng... Các mối quan hệ xã hội ấy chỉ thật sự trở nên tốt đẹp khi và chỉ khi nó đặt trên nền tảng là "tu thân ", mỗi ngƣời tự hoàn thiện bản thân mình. Để giúp học trò tu thân, Khổng tử dùng cách dạy theo trình tự nhất định: Trƣớc hết dùng Thi Thƣ mà Dạy, rồi lấy Hiếu đễ mà Đạo dẫn, lấy nhân nghĩa mà giảng dụ, lấy lễ nhạc mà khiến ngƣời ta xem xét, sau cùng lấy Văn lấy Đức mà làm cho nên ngƣời [14, 64]. Trƣớc hết lấy Thi và Thƣ mà gây nuôi tính tình và mở mang trí thức cho học trò; rồi lấy Hiếu đễ - lễ nhạc mà sữa tâm tính cho ngay chính; cuối cùng lấy văn chƣơng, Đạo Đức mà trang sức cho thành vẻ cao quý. Trong Luận ngữ, Khổng tử nói: "Bất học thì vô dĩ ngôn. Bất học lễ vô dĩ
30
lp.": Không hc Thi thì không ly ăn nói; không học l thì không th lp thân"
(LN.XVI, 13)
Nhƣ vy ni dung c th để tu thân là hc Thi - Thƣ, học L và hc Nhạc. Điều này đã
đƣợc Khng t khái quát trong câu :
"Hưng ư Thi, lp ư Lễ,thành ư Nhc" (LN.VIII, 7)
Nghĩa là làm hƣng khởi ý chí Thi; sa sang phẩm cách cho đứng đắn Lễ; điều hòa
nhân cách cho hoàn thành Nhc.
Hưng ư thi: Thi là thơ. Khi tìm hiểu thái đ ca Khng t v thơ ca chúng ta thấy có
my vấn đề nhƣ sau:
- Khng t xem Thơ ca quan trọng để giáo dục con ngƣời dùng Thơ ca để m
đầu cho đạo lý.
- Khng t lại dùng thơ ca - dân gian để đi vào đạo lý và triết lý
- Khng t li dùng nhng li hát hoa tình gia trai gái d hi trao gi yêu
thƣơng... để giáo dc
Theo Khng t, triết lý không cao hơn tình ngƣời. Nếu tiếng nói ca lý trí là lý lun ,
là bin chng thì tiếng nói của tâm tình là thơ ca và nhy múa. Ông nói: "Sao các trò không
hc Kinh Thi? Kinh Thi có th dùng để hng khi tình chí, quan sát suy tư , để hp qun
để kêu oan..." (LN.XVII,9)
Trong xã hội phƣơng Đông, mi tng lp t th dân đến Thiên t đều yêu thơ. Có thể
nói các nƣớc Viễn Đông là quê hƣơng của thơ, nghe thơ, làm thơ ... và đối thơ đã trở thành
chìa khóa m nhiu ca trong xã hội cũ [8, 161].
Khng t ch trƣơng "hu giáo vô loi" với quan điểm "chuyn nền văn hóa từ trên
xuống dưới". Do đó, điều tiên quyết là phi la chn phƣơng tiện va tầm đại chúng. Vì vy,
ông đã chọn thơ ca thƣ dễ nht, c th nhất, đó là ca dao , đồng dao, tc ngữ, phƣơng ngôn...
thƣờng đƣợc ngâm nga khắp nơi trong nƣớc,
30 lập.": Không học Thi thì không lấy gì mà ăn nói; không học lễ thì không thể lập thân" (LN.XVI, 13) Nhƣ vậy nội dung cụ thể để tu thân là học Thi - Thƣ, học Lễ và học Nhạc. Điều này đã đƣợc Khổng tử khái quát trong câu : "Hưng ư Thi, lập ư Lễ,thành ư Nhạc" (LN.VIII, 7) Nghĩa là làm hƣng khởi ý chí ở Thi; sửa sang phẩm cách cho đứng đắn ở Lễ; điều hòa nhân cách cho hoàn thành ở Nhạc. Hưng ư thi: Thi là thơ. Khi tìm hiểu thái độ của Khổng tử về thơ ca chúng ta thấy có mấy vấn đề nhƣ sau: - Khổng tử xem Thơ ca là quan trọng để giáo dục con ngƣời và dùng Thơ ca để mở đầu cho đạo lý. - Khổng tử lại dùng thơ ca - dân gian để đi vào đạo lý và triết lý - Khổng tử lại dùng những lời hát hoa tình giữa trai gái dọ hỏi và trao gửi yêu thƣơng... để giáo dục Theo Khổng tử, triết lý không cao hơn tình ngƣời. Nếu tiếng nói của lý trí là lý luận , là biện chứng thì tiếng nói của tâm tình là thơ ca và nhảy múa. Ông nói: "Sao các trò không học Kinh Thi? Kinh Thi có thể dùng để hứng khởi tình chí, quan sát suy tư , để họp quần và để kêu oan..." (LN.XVII,9) Trong xã hội phƣơng Đông, mọi tầng lớp từ thứ dân đến Thiên tử đều yêu thơ. Có thể nói các nƣớc Viễn Đông là quê hƣơng của thơ, nghe thơ, làm thơ ... và đối thơ đã trở thành chìa khóa mở nhiều cửa trong xã hội cũ [8, 161]. Khổng tử chủ trƣơng "hữu giáo vô loại" với quan điểm "chuyển nền văn hóa từ trên xuống dưới". Do đó, điều tiên quyết là phải lựa chọn phƣơng tiện vừa tầm đại chúng. Vì vậy, ông đã chọn thơ ca thƣ dễ nhất, cụ thể nhất, đó là ca dao , đồng dao, tục ngữ, phƣơng ngôn... thƣờng đƣợc ngâm nga khắp nơi trong nƣớc,
31
nhƣ gió thổi lƣớt qua mt mọi ngƣời, vì thế mà gi là "quc phong" , ngƣời bình dân đến đâu
cũng hiểu đƣợc, ngâm nga đƣợc và, nh đó, hứng khởi đƣợc.
Phn Quc phong này, theo các nhà nghiên cứu, đƣợc tuyn chn nhiu nht, chiếm
quá na Kinh Thi. Trong khi ba phần thơ ca của trí thc chiếm có non na, mà lại đặt sau,
thì mt mình Quc phong m đầu vi 160 bài: Tiểu nhã 94, đại nhã 31, Tụng 48. Đã vậy còn
nhn mạnh đến hai chƣơng đầu là Châu nam, Thiu nam nói v tình ngƣời. Tht là gin d.
gin d mới đắt thiên lý, mới đạt đạo. Khng t nói: "Hi những điều thiết yếu;
suy tư về nhng vic gần gũi, nhân nằm đó "(LN. XIX, 6). vậy ông cũng bắt đầu dy
bng những điều gần gũi, thiết thc. Kinh Thi nói v vic "hái rau, tát nước, sao mc,
gáy, chim bay, hoa đào nở v.v... nhng cảnh thiên nhiên đồng ruộng đó làm cái khung
lng trên nhng chuyn tâm tình, vui bun, mng tủi... ai ai cũng hiểu đƣợc, vì li vn tt, rt
gin d, c th." [8, 164]
V y khi đọc Kinh Thi không nên tìm, hc s đẹp đẽ trang trng trau chut. Cái hay
ca Kinh Thi không nm đó, ch đẹp hn nhiên, t nhiên, mc mc, thun phác, nói
thng lòng mình, không có gì gọi là đẽo gọt, nhƣ để khi mất hơi ấm tình ngƣời, tình đất, tình
tri thun nhiên thôn dã. Mục đích làm cho mọi ngƣời đều hiểu, đều cảm đƣợc. T dân
gian xuất phát, đƣợc dân chúng vun trng nuôi dƣỡng ... [8, 165].
Khng t muốn mƣợn tiếng nói trong sch ca tng lớp đứng ngoài vòng danh lợi để
xây đời, để ci hóa xã hội đẳng cp. Mt trong nhng ch điểm ca Khng giáo là dùng tình
cảm để hoàn thiện con ngƣời (...) cho nên Khng t đặt Kinh Thi ngang hàng vi nhng sách
giáo dc khác trong t thƣ ngũ kinh.
Lập ư Lễ: Nếu Kinh Thi "tay mt" thì Kinh L "tay trái" đƣợc Khng t dùng
trong vic tô tạo đào luyện con ngƣời lý tƣởng [8, 187].
31 nhƣ gió thổi lƣớt qua mặt mọi ngƣời, vì thế mà gọi là "quốc phong" , ngƣời bình dân đến đâu cũng hiểu đƣợc, ngâm nga đƣợc và, nhờ đó, hứng khởi đƣợc. Phần Quốc phong này, theo các nhà nghiên cứu, đƣợc tuyển chọn nhiều nhất, chiếm quá nửa Kinh Thi. Trong khi ba phần thơ ca của trí thức chiếm có non nửa, mà lại đặt ở sau, thì một mình Quốc phong mở đầu với 160 bài: Tiểu nhã 94, đại nhã 31, Tụng 48. Đã vậy còn nhấn mạnh đến hai chƣơng đầu là Châu nam, Thiệu nam nói về tình ngƣời. Thật là giản dị. Có giản dị mới đắt thiên lý, mới đạt đạo. Khổng tử nói: "Hỏi những điều thiết yếu; suy tư về những việc gần gũi, nhân nằm ở đó "(LN. XIX, 6). Vì vậy ông cũng bắt đầu dạy bằng những điều gần gũi, thiết thực. Kinh Thi nói về việc "hái rau, tát nước, sao mọc, gà gáy, chim bay, hoa đào nở v.v... và những cảnh thiên nhiên đồng ruộng đó làm cái khung lồng trên những chuyện tâm tình, vui buồn, mừng tủi... ai ai cũng hiểu đƣợc, vì lời vắn tắt, rất giản dị, cụ thể." [8, 164] Vậ y khi đọc Kinh Thi không nên tìm, học sự đẹp đẽ trang trọng trau chuốt. Cái hay của Kinh Thi không nằm ở đó, mà ở chỗ đẹp hồn nhiên, tự nhiên, mộc mạc, thuần phác, nói thẳng lòng mình, không có gì gọi là đẽo gọt, nhƣ để khỏi mất hơi ấm tình ngƣời, tình đất, tình trời thuần nhiên thôn dã. Mục đích là làm cho mọi ngƣời đều hiểu, đều cảm đƣợc. Tự dân gian xuất phát, đƣợc dân chúng vun trồng nuôi dƣỡng ... [8, 165]. Khổng tử muốn mƣợn tiếng nói trong sạch của tầng lớp đứng ngoài vòng danh lợi để xây đời, để cải hóa xã hội đẳng cấp. Một trong những chủ điểm của Khổng giáo là dùng tình cảm để hoàn thiện con ngƣời (...) cho nên Khổng tử đặt Kinh Thi ngang hàng với những sách giáo dục khác trong tứ thƣ ngũ kinh. Lập ư Lễ: Nếu Kinh Thi là "tay mặt" thì Kinh Lễ là "tay trái" đƣợc Khổng tử dùng trong việc tô tạo đào luyện con ngƣời lý tƣởng [8, 187].
32
Ngày nay khi nghe nói đến "lễ" ngƣời ta lin nghĩ đến cái gì gò bó, câu thúc, gi to,
c h... Tt c nhng hình dung t này đều phần đúng bởi chúng ta quen chng kiến
mt th l thi hậu Nho, đƣợc quy định t thi Hán v sau ngày càng tr nên chi li
phin phc, ch còn có "nghi" mà hết "l" , ch còn hình thức mà đánh mất cht chân thành.
Do vy cn bình tâm xét li ch l ca Khng t: V mặt sƣ phạm, l là li khí tt
nhất để c th hóa li giáo hun. Lời nói thƣờng trừu tƣợng, vô hình, không th nào hiu
nghim bng tấm gƣơng thiết thc kèm theo. "Trăm nghe không bng mt thy". Dy phép
lch s giao, x thế din ra bng nhng c ch đánh vào thị giác ngƣời hc thì công
hiệu hơn nhiều.
Sau này,. Montessory, J.Dewey ... c c th hóa nn giáo dục cũng là đáp ứng nhu cu
y, k c li giáo dc bng phim ảnh cũng vậy. Đạo Nho là mt triết lý - hành vi nên tt nhiên
phi coi trng lễ, để cảm hóa con ngƣời, để giúp con ngƣời làm theo, noi theo.
Ngƣời xƣa ví lòng ngƣời giống nhƣ mảnh rung mà tình dục ví nhƣ cỏ di t mc lên
và lan ta, nếu không đƣc cày và cy ging cây lành. Ging cây lành y là L. Không có L
con ngƣời s sng buông thả, sa đọa theo dc vng bản năng. Nhân tính, do đó, sẽ nhƣờng
ch cho thú tính. Nietzsche, mt triết gia lớn phƣơng Tây đã nói: "Không phi tình cm mãnh
liệt làm nên đại nhân, s lâu bn ca tình cảm đó". Can đảm mt lúc không khó,
nhƣng can đảm lâu dài, đi theo một hƣớng bn bỉ, đó mới là chuyn khó và hiếm.
Khng t đã sm nhìn thy s cn thiết nhƣ Nietzsche, nên ông chủ trƣơng dùng Lễ
để đào luyện con ngƣời. Nh đi theo Lễ lâu dài, bn b nên các dân tc Á Đông có đƣợc các
đức tính đáng quý nhƣ ôn hòa, điềm tĩnh, mực thƣớc, những đức tính làm cao quý nhân
cách ca t tiên chúng ta. [8, 192].
32 Ngày nay khi nghe nói đến "lễ" ngƣời ta liền nghĩ đến cái gì gò bó, câu thúc, giả tạo, cổ hủ... Tất cả những hình dung từ này đều có phần đúng là bởi chúng ta quen chứng kiến một thứ lễ ở thời hậu Nho, đƣợc quy định từ thời Hán về sau và ngày càng trở nên chi li phiền phức, chỉ còn có "nghi" mà hết "lễ" , chỉ còn hình thức mà đánh mất chất chân thành. Do vậy cần bình tâm xét lại chữ lễ của Khổng tử: Về mặt sƣ phạm, lễ là lợi khí tốt nhất để cụ thể hóa lời giáo huấn. Lời nói thƣờng trừu tƣợng, vô hình, không thể nào hiệu nghiệm bằng tấm gƣơng thiết thực kèm theo. "Trăm nghe không bằng một thấy". Dạy phép lịch sự xã giao, xử thế mà diễn ra bằng những cử chỉ đánh vào thị giác ngƣời học thì công hiệu hơn nhiều. Sau này,. Montessory, J.Dewey ... cố cụ thể hóa nền giáo dục cũng là đáp ứng nhu cầu ấy, kể cả lối giáo dục bằng phim ảnh cũng vậy. Đạo Nho là một triết lý - hành vi nên tất nhiên phải coi trọng lễ, để cảm hóa con ngƣời, để giúp con ngƣời làm theo, noi theo. Ngƣời xƣa ví lòng ngƣời giống nhƣ mảnh ruộng mà tình dục ví nhƣ cỏ dại tự mọc lên và lan tỏa, nếu không đƣợc cày và cấy giống cây lành. Giống cây lành ấy là Lễ. Không có Lễ con ngƣời sẽ sống buông thả, sa đọa theo dục vọng bản năng. Nhân tính, do đó, sẽ nhƣờng chỗ cho thú tính. Nietzsche, một triết gia lớn phƣơng Tây đã nói: "Không phải tình cảm mãnh liệt làm nên đại nhân, mà là sự lâu bền của tình cảm đó". Can đảm một lúc không khó, nhƣng can đảm lâu dài, đi theo một hƣớng bền bỉ, đó mới là chuyện khó và hiếm. Khổng tử đã sớm nhìn thấy sự cần thiết nhƣ Nietzsche, nên ông chủ trƣơng dùng Lễ để đào luyện con ngƣời. Nhờ đi theo Lễ lâu dài, bền bỉ nên các dân tộc Á Đông có đƣợc các đức tính đáng quý nhƣ ôn hòa, điềm tĩnh, mực thƣớc, là những đức tính làm cao quý nhân cách của tổ tiên chúng ta. [8, 192].