Khóa luận tốt nghiệp: Thực trạng và một số giải pháp chủ yếu giảm nghèo ở huyện Quỳ Châu, tỉnh Nghệ An
6,637
417
81
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Nguyễn văn Vượng
SVTH: Lô Quang Hiệp – R7KTNN
61
Trong đó cụ thể trong mỗi nhóm hộ lại có các mức thu nhập hoàn toàn khác
nhau, đối với nhóm hộ nghèo mức thu nhập của họ rất thấp, bình quân chỉ có
21.126.000 đồng/hộ/năm. Trong đó thu nhập từ trồng trọt chỉ có 8.230.000 đồng,
tương đương chiếm 38,96%, từ chăn nuôi là 6.861.000 đồng, chiếm 32,47%, và
còn lại là thu nhập từ lâm nghiệp và một số ngành nghề khác chiếm khoảng
28,57%. Đối với nhóm hộ trung bình và nhóm hộ khá mức thu nhập của họ có cao
hơn hẳn, ở nhóm hộ trung bình, mức thu nhập bình quân của họ là 31.913.000
đồng/hộ/năm. Trong đó thu nhập chủ yếu là từ trồng trọt và chăn nuôi, thu từ
trồng
trọt 11.867.000 đồng, chiếm 37,19% mức tổng thu nhập của cả hộ và từ chăn nuôi
là 14.087.000 đồng chiếm 44,14% , còn lại là thu từ một số nghành nghề khác
chiếm khoảng 18,67%. Còn nhóm hộ khá, mức thu nhập bình quân của họ rất cao
so vơi mặt bằng chung, thu nhập trung bình mỗi hộ là 56.158.000 đồng, trong đó
các hộ này thu rất đồng đều từ tất cất nghành, từ trồng trọt là 13.829.000 đồng,
tương đương chiếm khoảng 24,74% mức tổng thu nhập của toàn hộ. Từ chăn nuôi
là 19.458.000đồng, tương đương khoảng 34,65% và từ lâm nghiệp 6.667.000đồng
còn từ các nghành khác là 16.141.000đồng.
Qua đó đã cho ta thấy được một điều rất rõ ràng là, các hộ nghèo muốn
thoát khỏi cảnh nghèo thì đòi hỏi phải có sự chuyển đổi giống cây trồng, vật
nuôi
mới để tăng năng suất, tăng thu nhập, đồng thời phải phát triển đa dạng các
nghành
nghề một cách đồng đều và hợp lý, như thế mới có thể đem lại cho họ một mức thu
nhập ổn định và có thể xoá đói giảm nghèo được./.
2.4.2. Hiệu quả một số cây trồng chính.
Khi nói đến sản xuất nông nghiệp chúng ta không thể không kể đến vai trò
to lớn của nghành trồng trọt, đó là một trong những nguồn thu chính của các hộ
nông dân ở huyện Quỳ Châu các cây trồng chính mà người dân ở đây trồng đó là:
lúa, keo, mía... Ngoài ra còn có thêm một số loài cây khác, tuy nhiên để đi vào
nghiên cứu cụ thể từng loại cây một chúng ta cùng đi vào cụ thể hơn về tình hình
sản xuất của 3 loại cây trồng chính ở (Bảng 10) dưới đây.
Đại học Kinh tế Huế
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Nguyễn văn Vượng
SVTH: Lô Quang Hiệp – R7KTNN
62
Bảng 11: Hiệu quả một số cây trồng chính của các hộ điều tra.
(tính bình quân/1hộ/vụ)
Chỉ tiêu
ĐVT
TỔNG, BQ
CHUNG
Nhóm Hộ
Hộ nghèo
Trung bình
Hộ khá
1. Lúa
1000 đ
Tổng thu
1000 đ
2.920
2.297
2.860
4.708
Tổng chi phí sx
1000 đ
1.175
1.027
1.087
1.629
Thu nhập
1000 đ
1.745
1.270
1.773
3.079
Số lao động Bq/hộ.
LĐ
2,3
2,12
2,6
2,42
Tổng thu/chi phí
Lần
2,49
2,24
2,63
2,89
Thu nhập/chi phí
Lần
1,49
1,24
1,63
1,89
Tổng thu/lao động
1000 đ
1.270
1.083
1.100
1.945
Thu nhập/lao động
1000 đ
759
559
682
1.272
2. Cây mía
1000 đ
Tổng thu
1000 đ
3.150
3.867
7.613
11.625
Tổng chi phí sx
1000 đ
1.395
1.836
2.860
3.858
Thu nhập
1000 đ
1.755
2.031
4.753
7.767
Số lao động Bq/hộ.
LĐ
2,3
2,12
2,6
2,42
Tổng thu/chi phí
Lần
2,26
2,11
2,66
3,01
Thu nhập/chi phí
Lần
1,26
1,11
1,66
2,01
Tổng thu/lao động
1000 đ
1.370
1.824
2.928
4.804
Thu nhập/lao động
1000 đ
763
958
1.828
3.209
3. Cây keo
1000 đ
Tổng thu
1000 đ
6.355
1.867
3.160
6.667
Tổng chi phí sx
1000 đ
2.497
960
1.667
2.250
Thu nhập
1000 đ
3.858
907
1.493
4.417
Số lao động Bq/hộ.
LĐ
2,3
2,12
2,6
2,42
Tổng thu/chi phí
Lần
2,55
1,94
1,90
2,96
Thu nhập/chi phí
Lần
1,55
0,94
0,90
1,96
Tổng thu/lao động
1000 đ
2.763
881
1.215
2.755
Thu nhập/lao động
1000 đ
1.677
428
574
1.825
(Nguồn: Số liệu điều tra 2010)
Đại học Kinh tế Huế
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Nguyễn văn Vượng
SVTH: Lô Quang Hiệp – R7KTNN
63
Qua bảng số liệu trên đã cho ta thấy được rõ hơn giữa các nhóm hộ có một sự
chênh
lệch khá lớn, giữanhóm hộ khá và nhóm hộ trung bình thì năng suất cây trồng cao
hơn hẳn
so với nhóm hộ nghèo, lý do họ đạt được năng suất cao hơn là họ biết đầu tư hợp
lý hơn,
các tư liệu sản xuất của họcó sự tiếnbộ hơn, khảnăng áp dụng KH-KT vào sản xuất
của họ
cao hơn, vì thế năng suất cây trồngcủa hai nhóm hộ này cao hơn nhóm hộ nghèo.
Cây lúa vốn là cây trồng mang tính truyền thống của người dân địa phương nơi
đây, tuy nhiên do ở đây là khu vực miền núi, do đó diện tích đất để người dân
nơi đây
sản xuất là rất it, mặc dù vậy nhưng gần như hộ nào cũng sản xuất lúa, tuy nhiên
tính
hiệu quả, mức độ năng suất của các nhóm hộ thì cũng khác nhau, ở hộ nghèo mức độ
năng suất là rất thấp, bình quân tổng thu mỗi hộ chỉ 2.297.000 đồng/hộ/vụ, còn ở
nhóm
hộ trung bình và hộ khá thì mức độ năng suất là cao hơn, đối với hộ trung bình
có mức
tổng thu bình quân là 2.860.000đồng/hộ/vụ, hộ khá là 4.708.000 đồng/hộ/vụ. Sở dĩ
có
sự chênh lệch như vậy điều đó cũng dễ dàng lí giải, bởi vì nhóm hộtrung bình và
nhóm
hộ khá có nhiều điều kiện để chăm sóc hơn, họ đầu tư nhiều hơn, điều kiện của họ
tốt
hơn về mọi mặt, từ đó làm cho tổng thu/chi phí của các nhóm hộ này cũng cao hơn,
từ
đó làm cho mức chi phí đầu tư của các nhóm hộ cũng khác nhau rõ rệt. ở nhóm hộ
nghèo và hộ trung bình mức độ đầu tư tương đối thấp, chỉ 1.027.000đ đối với hộ
nghèo,
và 1.087.000đ đối với hộ trung bình, ở nhóm hộ khá mức độ đầu tư cao hơn
1.629.000đ/hộ/vụ, vì thế năng suất của họ cao hơn, hộ khá là 2,89 (lần). Còn đối
với
nhóm hộ nghèo thì tỷ lệ này rất thấp, chỉ đạt 2,24 (lần), ở nhóm hộ trung bình,
tỷ lệ này
là 2,63 (lần), Nhóm hộ khá có mức thu nhập trung bình/lao động là 1.272.000
đồng/lao
động/vụ. Còn nhóm hộ trung bình tỷ lệ này là 682.000đ, nhóm hộ nghèo chỉ có
559.000đ. Tương ứng mức thu nhập/chi phí của các nhóm hộ là: 1,24 (lần) đối với
hộ
nghèo, 1,63(lần) đối với hộ trung bình và 1,89(lần) đối với nhóm hộ khá.
Một trong những cây trồng khác của các hộ nông dân ở nơi đây đó chính là cây
keo. Rất nhiều hộ nông dân ở nơi đây đã đầu tư vào trồng keo và cũng đã đem lại
hiệu
quả khá rõ rệt, góp một phần đáng kểt vào công tác XĐGN của các hộ, mỗi năm bình
quân mức tổng thu từ cây keo đối với hộ nghèo là 1.637.000đ, hộ trung bình là
3.160.000đ và 6.667.000đ đoói với hộ khá tương ứng mức thu nhập/lao động là
428.000đ, 574.000đ và 1.825.000đ/lao động/năm .
Khi nói đến cây trồng ở địa phương này chúng ta không thể không kể đến cây
Mía, đây là một trong những loại cây thuộc thế mạnh của địa phương, qua số liệu
điều
Đại học Kinh tế Huế
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Nguyễn văn Vượng
SVTH: Lô Quang Hiệp – R7KTNN
64
tra đã cho ta thấy rõ rằng tỷ suất sình lời của cây mía ở đây là rất cao. Bình
quân
chung của các nhóm hộ nghèo là 2,11 lần, đối với nhóm hộ trung bình là 2,66 lần,
và
đối với nhóm hộ khá là 3,01 lần. Tương đương với bình quân mức thu nhập/lao
động/
vụ là. Đối với hộ nghèo tỷ lệ này là 2.171.000, đối với nhóm hộ trung bình là
2.800.000đ, và nhóm hộ khá là 4.804.000đ.
Vậy qua số liệu phân tích 3 loại cây trồng chính ở huyện Quỳ Châu ở 3 nhóm hộ
đã cho ta thấy rằng, nhóm hộ khá có năng suất cây trồng cao hơn và mang lại hiệu
quả
kinh tế cũng cao hơn. Tuy nhiên do còn nhiều hạn chế nên việc chuyển dịch cơ cấu
cây
trồng của hộ nghèo theo hướng có hiệu quả kinh tế phù hợp với thế mạnh của vùng
vẫn
chưa thực sự thực hiện có hiệu quả, các hộ nghèo còn bị động vì còn phụ thuộc
vào điều
kiện tự nhiên, trình độ tiếp cận khoa học kĩ thuật, công tác khuyến nông chưa
thực sự
gần gũi với dân, đât đai thì cằn cỗi, chiphí cho nghành thì cao... những điều
này đã mang
lại những điều thật sự bất lợi cho người dân, đặc biệt những hộ nghèo đã khó
khăn lại
càng khó khăn thêm. Vì vậy cần có các chính sách phù hợp để nâng từng bước đời
sống
của các nhóm hộ,dặc biệt là nhóm hộ nghèo lên cho kịp với các nhóm hộ khác, góp
phần
tích cực vào công tác xoá đói giảm nghèo của địa phương.
2.4.3. Hiệu quả một số vật nuôi chính.
Khi nói đến nông dân chắc chắn chúng ta sẽ liên tưởng ngay đến hai hình ảnh
luôn gắn liền với họ đó chính là sản xuất và chăn nuôi, đâylà hai yếu tố không
thể
thiếu đối với người dân sản xuất nông nghiệp, chính vì thế ngành chăn nuôi cũng
sẽ
chiếm một vị trí rất quan trọng trong sản xuất nông nghiệp ở nước ta từ những
ngày
dựng nước. Nó phát triển và có một mối quan hệ rất chặt chẽ với nghành trồng
trọt,
đồng thời gắn liền với đời sống cũng như trình độ phát triển của con người trong
từng
giai đoạn phát triển của kinh tế xã hội.
Quỳ Châu là một huyện thuần nông, thu nhập của người dân chủ yếu phụ thuộc
vào nông nghiệp, trong đó trồng trọt và chăn nuôi chiếm một vị trí rất lớn, các
hộ nông
dân có thể tận dụng những phụ phẩm của nghành trồng trọt để phục vụ cho nghành
chăn nuôi để giảm thiểu chi phí thức ăn để đầu tư cho các loại khác.
Đại học Kinh tế Huế
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Nguyễn văn Vượng
SVTH: Lô Quang Hiệp – R7KTNN
65
Bảng 12: Hiệu quả một số vật nuôi chính của các hộ điều tra.
Đơn vị tính: (Bình quân/hộ/năm)
Chỉ tiêu
ĐVT
TỔNG, BQ
CHUNG
Nhóm Hộ
Hộ nghèo
Trung bình
Hộ khá
1. Trâu Bò
1000 đ
Tổng thu
1000 đ
4.827
3.267
6.187
7.416
Tổng chi phí sx
1000 đ
3.632
2.942
4.240
4.767
Thu nhập
1000 đ
1.195
325
1.947
2.649
Số lao động Bq/hộ.
LĐ
2,3
2,12
2,6
2,42
Tổng thu/chi phí
Lần
1,33
1,11
1,46
1,56
Thu nhập/chi phí
Lần
0,33
0,11
0,46
0,56
Tổng thu/lao động
1000 đ
2.099
1.541
2.380
3.064
Thu nhập/lao động
1000 đ
520
153
749
1.095
2. Chăn nuôi Lợn
1000 đ
Tổng thu
1000 đ
2.896
762
4.527
6.725
Tổng chi phí sx
1000 đ
1.229
349
1.907
2.800
Thu nhập
1000 đ
1.667
413
2.620
3.925
Số lao động Bq/hộ.
LĐ
2,3
2,12
2,6
2,42
Tổng thu/chi phí
Lần
2,36
2,18
2,37
2,40
Thu nhập/chi phí
Lần
1,36
1,18
1,37
1,40
Tổng thu/lao động
1000 đ
1.259
359
1.910
2.779
Thu nhập/lao động
1000 đ
725
195
1.008
1.622
3. Chăn nuôi Dê
1000 đ
Tổng thu
1000 đ
3.173
2.400
3.013
5.500
Tổng chi phí sx
1000 đ
1.637
1.273
1.627
2.650
Thu nhập
1000 đ
1.536
1.127
1.386
2.850
Số lao động Bq/hộ.
LĐ
2,3
2,12
2,6
2,42
Tổng thu/chi phí
Lần
1,94
1,89
1,85
2,08
Thu nhập/chi phí
Lần
0,94
0,89
0,85
1,08
Tổng thu/lao động
1000 đ
1.380
1.132
1.159
2.273
Thu nhập/lao động
1000 đ
668
532
533
1.178
(Nguồn: Số liệu điều tra 2010)
Đại học Kinh tế Huế
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Nguyễn văn Vượng
SVTH: Lô Quang Hiệp – R7KTNN
66
Và các nhóm hộ nghèo họ cũng sẽ là những người phải chịu thiệt thòi hơn nhóm
hộ khác về nhiêu mặt đăc biệt là về vốn, do đó họ sẽ không đủ năng lực để có thể
xây
dựng chuồng trại kiên cố hay mua các loại thức ăn đầy đủ chất dinh dưỡng, khâu
chọn
giống cũng ít được quan tâm, khả năng phòng ngừa bệnh cho gia súc cũng ít được
quan
tâm, chính vì thế, rủi ro cũng như hiệu quả kinh tế là rất thấp, cụ thể qua bảng
số liệu
trên đã cho ta thây được thu nhập từ chăn nuôi của các hộ nông dân cũng là một
nguồn
thu không thể thiếu đối với họ, tuy nhiên mức hiệu quả kinh tế từ các nhóm hộ
cũng
không giống nhau, đối với nhóm hộ nghèo, do khả năng của họ chi có hạn về mọi
mặt
vì thế đối với chăn nuôi trâu bò, tổng thu trung bình mỗi hộ chỉ đạt
3.267.000đ/năm,
trong khi đó nhóm hộ trung bình và hộ khá đạt khá cao, tổng thu bình quân mỗi
năm
của hộ trung bình là 6.187.000đ và hộ khá là 7.416.000đ, chi phí của nhóm hộ
nghèo
cũng khá khiêm tốn, chỉ 2.942.000đ trong khi đó hộ khá lên tới 4.767.000đ, từ đó
làm
cho thu nhập bình quân mỗi hộ cũng có chênh lệch khá lớn. Bình quân chỉ 325.000đ
đối với hộ nghèo, trong khi hộ trung bình đạt tới 1.947.000đ và hộ khá đạt tới
2.649.000đ. tương ứng mức tổng thu/chi phí của hộ nghèo là 1,11 lần, đối với hộ
trung bình đạt 1,46 lần,còn đối với hộ khá đạt 1,56 lần. Tương đương mức thu
nhập/lao động đối với hộ nghèo là 153.000 đồng, hộ trung bình là 749.000 đồng,
và hộ
khá là 1.095.000 đồng. Điều này chứng tỏ quy mô chăn nuôi và khả năng đầu tư của
hai nhóm hộ trung bình và nhóm hộ khá là cao hơn so với nhóm hộ nghèo.
Bên cạnh đó, vấn đề chăn nuôi Lợn cũng được các hộ nông dân đầu tư và rất
lớn, và cũng đã đạt được những hiệu quả kinh tế nhất định. Cụ thể đối với nhóm
hộ
nghèo tổng thu/chi phí đạt 2,18 lần, nhóm hộ trung bình đạt 2,37 lần, đối với
nhóm hộ
khá đạt 2,40 lần. Từ đó đã tạo nên sự khác biệt trong trong mức thu nhập bình
quân/lao động/hộ cũng có sự chênh lệch nhau khá rõ rệt, đối với nhóm hộ nghèo,
mức
thu nhập này tương đối thấp, chỉ đạt 413.000 đồng, còn đối với nhóm hộ trung
bình và
hộ khá sẽ có mức thu nhập cao hơn, cụ thể như sau. Đối với nhóm hộ trung bình có
mức thu nhập 2.620.000 đồng, và nhóm hộ khá là 3.925.000 đồng.
Trong những năm gần đây việc chăn nuôi dê cũng đã được nhiều hộ nông dân ở
Quỳ Châu chú trọng đầu tư và cũng đã đem lại một mức thu nhập khá lớn cho người
dân,
cụ thể mức thu nhập bình quân đối với hộ nghèo là 1.127.000đ/năm, hộ trung bình
là
1.386.000đ/năm và hộ khá là 2.850.000đ/năm, mức thu nhập này mặc dù không thực
sự
Đại học Kinh tế Huế
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Nguyễn văn Vượng
SVTH: Lô Quang Hiệp – R7KTNN
67
lớn nhưng cúng đã góp phần làm tăng thêm thu nhập, đồng thời cũng tạo được thêm
việc làm cho người dân cho người dân địa phương trong những lúc rảnh rỗi.
Tóm lại, hình thức trồng trọt và chăn nuôi là hai hình thức cực kì quan trọng
đối với tất cả các hộ nông dân, đây là hai hình thức chủ yếu để đem lại thu nhập
chính
cho họ, tuy nhiên để phát triển một cách hoàn hảo, đem lại cho người dân mức thu
nhập cao, có hiệu quả kinh tế cao thì vẫn còn nhiều yếu tố cần phải khắc phục,
đặc biệt
là đối với các hộ nghèo rất cần đến sự can thiệp của chính quyền địa phương cụ
thể
như hỗ trợ về nguồn vốn, trình độ chuyên môn,giống...., Để giúp họ có được mức
thu
nhập cao hơn, họ biết cách làm ăn có hiệu quả hơn, từ đó góp phần tích cực hơn
vào
công tác xoá đói giảm nghèo của địa phương.
2.4.4. Chi tiêu bình quân/hộ của các hộ điều tra trong năm 2010.
Như chúng ta đã biết, có một quy luật tất yếu đối với nhân loài đó chính là để
có thể sống và tồng tại được thì nhất thiết phải ăn, và con người chúng ta cũng
vậy, ăn
mặc, chi tiêu là một điều tất yếu đối với mỗ chúng ta, tuy nhiêntuỳ từng điều
kiện cụ
thể của mỗi gia đình mà mỗi hộ có một cách chi tiêu khác nhau. Nếu như các hộ
khá
ngoài chi tiêu cho ăn uống thì các hộ này còn dùng một khoản thu nhập của mình
để
chi cho các nhu cầu khác như may mặc, vui chơi giải trí.... Thì điều này lại
hoàn toàn
ngược lại đối với nhóm hộ nghèo, Các chi tiêu cho các hoạt động như vui chơi
giải trí,
may mặc... thì rất ít hoặc gần như không có, những chi tiêu của họ chủ yếu chỉ
được
dùng vào những nhu cầu tất yếu như ăn,mặc...Vì vậy để thấy rõ hơn về điều này
chúng
ta cùng đi vào tìm hiểu một cách cụ thể hơn qua (bảng số liệu 13) ở dưới.
Qua quan sát ở bảng ta thấy rằng tổng chi bình quân hàng năm/hộ ở nhóm hộ
nghèo đang rất thấp, bình quân là 14.890.000đ, còn nhóm hộ trung bình là
20.547.000đ và nhóm hộ khá là 32.673.000đ. Do mức thu nhập thấp nên hầu như các
hộ thuộc nhóm hộ nghèo thường không có tích luỹ, hoặc có tích luỹ cũng rất thấp,
từ
số liệu điều tra thực tế ta thấy tỷ lệ tích luỹ bình quân ở các nhóm hộ nghèo họ
không
có tích luỹ, hơn thế nữa mỗi năm bình quân/hộ họ còn âm đến 640.000đ,tương đương
mức thu nhập của họ chỉ đạt bình quân 6.236.000đ trong khi đó họ chi tiêu cho
sinh
hoạt cơ bản đã lên đến 6.878.000đ.
Đại học Kinh tế Huế
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Nguyễn văn Vượng
SVTH: Lô Quang Hiệp – R7KTNN
68
Bảng 13: Chi tiêu bình quân 1 hộ điều tra năm 2010
Đơn vị tính: (Bình quân/hộ/năm)
Chỉ tiêu
BQ Chung
NHÓM HỘ
Hộ Nghèo
Hộ Trung Bình
Hộ khá
1000đ
%
1000đ
%
1000đ
%
1000đ
%
1.Tổng thu.
30.829
100,00
21.126
100,00
31.913
100,00
56.158
100,00
2. Tổng chi phí sản xuất
19.861
100,00
14.890
100,00
20.547
100,00
32.673
100,00
3. Tổng thu nhập
10.968
100,00
6.236
100,00
11.336
100,00
23.485
100,00
4. Chi tiêu
7.593
100,00
6.878
100,00
5.836
100,00
11.956
100,00
- Ăn uống
2.727
35,92
2.767
40,23
2.433
41,69
2.983
24,95
- Giáo dục
1.661
21,88
575
8,36
713
12,22
5.833
48,79
- Y tế
999
13,15
1.157
16,82
777
13,31
842
7,04
- Ma chay, cưới hỏi
985
12,97
1.295
18,83
570
9,77
852
7,12
- May mặc, mua sắm
588
7,74
370
5,38
830
14,22
888
7,43
- Chi khác
633
8,34
714
10,38
513
8,79
558
4,67
5. Một số chỉ tiêu BQ
- BQ thu nhập/hộ/năm
10.968
-
6.236
-
11.366
-
23.485
-
- BQ thu nhập/hộ/tháng
914
-
520
-
947
-
1.957
-
- BQ thu nhập/khẩu/tháng
219
-
125
-
225
-
499
-
- BQ thu nhập/lao động/tháng
397
-
245
-
364
-
809
-
5. Tích luỹ
3.376
-
-640
-
5.529
-
11.529
-
( Nguồn: Số liệu điều tra thực tế 2010)
Đại học Kinh tế Huế
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Nguyễn văn Vượng
SVTH: Lô Quang Hiệp – R7KTNN
69
Đối với nhóm hộ trung bình tổng thu nhập mỗi năm của họ là 11.336.000đ tương
đương mức thu nhập BQ/hộ/tháng là 947.000đ tích luỹ là 5.529.000đ, và nhóm hộ
khá có
tổng thu nhập là 23.485.000đ, tương đương 1.957.000đ/tháng, tỷ lệ tích luỹ mỗi
năm là là
11.529.000đ, sự chênh lệch này là rất cao, vì thế các nhóm hộ nghèo thường không
đủ tiền
để phục vụ cho những nhu cầu cơ bản như ăn, mặc.... của mình, vì thế để đáp ững
được
những nhu cầu đó họ thường đi vay vốn với lãi suất cao, mà mục đích chính chỉ là
để
phục vụ ăn uống mà không đầu tư cho sản xuất, hơn nữa vấn đề đầu tư cho giáo
dục, học
hành cũng không được chú trọng, do đó số nợ ngày càng tăng lên trong khi khẳng
trả nợ
thì không có, từ đó dẫn đến nợ nần chồng chất, khả năng mở rộng sản xuất là rất
thấp, dẫn
đến nghèo lại càng thêm nghèo và khả năng thoát khỏi cảnh nghèo khó là rất ít
nếu không
có sự can thiệp giúp đỡ của các cơ quan ban nghành./.
Tóm lại, mức sống của những người dân nghèo ở huyện Quỳ Châu đang rất thấp ,
họ cũng phải làm lụng vất vảvậy mà chỉmới đủ ăn, thậm chí còn thiếu ăn phải đi
vay mượn.
Vì vậy mà họ rất dễ bị tổn thương nếu gặp phải điều kiện thời tiết bất lợi , hạn
hãn, lũ lụt,
lúc đó sẽlàm cho mùa màng của họ bị mất, và lúc đó cuộc sống của họchỉ còn biết
chờ đợi
và sống nhờ vào sự giúp đỡ cũng như hỗ trợ từ các cơ quan, ban nghành và từ trợ
cấp của
nhà nước, vì thế để người dân nơi đây có được một cuộc sống ổn định hơn đòi hỏi
chính
quyền địa phương cần có nhứng chính sách nhằm hỗ trợ, giúp đỡ các hộ nghèo có
đực việc
làm và thu nhập ổn định hơn nữa chính mỗi người dân địa phương cũng phải cố gắng
hết
sức để học hỏi, tìm cách vượt lên mọi khó khăn có như thế mới có thể thoát nghèo
được.
2.5. Nguyên nhân dẫn đến nghèo đói của các hộ điều tra.
2.5.1. Nguyên nhân kháchquan.
Do huyện Quỳ Châu là một huyện miền núi thuần nông, địa bàn của huyện khá
rộng lớn và phức tạp, các cơ sở hạ tầng còn thấp kém, các công trình phúc lợi
còn thiếu
hoặc chưa đạpứng được nhu cầu cần thiết cho người dân, các sản phẩm chủ yếu là
lúa và
lợn, bò.. Chủ yếu là mang tính tự cấp tự túc, bên cạnh đó các hộ dân nơi đây còn
có trồng
lúa nương rẫy nên tập quán canh tác của nhân dân còn mang nhiều tính truyền
thống, chưa
tập trung thâm canh, quy hoạch vùng chưa hợp lý.
Trình độ dân trí chưa đồng đều, đội ngũ lãnh lạo, quản lý chưa chuyên môn,
chuyên nghành chưa cao nên hạn chế trong công tác lãnh đạo, vì trình độ dân trí
còn thấp
nên công tác áp dụng khoa học kỹ thuật vào trong sản xuất còn gặp nhiều khó
khăn, việc
giải quyết việc làm cũng như công tác tuyên truyền để nâng cao nhận thức cho
nhân
dân vềvề việc làm và tự tạo việc làm chưa được chú trọng.
Đại học Kinh tế Huế
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Nguyễn văn Vượng
SVTH: Lô Quang Hiệp – R7KTNN
70
Diện tích đất màu nằm rải rác không tập trung, đặc biệt là diện tích đồng ruộng
còn
manh mún và còn rất ít, vì vậy các hộ nhân nơi đây vẫn còn hiện trạng phá rừng
làm nương
rẫy. Hiện nay huyện cũng đã có những giải pháp trong việc tạo điều kiện, khuyến
khích các
hộ nhân chuyển đổi cây trồng và hướng làm ăn mới thay cho việc trồng lúa rẫy
như: Cho
các hộ nhân vay tiền để mở rộng quy mô chăn nuôi, trồng sắn, ngô thay cho trồng
lúa
nương rẫy...Cơ sở hạ tầng còn kém phát triển, điều kiện thời tiết khí hậu còn
khắc nghiệt
gây nhiều bất lợi cho sản xuất nông nghiệp của các hộdân đặc biệt là các hộ
nghèo.
2.5.2. Nguyên nhân chủ quan.
Qua điều tra thực tế đã cho ta thấy được rằng, có rất nhiều nguyên nhân khác
nhau
dẫn đến nghèo đói của các hộ nông dân, tuy nhiên qua phỏng vấn thực tế 60 hộ
điều tra
chúng ta có thể phân ra một số nguyên nhân cơ bản như sau:
Bảng 14. Những nguyên nhân dẫn đến đói nghèo của các hộ điều tra 2010
Danh mục
Số hộ
%
1. Phân loại theo nguyên nhân
Hộ
1. Thiếu vốn và TLSX
36
60,00
2. Thiếu kinh nghiệm làm ăn
34
56,67
3. Thiếu việc làm
27
45,00
4. Đông con, thiếu lao động
19
31,67
5. Thiếu ruộng đất
27
45,00
6. Tai nạn rủi ro
06
10,00
7. Có người mắc bệnh xã hội
04
6,67
8. Có người ốm đau thường xuyên
12
20,00
9. Lười lao động
0
0,00
10. Nguyên nhân khác
03
5,00
2. Phân loại theo SLNN
60
100,00
- Do 1 nguyên nhân
03
5,00
- Do 2 nguyên nhân
25
41,67
- Do 3 nguyên nhân
18
30,00
- Do 4 nguyên nhân
09
15,00
- Do 5 nguyên nhân
05
8,33
( Nguồn: Số liệu điều tra thực tế 2010) ( Nguồn: Số liệu điều tra thực tế 2010
Đại học Kinh tế Huế