Luận án Thạc sĩ Giáo dục học: Tìm hiểu tư tưởng giáo dục của Khổng Tử
7,199
788
101
13
Xuất thân từ một gia đình nghèo khó, quý tộc đã sa sút, lại mồ côi cha từ tấm
bé, lúc
mới lên ba tuổi, mƣời bảy tuổi mất mẹ, nên phải làm nhiều nghề, đảm đang, tháo
vát (LN.IX,
2, 6).
2. Nhân cách:
Vốn có hình dáng cao lớn [35, 31], khỏe mạnh nên tuy sống một cuộc sống vất vả,
đôi
khi phong trần, nhƣng Khổng tử vẫn khang kiện. Theo sử sách, cả đời Khổng tử chỉ
đau nặng
một lần (LN. VII, 34 ; IX, 11 ; X, 13). Về phƣơng diện tâm lý, Khổng tử là
ngƣời:
- Thông minh, hiếu học (LN.VII, 19, 33)
- Say sƣa nghệ thuật và lý tƣởng (LN.VII)
- Khiêm cung (LN. VII)
- Lễ độ (LN. III, IX, X)
- Nghiêm trang, hòa nhã (LN. VII, 37)
- Luôn luôn cẩn trọng (LN. X)
- Luôn luôn ứng xử theo quy luật tự nhiên (LN. X, 8, 9)
- Tùy thời xử thế.
- Có niềm tin tƣởng vững mạnh vào lý tƣởng.
- Thẳng tiến trên con đƣờng hoàn thiện (LN. IX)
- Thung dung, tự tại...
Năm mƣời chín tuổi, Khổng tử lập gia đình, rồi ra nhận chức ủy lại, coi việc gạt
thóc
ở kho, sau lại làm Tƣ chức lại, coi việc nuôi bò dê để dùng cúng tế. Tuy còn
trẻ, lúc này
Khổng tử đã nổi tiếng tài giỏi cho nên quan nƣớc Lỗ là Trọng Tôn Cồ cho hai con
là Hà Kỵ
và Nam Cung Quát theo học.
Năm hai mƣơi tám, hai mƣơi chín tuổi, Khổng tử đƣợc học trò là Nam Cung Quát xin
cho xe ngựa và ngƣời hầu để đi khảo cứu lễ nhạc ở Lạc ấp, kinh đô nhà
14
Chu. Ở đó có nhà Minh Đƣờng, do Chu Công lập ra để chứa các luật lệ và bảo vật
của thánh
hiền. Đồng thời lại đến hỏi Lão tử về Lễ.
Khổng tử ở Lạc ấp ít lâu lại trở về Lỗ. Từ đó sự học của ông ngày một mở rộng và
học trò theo học ngày càng đông. Giáo sƣ Trần Văn Giàu nói "Khổng tử là vị thầy
được mọi
người, mọi đời công nhận là vi tôn sư của đạo Nho". Song đạo Nho có trƣớc Khổng
tử. Đến
Khổng tử thì Nho giáo đã trở thành ít nhiều có hệ thống, mang ít nhiều tính tích
cực và nhân
bản hơn là trƣớc kia, tuy Khổng tử nói "thuật nhi bất tác". Công của Khổng ở đó,
cũng nhƣ là
ở chỗ đào tạo đƣợc nhiều học trò giỏi, có uy tín lớn, có sức truyền đạo, đƣợc
thiên hạ tôn là
bậc hiền trong lúc Khổng tử đƣợc tôn là thánh. Nho giáo đƣợc mệnh danh là đạo
của "thánh
hiền" [9, 82].
Có thể tóm tắt cuộc đời Khổng tử qua 4 thời kỳ nhƣ sau :
1. Thời thơ ấu và tráng niên: từ một tuổi đến ba mƣơi tuổi, là thời kỳ côi cút,
nghèo
khó, hay làm, ham học, thích dạy.
2. Thời kỳ trưởng thành: từ ba mƣơi đến năm mƣơi tuổi: là thời kỳ lập chí học
đạo và
dạy học, sang Chu, sang Tề khảo sát phong tục, lễ nhạc, nghiên cứu sách vở cũ,
dạy học.
3. Thời kỳ giảng dạy và hoạt động chính trị: từ năm mƣơi lăm đến sáu mƣơi tám
tuổi,
dạy học:
- hoặc chấp chính lại Lỗ (50 - 55 tuổi), đồng thời dạy học
- hoặc chu du thiên hạ (55 - 68 tuổi), đồng thời dạy học
4. Thời kỳ giảng dạy và viết sách : từ sáu mƣơi tám đến bảy mƣơi ba tuổi.
Khổng tử nói: "Ngũ thập tri thiên mệnh" nghĩa là năm mƣơi tuổi mới biết rõ về số
mệnh con ngƣời, mới tìm ra chân lý: nên từ đó ta thấy Khổng Tử trở nên hoạt động
lạ
thƣờng...
15
... Mãi đến lúc tuổi già, sức yếu, Khổng tử trở về nƣớc Lỗ, nhƣng vẫn không
ngừng
hoạt động. Ngoài việc dạy học nhƣ công việc suốt đời, lúc này Khổng tử còn san
định kinh
điển và viết sách nữa:
- Nào là khảo sát lễ nghi cả ba đời: Hạ, Thƣơng và Chu.
- Nào là khảo sát lý thuyết về nhạc và chia thành hai loại: Nhã (musique sacreé)
và
Tụng (musique classique)
- Nào là san định Kinh Thi, Kinh Thƣ,
- Nào là khảo sát Kinh Dịch.
- Và viết Kinh Xuân Thu, cuốn sách sử ký đầu tiên có niên hiệu mạch lạc từ đời
Lỗ
Ẩn Công đến Lỗ Ai Công 14, gồm 240 năm (721 - 481 TCN)
Tóm lại cuộc đời Khổng tử là một cuộc đời hoạt động, hoạt động đa dạng, tích cực
và
không ngừng nghỉ, luôn luôn tìm tòi, nghiên cứu: nghiên cứu thực tế, nghiên cứu
sách vở,
nghiên cứu con ngƣời... để giáo dục con ngƣời theo tinh thần "Học không biết
chán, dạy
không biết mỏi" (LN. VII, 2)
Cho nên tổng kết cuộc đời Khổng Tử, nhà nghiên cứu Nguyễn Hiến Lê nhận định tƣ
cách giáo dục là tƣ cách hàng đầu, tƣ cách nổi bật hơn hết ở Khổng tử.
3. Tư cách : KHỔNG TỬ TRƯỚC HẾT LÀ MỘT NHÀ GIÁO
♦ Khổng Tử không phải là một giáo chủ:
Dù là ngƣời sáng lập ra Nho giáo, Khổng tử cũng không phải là một giáo chủ, bởi
lẽ :
* Khổng tử quan niệm "Mệnh trời" chỉ là quy luật tự nhiên : "Trời có nói gì đâu
?
Bốn mùa vận hành tuần tự. Nhờ đó vạn vật sinh sôi. Trời có nói gì đầu!" (Thiên
hà ngôn tai!
Tứ thời hành yên. Bách vật sinh yên! Thiên hà ngôn tai!) (LN. XVII. 18)
16
* Đối với qủy thần, Khổng tử có thái độ "Kính nhi viễn chi" (LN . VI. 20). Và ít
nói
về quỷ thần.
* Khổng tử cũng không tin ở sự cầu nguyện: có lần Khổng tử đau nặng, môn sinh là
Tử Lộ xin ông làm lễ cầu đảo, ông đáp "Ta cầu đảo đã lâu rồi". Nghĩa là ăn ở
phải đạo là cầu
đảo. Ngƣợc lại ăn ở không phải đạo thì dù có cầu đảo, trời cũng không nghe:
"Hoạch tội ư
thiên, vô sở đảo dã" (LN. III. 13)
* Khổng tử tránh né những việc siêu hình: nhƣ thờ quỷ thần; chết rồi đi đâu...
Khi học
trò hỏi về những vấn đề ấy, ông đáp: "Chưa phục vụ con người thì hỏi chi việc
phụng thờ quỷ
thần?"; "Chưa biết sự sống thì biết sự chết sao được!" (LN. XI, 11)
♦ Khổng tử là một triết gia - tức là bậc hiền nhân - triết nhân, chủ trƣơng một
nền triết
lý nhân sinh: vì hạnh phúc hiện tại của con ngƣời. Mƣu cầu một xã hội có tôn ty
trật tự và
mọi ngƣời làm hết phận mình (chính danh) trên cơ sở lòng nhân ái. Ở đó "mọi
người tin cậy
nhau, người già được an vui, trẻ con được chăm sóc, dạy dỗ" (LN. V, 25)
♦ Nhƣng trƣớc khi là một triết nhân, và đồng thời với triết nhân. Khổng tử đã là
một
nhà giáo. Khổng tử bắt đầu dạy học từ năm 19 tuổi (hai ngƣời học trò đầu tiên
theo học
Khổng tử là Hà Ky và Nam Cung Quát, con quan Trọng Tôn Cồ, nƣớc Lỗ). Theo Nguyễn
Thị
Kim Dung trong "Các nhân vật lịch sử Cổ đại Trung Hoa" do Lê Vinh Quốc chủ biên,
thì
Khổng tử bắt đầu dạy học từ năm 17 tuổi và hai học trò đầu tiên của ông là Mạnh
Ý Tử và
Nam Cung Kính Thúc [42. 47] và dạy học suốt đời, đến khi từ giã cuộc đời, năm 73
tuổi:
Hơn nửa thế kỷ thâm niên dạy học! Và đã đào tạo đƣợc trƣớc sau 3000 môn sinh.
54 năm thâm niên với 3000 môn đệ. Con số không nhỏ đối với đời ngƣời thầy. Nhƣng
đó mới là số lƣợng. Còn chất lƣợng dạy học của Khổng tử thì sao?
17
Với một tâm hồn luôn gắn bó với công việc dạy và học : "Học không biết chán; dạy
không biết mỏi" (LN . VII, 2), Khổng tử đã đào tạo đƣợc nhiều ngƣời tài giỏi,
nổi tiếng (72
ngƣời) trong đó có nhiều tên tuổi còn đậm nét trong lịch sử Trung Hoa cổ đại. Từ
đó, nhiều
thế hệ học trò nối tiếp nhau dạy học tạo thành tầng lớp Nho sĩ - tầng lớp giữ vị
trí then chốt
trong nhiều thời đại về sau của Trung Hoa. Và không chỉ ở Trung Hoa. Đặc biệt
hơn, Khổng
tử còn để lại cho hậu thế một di sản vô giá về giáo dục, từ quan điểm tiến bộ
đến mục đích
giáo dục rõ ràng, nội dung giáo dục phong phú, nguyên tắc giáo dục rạch ròi và
phƣơng pháp
giáo dục cụ thể và có hiệu quả mà ta sẽ lần lƣợt phân tích ở chƣơng sau.
Có thể nói sự nghiệp Khổng tử lƣu lại cho đời sau phần lớn là do công dạy học
của
ông. Nên ngƣời sau mới tôn tặng ông danh hiệu Nhà giáo tiêu biểu của muôn đời
"Vạn thế
sư biểu".
18
Hình 1: Chân dung Khổng Tử
19
CHƢƠNG II: KHỔNG TỬ VỚI TƢ TƢỞNG "HỮU GIÁO VÔ LOẠI
1. Khổng tử đã là ngƣời đầu tiên trong lịch sử giáo dục thế giới "Chuyển nền văn
hóa
từ trên xuống dưới và nâng trình độ dân trí từ dưới lên". Nói cách khác, Khổng
tử đã Bình
dân hóa giáo dục.
Là ngƣời đầu tiên mở trƣờng tƣ và mở với quy mô lớn, có chỗ nội trú và phòng đọc
sách cho học trò, Khổng tử luôn mở rộng cửa trƣờng đón nhận mọi ngƣời với quan
điểm cực
kỳ tiến bộ :
"Hữu giáo vô loại" - quyền được giáo dục là quyền của mọi người, không phân biệt
đẳng cấp, thành phần xã hội (LN . XV. 38).
Với chúng ta hiện nay, điều này quá bình thƣờng, nhƣng thời Khổng tử thì đó quả
là
một quan điểm cách mạng tận nền móng. Ngay ở Âu Mỹ mà mãi đến 1850 mới mở cửa
giáo
dục cho toàn dân [8, 30]. Ngay trong thời đại của mình, nghĩa là cách chúng ta
2500 năm
"Khổng tử đã sớm nhìn thấy mối quan hệ giữa ba hiện tượng xã hội phức tạp : dân
số (thứ),
kinh tế (phú), giáo dục (giáo). Trong khi chăm lo cho dân đông, dân giàu thì
đồng thời phải
lo giáo dục dân. Nói cách khác, Khổng tử đã chủ trƣơng Bình dân hóa giáo dục,
tức là biến
giáo dục từ chỗ là đặc quyền, đặc lợi của giai cấp thống trỊ thành quyền lợi của
mọi ngƣời.
Cái mà hàng nghìn năm sau ông, J. A.Komenski còn mơ ƣớc "dạy mọi điều cho mọi
người".
Nhƣ vậy, theo quan điểm của Khổng tử, văn hóa vốn nằm "trên chóp cao" của xã hội
mà chỉ tầng lớp quý tộc thời bấy giờ mới đƣợc hƣởng, đã chuyển xuống cho mọi
tầng lớp xã
hội, bằng con đƣờng giáo dục.
Và bằng con đƣờng giáo dục theo quan điểm bình dân hóa ấy, trình độ dân trí đƣợc
nâng lên.
20
Trên thực tế đã có những học trò nghèo khó đến xin học, Khổng tử đều nhận dạy.
Ông
không phân biệt ngƣời giàu kẻ nghèo, ai xin học, muốn dâng vật gì làm lễ nhập
môn, dù chỉ
là một chục chiếc nem, ông cũng vui nhận. (LN VII. 7)
Khổng tử cũng không để ý đến quá khứ của ngƣời học. Một thanh niên ở làng Hồ
hƣơng đến xin học, ông nhận; các môn sinh cũ có vẻ ái ngại, vì làng ấy nổi tiếng
là "khó
dạy". Khổng tử bảo với môn sinh: "Người ta lấy lòng trong sạch mà đến với mình
thì mình vì
tấm lòng đó mà thu nhận người ta. Còn việc cũ của người ta ra sao, đừng nghĩ
tới". (LN VII.
27)
Trƣớc Khổng tử, trong mỗi xóm hai mƣơi lăm nhà có một trƣờng học, gọi là "thục"
;
mỗi thị trấn gồm 500 nhà có một trƣờng học cao hơn gọi là "tường"; trong mỗi
châu gồm
2500 nhà có một trƣờng cao hơn nữa gọi là "tự"; tại kinh đô mỗi nƣớc có một
trƣờng cao hơn
cả gọi là "học". Đó là những trƣờng công lập; thầy giáo cũng do triều đình bổ
nhiệm, học
sinh đa số là con em tầng lớp quý tộc. Trong lịch sử, trƣớc thế kỷ VI TCN không
thấy có một
trƣờng học nào thu nhận học sinh từ mọi tầng lớp xã hội khác. Khổng tử là ngƣời
đầu tiên
làm việc đó. Và ông đã thành công trong quan điểm bình dân hóa giáo dục ấy: lập
trƣờng tƣ
để dạy học, Khổng tử chủ trƣơng bất kể là quý tộc hay bình dân, bất kể là tộc
Hoa hay Di
Địch, đều có thể nhập học để đƣợc giáo dục. Đề xuất tƣ tƣởng Hữu giáo vô loại
(đƣợc giáo
dục không kể hạng ngƣời gì) là một cống hiến vĩ đại của Khổng Tử đối với nền
giáo dục cổ
đại.
Rất tiếc sang đêm trƣờng Trung đại, và cả Cận đại, tƣ tƣởng cực kỳ tiến bộ này
đã
không đƣợc thực hiện. Giáo dục dần dần trở thành đặc quyền, đặc lợi của một số
ngƣời.
Cần nhắc lại: trƣớc Khổng tử, thời Chiếm hữu nô lệ, ngƣời nô lệ không có quyền
đi
học. Ngƣời ta cho rằng nô lệ chỉ là công cụ, dùng là
21
công cụ biết nói. Hoặc quan niệm khác, cũng không kém phần tệ hại, cho rằng nô
lệ là con
vật, có điều là con vật biết đứng trên hai chân. Mà đã là đồ vật hay con vật thì
không đƣợc
quyền đi học.
Sau Khổng tử, ngay tại Trung Hoa "trong nhiều triều đại, giai cấp thống trị còn
ra
lệnh cấm các trƣờng tƣ nhận con em tầng lớp lao động vào học; làm trái lệnh sẽ
bị xử tử" [24,
18].
Trƣờng tƣ - tƣơng đối mở rộng cửa mà còn nhƣ vậy huống hồ là trƣờng công do
chính
giai cấp thống trị mở ra!
Thế mới biết tƣ tƣởng "Hữu giáo vô loại" của Khổng tử là tiến bộ đến ngần nào!
Ngày nay, ta chủ trƣơng "Ngày toàn dân đƣa trẻ đến trƣờng" để mọi ngƣời "ai cũng
có cơm ăn áo mặc, ai cũng đƣợc học hành" theo lời Bác, là tiếp nối tƣ tƣởng tiến
bộ của
Khổng tử vậy.
2. Chính trị hóa giáo dục : làm cho giáo dục mang lý tƣởng chính tri; và mục
tiêu
chính trị đƣợc thực hiện bằng con đƣờng giáo dục.
Về chính trị, Khổng tử chủ trƣơng "Lễ trị" , nghĩa là dùng lễ để trị dân, mà
thực chất
là dùng đạo đức để cảm hóa con ngƣời, nên còn gọi là "Đức trị". Mà muốn có lễ
trị, đức trị
thì phải học, phải đƣợc giáo dục, trƣớc hết là phải tu thân để chính danh: vua
ra vua, quan ra
quan, cha ra cha, con ra con.
"Nói cho cùng, một ngƣời dốc sức vì sự nghiệp giáo dục, sớm muộn ngƣời đó phải
quan tâm đến chính trị. Khổng tử, Chu Văn An, Pythagore, Lomonosov tất cả đều
nhƣ vậy.
Việc khai sáng trí tuệ thƣờng đồng hành với sự cải cách xã hội" [41, 15]. Giáo
dục không thể
tách rời chính trị.
22
Về giáo dục, Khổng tử chủ trƣơng học để nên ngƣời có văn, có chất, để làm quan,
để
mang tài ra giúp nƣớc, xây dựng một xã hội có tôn ty trật tự. Nghĩa là mục đích
cuối cùng
của sự học là để tham gia chính trị. Do vậy mà Khổng tử luôn chú trọng đến sự
học để cứu
đời, cốt đào tạo những con ngƣời có đức hạnh, có đầu óc sáng suốt, có liêm sỉ để
làm chính
trị, cải tạo xã hội. Đồng thời, Khổng tử phê phán lối học thoát ly cuộc sống,
học không vì đời
là cái học vô ích "Học hết ba trăm bài Kinh Thi, được vua giao cho việc trị dân
mà không
được việc, sai sứ đi bốn phương mà không biết ứng đối, thì tuy học nhiều mà có
ích gì đâu?".
(LN XIU. 5). Trái lại phải biết hành đạo, giúp đời!
Khổng tử chú trọng đến sự học để cứu đời, cốt đào tạo những con ngƣời có đức
hạnh,
có đầu óc sáng suốt, có liêm sỉ để làm chính trị, cải tạo xã hội.
3. Đạo đức hóa giáo dục: làm cho giáo dục thống nhất với đạo đức.
Khổng tử muốn xây dựng một xã hội có tôn ty và cái tôn ty đó dựng trên một nền
tảng
đạo đức, trƣớc hết là ngƣời trên phải làm gƣơng cho kẻ dƣới: "quân quân, thần
thần ; phụ
phụ, tử tử; phu phu, thê thê"
Ngay chữ "quân tử" trong quan niệm của Khổng tử cũng đã mang một nội dung mới,
khác hẳn nghĩa thông dụng thời bấy giờ. Quân tử, theo Khổng tử, là ngƣời có tài,
có đức, chứ
không phải chỉ là ngƣời có địa vị cao nhƣ ngƣời ta thƣờng nghĩ.
Ở một góc độ nào đó, có thể nói Khổng tử muốn thực hiện một thứ bình đẳng dựa
trên
chân - giá - trị - của - con - ngƣời. Cái quyết định địa vị mỗi ngƣời chính là
giá - trị - thực -
có của ngƣời đó.
Khổng tử tin rằng ngƣời dân một nƣớc mà biết hiếu đễ - quan hệ xã hội đầu đời
giữa
ngƣời với ngƣời - thì nƣớc đó sẽ có trật tự. trị an. Cho nên ông rất chú trọng
đến chữ hiếu.
Khổng tử quan niệm chữ hiếu có nhiều nội dung mà tùy theo trình độ của mỗi
ngƣời, ông
giảng giải một cách khác nhau.