Luận án: Opera trong sự phát triển nền âm nhạc chuyên nghiệp Việt Nam
4,459
885
158
11
1.2.2. Opera thời kỳ cổ điển.
Sự nở rộ các thể loại, các phong cách âm nhạc của nghệ thuật phục hƣng thời kỳ
tiền cổ điển đã đặt nền móng cho sự ra đời trƣờng phái âm nhạc cổ điển Viên vào
nửa
sau thế kỷ XVIII. Trƣờng phái cổ điển Viên đã hoàn thiện các thể loại có hình
thức lớn
nhƣ: symphonie, sonate, concerto…
Riêng với opera, các nhạc sĩ cổ điển cũng có những công lao to lớn. Trƣớc tiên,
đó là sự cải cách khôi phục cho opera seria ra khỏi thời kỳ khủng hoảng. Tiếp
sau là sự
phát triển nâng cao cho opera cả về nội dung, hình thức lẫn thể loại và phong
cách
nghệ thuật.
Nhƣ đã nêu ở trên, opera seria đã đƣợc hoàn thiện ở Naples của Ý. Tuy nhiên,
thể loại opera này hầu nhƣ không thoát khỏi phạm vi thẩm mỹ của giới quý tộc.
Giới
quý tộc đã vun đắp và coi nhƣ đây là thể loại của riêng họ. Đề tài của opera
seria
thƣờng hƣớng tới những câu chuyện lịch sử, truyền thuyết, anh hùng, huyền thoại
hoặc
xoay quanh về vua chúa quý tộc mà ít đề cập đến đời sống thƣờng nhật của nhân
dân.
Lối hát bel canto, sử dụng những kỹ thuật tinh xảo trong thanh nhạc (virtuoso -
coloratura), thực hiện những câu nhiều nốt (passage) ở tốc độ nhanh do A.
Scarlatti xây
dựng đã bị nhiều nhạc sĩ lạm dụng. Thậm chí, nhiều ca sĩ còn tự thêm những đoạn
kỹ
thuật trong các aria để khoe giọng khiến cho giữa âm nhạc và nội dung kịch thiếu
sự
gắn kết chặt chẽ. Các số mục thanh nhạc của các opera nhiều khi bị sắp đặt một
cách
rập khuôn cứng nhắc theo công thức khiến vở opera nhƣ sự cộng gộp của các tiết
mục
thanh nhạc chứ không phải xuất phát từ nội dung của vở opera.
Chính từ những nguyên nhân trên mà vào đầu thế kỷ XVIII, opera seria bị rơi
vào khủng hoảng. Opera hài ra đời đáp ứng những nhu cầu thẩm mỹ mới song vẫn cần
phải có sự cải cách opera seria. Nhiều nhạc sĩ đã bỏ công sức để cải cách opera
seria
trong đó có J. Rameau, G.F. Haendel… song chƣa có ai thực sự thành công. Các
nhạc
sĩ cổ điển nửa sau thế kỷ XVIII đã làm đƣợc điều đó và công đầu tiên phải kể đến
Christof Willibald Gluck (1714 - 1787).
Nguyên tắc cơ bản nhất trong sự cải cách opera của Gluck là đề cao nội dung,
âm nhạc sinh ra từ nội dung kịch. Với hơn 100 vở opera và sự kiên định trong
những
12
nguyên tắc cải cách của mình mà Gluck đã trở thành nhà cải cách vĩ đại ở thời
đại đó.
Ông đã đáp ứng đƣợc nhu cầu cải cách cho opera seria.
Ngƣời tiếp bƣớc cho sự cải cách nhạc kịch của Gluck là nhạc sĩ Wolfgang
Amadeus Mozart (1756 - 1791). Mozart không chỉ lỗi lạc trong viết opera, ông còn
xuất sắc trong các lĩnh vực cho khí nhạc giao hƣởng, thính phòng. Khả năng viết
opera
và giao hƣởng của ông đã bổ sung cho nhau. Tƣ duy tính kịch và giai điệu trau
chuốt
của thanh nhạc đƣợc ông đƣa vào giao hƣởng. Và ngƣợc lại, tƣ duy chặt chẽ, triết
lý
của giao hƣởng đƣợc ông kết hợp vào opera. Với hơn 20 opera, Mozart đã đƣợc coi
là
một trong những nhạc sĩ opera vĩ đại.
Quan điểm cải cách nhạc kịch của Mozart có phần khác với Gluck. Trong các
opera của Gluck, âm nhạc phục vụ cho nội dung kịch. Còn với Mozart, ông đề cao
vai
trò của âm nhạc nhƣng nhạc và kịch phải gắn bó với nhau một cách hữu cơ. Nhiều
aria,
hợp ca, hợp xƣớng của ông mang tính kỹ thuật cao. Mozart đã đƣa khí nhạc trong
opera lên một bƣớc phát triển mới. Ông mở rộng thành phần dàn nhạc của opera
thành
dàn nhạc giao hƣởng thực thụ, tăng cƣờng chức năng tính kịch của dàn nhạc, phát
triển
khí nhạc theo hƣớng giao hƣởng. Đề cao tính kỹ thuật của thanh nhạc và khí nhạc
giao
hƣởng là một trong những thành công làm cho Mozart trở thành nhà cải cách opera
sau
Gluck. Ông đã tạo đƣợc sự hài hòa giữa âm nhạc với nội dung kịch.
Một nhạc sĩ nữa của trƣờng phái cổ điển cũng góp phần làm phong phú thể loại
cho opera là nhạc sĩ Ludwig Van Beethoven (1770 - 1827). Beethoven chỉ viết một
opera duy nhất là “Fidelio”. Tác phẩm này thuộc dạng opera anh hùng ca kết hợp
tính
trữ tình. Chủ đề đấu tranh - anh hùng - chiến thắng luôn là chủ đạo trong các
tác phẩm
khí nhạc của Beethoven và trong opera này cũng nhƣ vậy. Đó là điều chƣa từng có
trong các opera trƣớc đó. Vốn là nhạc sĩ giao hƣởng vĩ đại, khí nhạc giao hƣởng
trong
opera của Beethoven đƣợc chú trọng hơn các bậc tiền bối.
Nhìn chung, các nhạc sĩ cổ điển đã hoàn thành một sứ mạng cao cả có ý nghĩa
lịch sử to lớn, đáp ứng đƣợc nhu cầu thẩm mỹ tiến bộ của thời đại, đó là cải
cách opera
và quan trọng hơn, họ đã hoàn thiện những đặc điểm cơ bản cho thể loại opera cả
về
thanh nhạc và khí nhạc.
13
1.2.3. Opera thời kỳ lãng mạn.
Thời kỳ lãng mạn thế kỷ XIX, opera đƣợc phát triển hết sức phong phú. Bên
cạnh các thể loại seria và buffa truyền thống, opera đƣợc nở rộ với nhiều thể
loại và đề
tài mới.
Sự phản ánh cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của các nƣớc châu Âu ở thời kỳ
lãng mạn đã tạo ra một khuynh hƣớng mới là opera lịch sử. Opera lịch sử xuất
hiện vào
những năm 30 của thế kỷ XIX, trong các tác phẩm của nhạc sĩ Pháp là D. Auber và
sau đó là nhạc sĩ Ý - G.A. Rossini. Nội dung chủ yếu của opera lịch sử của thời
kỳ lãng
mạn thế kỷ XIX phản ánh thời đại, gắn với các chủ đề yêu nƣớc, anh hùng, cách
mạng.
Một nhạc sĩ ngƣời Ý đƣợc mệnh danh “ngƣời thầy của cách mạng Ý” [8:39] là
Giuseppe Verdi (1813 - 1901). Trong nhiều opera của ông là những chủ đề yêu
nƣớc,
những bài ca cách mạng. Opera lịch sử còn gắn với nhiều tên tuổi của các nhạc sĩ
Nga
nhƣ M. Glinka, P.I. Tchaikovsky, M. Mussorgsky, Rimski-Korsakov, A.P. Borodin;
nhạc sĩ Tiệp B. Smetana và nhiều nhạc sĩ khác…
Một khuynh hƣớng mới nữa trong opera thời kỳ lãng mạn là opera trữ tình.
Nƣớc Pháp là nƣớc đi đầu trong việc xây dựng cho thể loại này. Trƣớc tiên phải
kể đến
Thomas và sau đó là Gounod. Tiếp sau nữa là thế hệ các nhạc sĩ lỗi lạc nhƣ
Saint-
Saens, Delibes, Bizet, Massenet… Opera trữ tình còn đƣợc chia thành nhiều dạng
nhƣ
trữ tình tâm lý, thần thoại dân gian, huyền thoại kỵ sĩ…Các nhạc sĩ Georges
Bizet
(1838 - 1875) của Pháp và G. Verdi của Ý đã đạt đến đỉnh cao trong opera tâm lý
trữ
tình. Nhạc sĩ ngƣời Nga - Piot Ilich Tchaikovsky (1840 - 1893) cũng có một số
opera
tâm lý trữ tình nổi tiếng nhƣ “Evgeni Onegin”.
Viết opera thần thoại dân gian là nhạc sĩ ngƣời Đức, Carl Maria Weber; A.
Dvorak của Tiệp; M. Glinka, Rimski-Korsakov của Nga …Ngƣời có nhiều sự đổi mới
cho opera thế kỷ XIX nói chung và cho opera trữ tình thần thoại nói riêng phải
kể đến
nhạc sĩ ngƣời Đức, Richard Wagner (1813- 1883). Wagner là nhà cải cách opera của
thời đại lãng mạn. Ông có nhiều đổi mới gây tranh cãi trong giới những ngƣời
quan
tâm đến opera nhƣ: cấu trúc theo nguyên tắc xuyên suốt tạo sự xóa nhòa ranh giới
giữa
các tiết mục thanh nhạc, triệt để đề cao vai trò của khí nhạc giao hƣởng trong
opera, sử
14
dụng các bè thanh nhạc theo lối ngâm ngợi… Những sáng tạo của Wagner đã đƣa ông
trở thành nhạc sĩ thiên tài của thế kỷ XIX.
Trên đây, chúng tôi đã đề cập đến hai khuynh hƣớng chính trong các thể loại
của opera thế kỷ XIX là những khuynh hƣớng mới so với các thể loại opera seria
và
buffa vốn có từ các thời đại trƣớc.
Về mặt cấu trúc, so với thời kỳ tiền cổ điển thì opera lãng mạn vẫn kế thừa các
nguyên tắc cấu trúc nhƣ: có khúc mở màn; các lớp, màn, cảnh; các tiết mục thanh
nhạc…nhƣng có sự đổi mới nhƣ sử dụng nguyên tắc cấu trúc xuyên suốt khác với
trƣớc đây là cấu trúc số mục. Lối cấu trúc xuyên suốt khiến cho các sự kiện kịch
đƣợc
xâu chuỗi và tạo thành một dòng chảy liên tục. Một trong những phƣơng pháp tạo
tính
xuyên suốt của các nhạc sĩ thời kỳ lãng mạn là xây dựng hệ thống âm hình chủ đạo
(leitmotiv).
Việc sử dụng các tiết mục thanh nhạc của opera thời kỳ lãng mạn cũng có một
số điểm khác so với trƣớc. Đó là tăng cƣờng các tiết mục hợp xƣớng và đi theo là
các
cảnh quần chúng.
Các nhạc sĩ lãng mạn ƣa dùng thể liên khúc nhƣ liên ca khúc thanh nhạc; liên
khúc giao hƣởng thơ, liên khúc các khúc nhạc thành tổ khúc lãng mạn… Và trong
opera, nhạc sĩ R. Wagner cũng đã có một sự sáng tạo về cấu trúc là liên kết các
opera
thành dạng liên khúc đồ sộ, đó là bộ nhạc kịch “Chiếc nhẫn Nibelung” (1852 -
1874)
gồm bốn vở: “Vàng sông Ranh”, “Vankiari”, “Dinfrid” và “Sự diệt vong của các
thần”.
Tiếp theo con đƣờng mà Gluck và Mozart đã đi, các nhạc sĩ lãng mạn thực sự đã
thành công trong việc nâng cao tính giao hƣởng của khí nhạc trong opera. Wagner
đƣợc mệnh danh là nhà giao hƣởng hóa nhạc kịch với sự phát triển giao hƣởng
triệt để
trong các opera của mình. Các nhạc sĩ Verdi, Tchaikovsky cũng rất chú ý tới sự
giao
hƣởng hóa opera. Không chỉ có các khúc mở màn đƣợc các nhạc sĩ viết ở các hình
thức
của giao hƣởng là thể sonate hay sonate tự do mà các khúc chuyển màn, chuyển
cảnh
và cả nhạc đệm cho thanh nhạc cũng mang tính giao hƣởng. Tính giao hƣởng của
opera
thể hiện ở cách sử dụng dàn nhạc đồ sộ; các thủ pháp phối khí đa dạng, chặt chẽ;
các
15
chủ đề trong khí nhạc gắn bó mật thiết với phần thanh nhạc; sự phát triển của
các âm
hình chủ đạo tạo sự thống nhất các tình tiết, các lớp, các màn kịch; hoặc ở các
khúc mở
màn, khí nhạc bao quát nội dung toàn vở bằng cách giới thiệu các chủ đề chính
của các
nhân vật...
Trƣớc đây, các nhạc sĩ tiền cổ điển thƣờng viết các khúc mở màn lớn. Đến thời
cổ điển, ouverture đã đƣợc Gluck cải cách ngắn gọn hơn; Gluck và Mozart sử dụng
hình thức sonate để xây dựng ouverture. Opera thế kỷ XIX cũng kế thừa những
nguyên
tắc này nhƣng có thêm những sáng tạo mới. Nhiều nhạc sĩ đã thay thế ouverture
bằng
prelude với mục đích tạo khúc mở màn thật súc tích, chủ yếu để giới thiệu các
hình
tƣợng chính của vở opera. Ngƣời đầu tiên dùng prelude làm khúc mở màn là Wagner
và sau đó là Bizet, Verdi…
1.2.4. Opera thế kỷ XX.
Lịch sử thế giới thế kỷ XX phát triển hết sức phức tạp và đầy mâu thuẫn. Đặc
biệt ở nửa đầu thế kỷ có những biến động lớn làm thay đổi các mặt chính trị,
kinh tế và
đời sống xã hội. Trƣớc tiên phải kể tới hai cuộc đại chiến thế giới đã đẩy nhân
loại tới
đáy của sự cùng cực và những thảm họa khủng khiếp. Tiếp sau đó là sự phát triển
nhƣ
vũ bão của khoa học - kỹ thuật đã nhanh chóng khôi phục lại đời sống xã hội của
con
ngƣời sau hai cuộc đại chiến… Tất cả những sự kiện đó đã ảnh hƣởng trực tiếp tới
văn
hóa nghệ thuật trong đó có âm nhạc.
Ở các thế kỷ XVIII và XIX, trong âm nhạc chỉ có hai khuynh hƣớng chính là
chủ nghĩa cổ điển (thế kỷ XVIII) và chủ nghĩa lãng mạn (thế kỷ XIX). Còn ở thế
kỷ
XX, cùng với sự phát triển của đời sống xã hội, lịch sử âm nhạc cũng chuyển biến
hết
sức phức tạp với nhiều trào lƣu, trƣờng phái, phong cách khác nhau.
Opera nửa đầu thế kỷ XX.
Nửa đầu thế kỷ XX, trong âm nhạc nổi lên các trào lƣu chính là âm nhạc ấn
tƣợng, âm nhạc biểu hiện, tả chân, tân cổ điển.
Trào lƣu ấn tƣợng ra đời vào những năm đầu thế kỷ XX, nổi danh là tên tuổi của
hai nhạc sĩ ngƣời Pháp: Claude Debussy (1862 - 1918) và Maurice Ravel (1875 -
1937). Các nhạc sĩ ấn tƣợng ít chú ý tới những vấn đề hiện thực của cuộc sống.
Họ
16
thiên về mô tả thiên nhiên nhiều hơn và quan tâm tới sự mới mẻ trong các mảng
màu
sắc âm thanh, sự sáng tạo trong các thủ pháp hòa âm, điệu thức… Debussy đã viết
opera “Pelleas và Melisande” (1902) gồm 5 màn, là tác phẩm đỉnh cao trong nghệ
thuật opera ấn tƣợng. Ravel cũng có một opera khác với cấu trúc truyền thống là
opera
một màn mang tính hài hƣớc “Giờ Tây Ban Nha” (1907), vở này thể hiện đậm nét
phong cách ấn tƣợng. Nhạc sĩ ngƣời Tây Ban Nha, Manuel de Falla (1876 - 1946 )
viết
opera “Cuộc sống ngắn ngủi” (1913), là tác phẩm phát triển phong cách dân tộc
kết
hợp với cách sử dụng hòa âm và phối khí hiện đại, trong đó có lối hát của những
bài
hát cổ Tây Ban Nha miền Anludia (Canto Jondo), lối hát truyền thống dân gian của
ngƣời Digan và ngƣời Ảrập.
Những năm cuối thế kỷ XIX ở Ý xuất hiện trào lƣu tả chân (verisimo), trào lƣu
này kéo sang đầu thế kỷ XX. Quan điểm của những nghệ sĩ theo trào lƣu tả chân là
không tô hồng hiện thực. Nổi bật trong trào lƣu tả chân là Mascagni (1863 -
1945) với
vở opera “Cavalleria rusticana”. Giacomo Puccini (1858 - 1924) là nhạc sĩ ở
trong
thời kỳ tả chân và một số tác phẩm giai đoạn đầu có ảnh hƣởng trào lƣu này nhƣng
đa
số các tác phẩm của ông khác hẳn nghệ thuật Tả chân chủ nghĩa. Với 12 opera
trong đó
có những vở xuất sắc nhƣ “La Boheme” (1896), “Tosca” (1900), “Madame Butterfly”
(1904)… Puccini đƣợc đánh giá là ngƣời kế thừa xứng đáng của nhạc sĩ Verdi bởi
sự
sáng tạo trong hòa thanh, nghệ thuật tinh xảo trong phối dàn nhạc và đặc biệt là
vẻ đẹp
của giai điệu. Hơn thế nữa, các opera của ông luôn gắn liền với cội nguồn dân
tộc.
Trƣờng phái âm nhạc biểu hiện xuất hiện vào đầu thế kỷ XX với tên tuổi các
nhạc sĩ nhƣ R. Strauss, B. Bartok mà âm nhạc của họ có những màu sắc mới về hòa
âm, phối khí nhƣng gắn với cội nguồn âm nhạc dân tộc. Trong trƣờng phái này còn
có
một số các nhạc sĩ theo khuynh hƣớng sáng tác âm nhạc dodecaphone (sử dụng 12
âm,
xóa bỏ điệu tính - atonal). Đó là A. Schoenberg, A. Berg và A. Webern. Nhạc sĩ
Alban
Berg (1885 - 1935) có vở opera “Wozzeck” (1914 - 1922) khá độc đáo. Vở này gây
ấn
tƣợng lớn trong âm nhạc thế kỷ XX bởi ngôn ngữ hết sức mới lạ, phức tạp: các
hình
thức khí nhạc opera vẫn theo truyền thống nhƣng sử dụng âm nhạc vô điệu tính và
17
recitativo không phải là hát nói mà là spréchstimme có thể dịch là nói hát, có
khi có cả
nói thì thầm hoặc thét lên.
Một trào lƣu đáng chú ý nữa của nửa đầu thế kỷ XX là tân cổ điển với một số
tên tuổi nổi tiếng nhƣ I. Stravinsky, P. Hindemith, G. Mahler. Các nhạc sĩ tân
cổ điển
học tập hình thức, khuôn mẫu, thể loại của các nhạc sĩ cổ điển còn ngôn ngữ âm
nhạc
thì theo phong cách hiện đại. Paul Hindemith (1895 - 1936) là ngƣời rất thành
công
trong opera. Opera xuất sắc của ông là “Mathis der Maler” (“Mathis - chàng họa
sĩ”).
Vở này hoàn thành năm 1935, gồm 6 màn, ông đã lấy nhiều giai điệu ở các thế kỷ
XIII,
XIV để xây dựng thành các aria và ca khúc. Nhƣng ngôn ngữ hòa âm và giai điệu
của
Hindemith rất phức tạp. Ông cũng sử dụng hòa âm của hệ thống 12 âm vô điệu tính
theo kiểu của Schoenberg và cách viết hòa âm theo các tầng:
Khúc mở màn trong màn 6 vở “Mathis der Maler”
Với giai điệu trên ta không thể phân tích điệu thức và hợp âm nhƣ trong âm
nhạc cổ điển đƣợc, ông chia thành hai mảng hòa thanh: một mảng ở các bè trên
(khóa
sol); một mảng ở các bè dƣới (khóa fa). Xem xét hai chồng âm cuối cùng ta thấy
ông
đã sử dụng theo kiểu có thêm quãng triton (4 tăng) a
b
- d và g - c
#
, đây là đặc trƣng
trong cách viết hòa âm của Hindemith.
Opera nửa sau thế kỷ XX.
Lịch sử thế giới nửa sau thế kỷ XX là thời kỳ loài ngƣời bƣớc ra khỏi hai cuộc
chiến tranh thế giới. Những thành tựu của khoa học và kỹ thuật đã giúp con ngƣời
nhanh chóng đƣợc khôi phục lại đời sống xã hội. Tuy nhiên, sau chiến tranh thế
giới
thứ II (1945), đứng trƣớc sự hoang tàn đổ nát, tâm trạng con ngƣời không khỏi có
sự
hoang mang, lo lắng cho tƣơng lai. Từ đó xuất hiện một số chủ nghĩa thể hiện sự
khủng
18
hoảng nhƣ Chủ nghĩa hiện sinh. Chủ nghĩa này có ảnh hƣởng đến nhiều lĩnh vực
trong
nghệ thuật.
Nghệ thuật âm nhạc nửa sau thế kỷ XX cũng xuất hiện nhiều khuynh hƣớng,
trào lƣu mới nhƣ: serie, điện tử, minimal (tối thiểu), tiền phong, biến hóa âm
hƣởng,
ngẫu nhiên… Rất nhiều nhạc sĩ, ca sĩ của các trào lƣu này tìm tòi ngôn ngữ sáng
tác
mới, phong cách biểu diễn lạ và cắt đứt với truyền thống. Thí dụ nhƣ tác phẩm
Bốn
phút ba mươi ba giây cho piano của John Cage (1912 - 1995) thuộc trƣờng phái
ngẫu
nhiên không có một nốt nhạc nào, có nhạc sĩ còn sáng tác cho piano tự chơi mà
không
phải là cho ngƣời biểu diễn nhƣ Nancarrow (1912 - 1997). Tuy nhiên, một số nhạc
sĩ
nửa sau thế kỷ XX vẫn sáng tạo trong mối liên hệ với truyền thống nhƣ D.
Sostakovitch, S. Prokofiev…
Trong opera có thể kể đến một số đại diện tiêu biểu nhƣ sau:
Nhạc sĩ ngƣời Đức Karlheinz Stockhausen (sinh năm 1928) thuộc trào lƣu serie.
Serie dựa trên âm nhạc dodecaphon (12 âm) nhƣng bỏ lối tƣ duy chủ đề, tƣ duy
motif
mà sắp xếp âm nhạc theo lối hàng âm. Stockhausen có vở opera “Light” (1977) theo
lối liên hoàn các vở mà trƣớc đây ngƣời sáng tạo là R. Wagner. Wagner đã liên
kết 4
opera nhƣng Stockhausen còn liên kết tới 7 opera, mỗi vở dài trong 4 giờ. Ông
còn sắp
xếp cho nhạc công đồng thời cũng là ca sĩ hát trong bộ opera này. Trong ngôn ngữ
âm
nhạc serie, quy tắc về hàng âm rất nghiêm ngặt nhƣng âm thanh vang lên tựa nhƣ
là
ngẫu nhiên. Opera “Light” thể hiện rõ phong cách serie.
Nhạc sĩ ngƣời Hungari G. Ligeti (sinh năm 1923) của trào lƣu âm nhạc biến hóa
âm hƣởng viết opera “Le Grand Macabic”. Vở này không có khúc mở màn bằng dàn
nhạc mà bằng những tiếng hú gây cảm giác lạ lùng và hài hƣớc. Ở đây tập trung
những
phong cách mới lạ của Ligeti nhƣ đa tiết tấu, đa tiết nhịp, các ô nhịp không đều
nhau,
hát không có lời, lấy phát âm làm phƣơng tiện tạo ra kịch tính…
Trong số các nhạc sĩ nửa sau thế kỷ XX hƣớng vào các phƣơng pháp sáng tác
truyền thống phải kể đến Dimitry Shostakovitch (1906 - 1975). Ông viết opera
“Katerina Izmaijlova” (1932) theo lối cấu trúc âm nhạc “xuyên suốt” và phong
cách
recitativo ngâm ngợi của các nhạc sĩ lãng mạn. Ngoài Shostakovitch, Sergei
Procofiev
19
(1891 - 1953) cũng dựa trên thuyền thống opera cổ điển và lãng mạn. Với 8 vở
nhạc
kịch, ông trở thành ngƣời viết opera nổi tiếng nƣớc Nga. Vở “Chiến tranh và hòa
bình” (1941 - 1952) theo phong cách trữ tình anh hùng ca và còn kết hợp cả tâm
lý, sử
thi là những khuynh hƣớng cơ bản của opera thời kỳ lãng mạn.
Một xu hƣớng mới trong opera của nửa sau thế kỷ XX là opera - ca khúc và
kịch hát. Với dạng opera - ca khúc, các nhạc sĩ đã viết các giai điệu thanh nhạc
nhƣ bài
hát, hay nói cách khác, bài hát và tính ca khúc là nền tảng cho giai điệu trong
thanh
nhạc của opera. Nổi tiếng trong opera - ca khúc là tác phẩm “Sông Đông êm đềm”
(1934) và “Đất vỡ hoang” (1937) của Dzerginsky (ngƣời Nga). Kịch hát cũng là một
dạng gần với opera - ca khúc. Trong dạng này không chỉ giai điệu thanh nhạc mang
tính ca khúc mà phần dàn nhạc không đề cao khí nhạc giao hƣởng nhƣ các dạng
opera
khác, có sự kết hợp với các nhạc cụ ngoài giao hƣởng nhƣ nhạc cụ điện tử (organ
điện
tử, flute điện tử, trống Jazz) và các nhạc cụ dân tộc. Phần hát của opera dạng
này còn
sử dụng nhiều giai điệu của Rock - Pop. Tiêu biểu có thể kể đến tác phẩm “Cats”
-
“Những con mèo” (1977 - 1980) của Andrew Lloyd Webber. Trong vở này ta có thể
thấy những yếu tố hoàn toàn khác với opera truyền thống từ cách trang phục của
diễn
viên đến các màn múa, màn hợp xƣớng theo kiểu nhạc Rap (nói theo tiết tấu). Các
bè
dàn nhạc đệm nhắc đi nhắc lại những quãng nửa cung chromatique theo kiểu âm nhạc
mininal:
Bài hát của các Jellicon trong vở “Cats”
Chorus nói theo tiết tấu (spoken in rhythm)
20
Nhìn chung, các opera thế kỷ XX có thể chia ra thành ba dạng chính nhƣ sau:
- Dạng của nhóm các nhạc sĩ dựa trên cốt cách truyền thống cả về cấu trúc, thể
loại và ngôn ngữ âm nhạc nhƣ các nhạc sĩ Sostacovich, Procofiev, Puccini, Manuel
de
Falla …
- Dạng thứ hai là của nhóm các nhạc sĩ có những phong cách mới bứt phá nhƣng
phần nào vẫn dựa trên truyền thống nhƣ cấu trúc của opera vẫn theo màn cảnh,
cách sử
dụng các tiết mục thanh nhạc, biên chế dàn nhạc nhƣng có nhiều sự đổi mới về
ngôn
ngữ âm nhạc. Nhóm này đa phần là ở nửa đầu thế kỷ XX.
- Dạng thứ ba là sự bứt phá khác xa truyền thống mà chủ yếu là các opera của
các nhạc sĩ nửa sau thế kỷ XX và phần nào đó ở nửa đầu thế kỷ XX. Ở các opera
này
(nhƣ đã viết ở trên) dùng cả tiếng hú, tiếng thét hoặc thì thầm thay cho hát là
hiện
tƣợng hiếm có. Việc giai điệu đƣợc viết dựa trên cơ sở âm nhạc vô điệu tính, đa
tiết
tấu, tiết nhịp đã dẫn tới kỹ thuật biểu diễn hết sức khó. Đặc biệt, với các tác
phẩm theo
phong cách ngẫu nhiên thì có thể nói là hoàn toàn khác hẳn so với truyền thống.
Nhiều nhạc sĩ thế kỷ XX tiếp nối truyền thống lãng mạn là đề cao vai trò của
dàn nhạc giao hƣởng trong opera. Thậm chí, họ còn đề cao vai trò khí nhạc hơn cả
thanh nhạc. Ngay nhƣ trong tác phẩm của P. Hindemith, của A. Berg ta thấy họ xử
lý
các bè của dàn nhạc hết sức phức tạp, kỹ lƣỡng. Phần khí nhạc của vở “Mathis -
chàng
họa sĩ” (P. Hindemith) và “Wozzeck” (A. Berg) đã đƣợc tách riêng ra thành poème
-
symphonique.
Việc ca khúc hóa giai điệu thanh nhạc trong opera đã dẫn tới một khuynh hƣớng
mới của opera thế kỷ XX là kịch hát. Có quan điểm còn cho rằng kịch hát không
đƣợc
coi là opera bởi cả về thanh nhạc và khí nhạc đã sang một dạng thể loại khác: âm
nhạc
mang tính đời thƣờng, thay đổi cả về sử dụng dàn nhạc (nhạc điện tử), cách hát,
múa,
trình diễn, trang phục và giai điệu thanh nhạc, ngôn ngữ hòa âm, phối khí… có
tính
chất gần với các ca cảnh hơn.
Tóm lại, opera ra đời và đƣợc hình thành ở châu Âu với công lao đầu tiên là của
ngƣời Ý. Qua chặng đƣờng lịch sử phát triển trên 400 năm, opera đã đạt những
thành
tựu rực rỡ, trở thành nghệ thuật âm nhạc chuyên nghiệp của thế giới. Opera châu
Âu có