Khóa luận tốt nghiệp: Thực trạng và một số giải pháp chủ yếu giảm nghèo ở huyện Quỳ Châu, tỉnh Nghệ An
6,673
417
81
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Nguyễn văn Vượng
SVTH: Lô Quang Hiệp – R7KTNN
51
chế. Đặc biệt, hiện nay cán bộ chính sách được trả mức thù lao ít ỏi nên không
phát
huy được sự nhiệt tình và tinh thần, trách nhiệm của họ.
Như vậy, để nâng cao hiệu quả của chính sách cũng như công tác XĐGN thì
cần phải có những giải pháp thiết thực để khắc phục những hạn chế còn tồn tại
trên.
2.3.3. Thực trạng đói nghèo của các hộ điều tra ở huyện Quỳ Châu, tỉnh
Nghệ An.
Thực tế đã cho thấy có nhiều yếu tố khác nhau tác động đến đời sống, thu
nhập của hộ nghèo đói như: Năng lực sản xuất, đất đai, lao động, vốn, tư liệu
sản
xuất, thị trường tiêu thụ, trình độ tổ chức sản xuất, trình độ văn hoá chủ hộ,
tình
hình sức khoẻ, sự hợp lý trong chi tiêu và những điều kiện khác. Vì vậy, để đánh
giá đúng thực trạng, làm rõ những nguyên nhân gây nên cảnh nghèo khó của các hộ
dân ở huyện Quỳ Châu: Tôi đã tiến hành nghiên cứu, điều tra 60 hộ tại 3 xã đại
diện cho 3 vùng sinh thái của huyện Quỳ Châu tỉnh Nghệ An. Những xã được chọn
là những xã có điều kiện kinh tế - xã hội ở mức trung bình của vùng và có tỷ lệ
hộ
nghèo ở mức trung bình có thể phản ánh đúng tỷ lệ hộ nghèo ở mỗi vùng. Lý do thứ
hai là: Quỳ Châu là huyện miền núi nên có những tuyến đường huyện liên xã rất
khó đi lại, có những xã phải đi bộ mấy tiếng đồng hồ mới có thể đến được trung
tâm xã, vì thế sẽ gây nhiều khó khăn cho công tác điều tra. Vì thế tôi chọn điều
tra
ở 3 xã Châu Thăng,Châu phong, Châu Bình đại diện cho 3 vùng sinh thái theo thứ
tự là vùng trên, vùng trong và vùng dưới, Đó là những xã mang nét chung nhất của
mỗi vùng và điều kiện của mỗi vùng cũng khác nhau, vì thế nên mỗi xã sẽ mang
những nét đặc trưng rất rõ nét đại diện cho mỗi vùng và sẽ tạo điều kiện tốt để
phản
ãnh khách quan trong quá trình điều tra .
2.3.3.1: Đánh giá năng lực sản xuất của các hộ điều tra.
2.3.3.1.1. Tình hình lao động và nhân khẩu các hộ điều tra.
Con người là nhân tố quan trọng quyết định tất cả các yếu tố còn lại. Quỳ
Châu là huyện miền núi có đến 79% nông hộ hoạt động trong lĩnh vực nông – lâm –
ngư nghiệp. Việc sử dụng lao động một cách hợp lý và có hiệu quả là một trong
những
cơ sở quan trọng để tạo ra thu nhập và nâng cao mức sống của người dân trong
huyện,
nhất là đối với các hộ nghèo.Tình hình chất lượng và số lượng lao động của các
hộ
điều tra được trình bày ở bảng sau:
Đại học Kinh tế Huế
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Nguyễn văn Vượng
SVTH: Lô Quang Hiệp – R7KTNN
52
Bảng 6: Tình hình lao động và nhân khẩu của các hộ điều tra
Chỉ tiêu
ĐVT
TỔNG,
BQ
CHUNG
Nhóm Hộ
Hộ nghèo
Hộ trung
bình
Hộ khá
I. Tổng số hộ điều tra
Hộ
60
33
15
12
1. Tổng nhân khẩu
Khẩu
250
140
63
47
2. Tổng số lao động
LĐ
138
70
39
29
- Lao động nam
LĐ
68
35
19
14
- Lao động nữ
LĐ
70
35
20
15
II.Trình độ văn hoá chủ hộ
%
100
100
100
100
- Cấp I
%
50,00
60,61
40,00
25,00
- Cấp II
%
26,67
27,27
26,67
33,33
- Cấp III trở lên
%
23,33
12,12
33,33
41,47
III. Các chỉ tiêu bình quân
- BQ khẩu/LĐ
Khẩu
1,81
2,00
1,62
1,62
- Bình quân nhân khẩu/ hộ
Người
4,17
4,17
4,20
3,92
- Bình quân LĐ/hộ
LĐ
2,30
2,12
2,60
2,42
(Nguồn: Số liệu điều tra 2010)
Trong 60 hộ điều tra tại 3 vùng sinh thái trên địa bàn huyện vào năm 2010 ta
thấy bình quân nhân khẩu/hộ là 4,17. Điều này chứng tỏ quy mô gia đình ở đây
không
cao. Đối với nhóm hộ nghèo, bình quân nhân khẩu/hộ là 4,17 khẩu/hộ; còn nhóm hộ
trung bình là 4,20 khẩu/hộ; nhóm hộ khá là 3,92 khẩu/hộ, nhưng giữa các nhóm hộ
có
sự chênh lệch. Đối với nhóm hộ nghèo, đa phần là hộ đông con, những người neo
đơn.
Lao động bình quân có xu hướng tăng lên từ hộ nghèo đến hộ khá. Bình quân có 2,3
lao động/hộ. Trong đó nhóm hộ nghèo 2,12; hộ trung bình 2,60; hộ khá 2,42 nhân
khẩu/hộ. Từ đó thấy được rằng: Tỷ lệ ăn bám của hộ nghèo lớn hơn hai nhóm hộ còn
lại. Số lao động trong hộ nghèo đã ít, thu nhập của người lao động ở miền núi
thấp và
không ổn định, vậy mà phải nuôi thêm nhiều nhân khẩu trọng hộ, càng làm cho thu
nhập của người dân nơi đây thấp hơn, đời sống thêm phần khó khăn. Đây cũng là
một
Đại học Kinh tế Huế
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Nguyễn văn Vượng
SVTH: Lô Quang Hiệp – R7KTNN
53
nguyên nhân gây nên tình trạng nghèo của các hộ này trong huyện. Vì vậy, cần có
những giải pháp thiết thực để sử dụng lao động dư thừa một cách có hiệu quả hơn
như:
Mở rộng các nghành nghề phi nông nghiệp để tăng thêm số lao động của các hộ để
giảm gánh nặng cho các lao động chính ở tất cả các nhóm hộ.
Trình độ văn hoá cũng ảnh hưởng đến kết quả sản xuất của các hộ dân. Từ đó
ảnh hưởng đến thu nhập của hộ. Trình độ khác nhau thì khả năng nhận biết, khả
năng
tiếp thu những tiến bộ khoa học kỹ thuật, cách thức làm ăn cũng khác nhau. Qua
bảng số
liệu cho thấy: Trình độ của chủ hộ giữa các nhóm hộ điều tra không có tình trạng
mù
chữ. Ở nhóm hộ khá vì họ có điều kiện đầu tư cho giáo dục nên trình độ của hộ
cũng cao
hơn hai nhóm hộ còn lại . Cụ thể, nhóm hộ khá chiếm tới 41,47% các chủ hộ có
trình độ
từ cấp III trở lên; 33,33% là trình độ cấp II; chỉ có 25 % là các chủ hộ có
trình độ cấp I.
Trong khi đó trình độ của các nhóm hộ nghèo chủ yếu dừng ở cấp I (60,61%) và cấp
II
(26,27%) còn tỷ lệ có trình độ cấp III trở lên thì rất ít (12,12%). Còn đối với
nhóm hộ
trung bình chủ yếu là trình độ cấp I (40,00%) và cấp II (27,27%) số chủ hộ có
trình độ
cấp III trở lên cũng khá cao (12,12%). Những nhóm hộ này họ không rơi vào tình
trạng
nghèo là vì họ luôn muốn nỗ lực vươn lên và làm giàu nên đã tìm cách đi học nghề
và
có tìm tòi học hỏi thêm kinh nghiệm làm ăn của những hộ khá. Vì thế mà trình độ
lao
động của họ có chuyển biến tích cực, theo đó họ có cơ hội tiếp cận những việc
làm có
thu nhập cao; từ đó mà từng bước họ vượt lên khỏi tình trạng nghèo.
2.3.3.1.2. Tình hình Đất đai của các hộ điều tra.
Đất đai là tài nguyên thiên nhiên, là tư liệu sản xuất vô cùng quý giá của xã
hội loài
người. Đất để ở, để sản xuất canh tác và phục vụ mọi nhu cầu cho phát triển xã
hội, của
con người trên trái đất. Đất tham gia vào mọi quá trình sản xuất vật chất của xã
hội nhưng
tuỳ thuộc vào từng nghành nghề cụ thể mà vai trò của nó có sự khác biệt. Trong
sản xuất
nông nghiệp nó là một yếu tố tích cực của sản xuất, là tư liệu sản xuất chủ yếu
không thể
thay thế được trong quá trình sản xuất. Trong sản xuất nông nghiệp việc quản lý
sử dụng
tài nguyên đất đai một cách hợp lý, có hiệu quả và mang lại tính khoa học là một
vấn đề
được nhà nước và các cấp chính quyền nói chung cũng như Đảng bộ và chính quyền
huyện Quỳ Châu quan tâm. Để tìm hiểu kỹ hơn về quy mô và tình hình sử dụng đất
đai
của các hộgia đình trong huyện Quỳ Châu, chúng ta quan sát (bảng sốliệu 7) sau:
Đại học Kinh tế Huế
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Nguyễn văn Vượng
SVTH: Lô Quang Hiệp – R7KTNN
54
Bảng 7: Quy mô đất đai bình quân 1 hộ điều tra năm 2010
Chỉ tiêu
BQ Chung
Nhóm Hộ
m
2
%
Hộ Nghèo
Hộ Trung Bình
Hộ khá
m
2
%
m
2
%
m
2
%
Tổng số
9.771
100,00
8.091
100,00
10.315
100,00
13.707
100,00
1. Đất nông nghiệp
9.695
99,22
8.014
99,05
10.243
99,30
13.635
99,47
- Đất canh tác
4.425
45,28
3.937
48,66
4.927
47,77
5.141
37,51
- Đất có mặt nước nuôi trồng thuỷ sản
10
0,10
8
0,10
14
0,14
13
0,09
- Đất lâm nghiệp
5.192
53,14
4.015
49,62
5.247
50,87
8.358
60,98
- Đất vườn
68
0,70
54
0,67
55
0,52
123
0,89
2. Đất nhà ở
50
0,51
44
0,54
52
0,50
61
0,45
3. Đất chưa sử dụng
26
0,27
33
0,41
20
0,20
11
0,08
(Nguồn: Số liệu điều tra 2010)
Đại học Kinh tế Huế
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Nguyễn văn Vượng
SVTH: Lô Quang Hiệp – R7KTNN
55
Qua bảng số liệu về tình hình sử dụng đất đai của các hộ ta thấy rằng, diện tích
đất
nông nghiệp là tương đối cao giữa các nhóm hộ. Và với số diện tích như trên là
điều kiện
khá thuận lợi để các hộ tổ chức sản xuất, tuy nhiên Quỳ Châu là một huyện miền
núi nên
các nông hộ ở đây chủ yếu họ trồng lúa nương rẫy phụ thuộc rất lớn vào thời tiết
khí hậu
nên dù với số diện tích nông nghiệp cũng tương đối là dồi dào nhưng vẫn không
tránh khỏi
khó khăn vì nếu điều kiện thời tiết thuận lợi thìđược mùa, còn nếu gặp thời tiết
khắc nghiệt
như hạn hán thì xem như các nông hộ mất trắng vụ mùa, vì thế các hộ nghèo ở Quỳ
Châu
đã nghèo lại càng gặp nhiều khó khăn hơn. Qua bảng số liệu ta thấy diện tích đất
nông
nghiệp của hộ nghèo là rất thấp 8.014 m
2
trong khi đó bình quân chung là 9.695 m
2
. Trong
đó hộ trung bình là 10.243 m
2
; hộ khá là 13.635m
2
. Diện tích đất lâm nghiệp của các hộ
nghèo đói là 4.015 m
2
chiếm 49,62%, hộ trung bình là 5.247 m
2
chiếm tỷ lệ 50,87 %, hộ
khá là 8.358 m
2
chiếm tỷ lệ 60,98 %. Và diện tích đất canh tác cũng có sự chênh lệch giữa
các nhóm hộ, hộ nghèo là 3.937 m
2
chiếm 48,66% trong tổng đất nông nghiệp; hộ trung
bình là 4.927 m
2
chiếm 47,77% và hộ khá là 5.141m
2
chiếm 37,52%. Lý do của thực trạng
trên là do nhóm hộ nghèo đói được chia đất ít hơn hoặc họ mới tách hộ nên diện
tích đất
đang còn thấp, hoặc là vì các hộ nghèo họ cần tiền chi sinh hoạt hằng ngày và cả
vốn chi
cho sản xuất kinh doanh nên đã phải bán đi một phần diện tích của mình để trang
trại cho
cuộc sống nên diện tích của hộ nghèo nhìn chung còn đang thấp hơn hộ trung bình
và hộ
khá rất nhiều. Và trên thực tế cũng đã cho thấy vì diện tích đất ít hơn nên kéo
theo thu nhập
của các hộ nghèo cũng thấp, điều này thấyrõ ở các nông hộ ở huyện Quỳ Châu vì
quađiều
tra thực tế ở các hộ nghèo cho biết hầu như họ rất ít áp dụng tiến bộ khoa học
kỹ thuật mà
chủ yếu trông chờ vào sự thuận lợi của thời tiết khí hậu và độ màu mỡ của đất
đai, vì thế
ngoài tăng quy mô diện tíchđất ra, họ không có giải pháp nào để tăng sản lượng
cả. Thực tế
đây cũng là một trong những lý do giải thích hộnghèo vẫn cứ nghèo.
Tình trạng bỏ đất trống vẫn còn có ở các hộ nghèo và hộ trung bình, mặc dù
diện tích đất này không nhiều. Diện tích đất chưa sử dụng bình quân 1 hộ điều
tra là 33
m
2
với nhóm hộ nghèo và 20 m
2
với nhóm hộ trung bình và 11 m
2
đối với hộ khá.
Đây thực sự cũng là một nguyên nhân làm giảm thu nhập trong các hộ.
Vì vậy, cần phải có những giải pháp khả thi để có thể tận dụng tối đa và sử dụng
hết đất đai có được của các nông hộ, có thể áp dụng các biện pháp như là: Chuyển
dịch
cơ cấu cây trồng, có kế hoạch khắc phục những bất lợi do thời tiết khí hậu gây
ra nhằm
khai thác tốt thế mạnh của địa phương để tăng thu nhập trên một diện tích đất
canh tác.
Đại học Kinh tế Huế
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Nguyễn văn Vượng
SVTH: Lô Quang Hiệp – R7KTNN
56
2.3.3.1.3. Tình hình trang thiết bị và TLSX của các hộ điều tra.
Như chúng ta đã biết, tư liệu sản xuất là một yếu tố rất quan trọng đối với đời
sống sinh hoạt và sản xuất của chúng ta, và càng đặc biệt hơn đối với đời sống
của
những người sống dựa vào nông nghiệp, chính vì thế cũng như bao nhiêu người dân
ở
nhiều khu vực khác, vấn đề tư liệu sản xuất không thể thiếu đối với cuộc sống,
sản xuất
của người dân ở Quỳ Châu. và đây cũng là một trong những yếu tố để phân biệt
được
mức sống, mức thu nhập của mỗi hộ nông dân, vì vậy khi điều tra về vấn đề nghèo
đói
chúng ta không thể bỏ qua được khía cạnh tư liệu sản xuất của các hộ điều tra,
và để
hiểu rõ hơn về vấn đề này chúng ta cùng tìm hiểu cụ thể hơn về một số công cụ
chính,
và sự tác động của nó đến đời sống cũng như mức thu nhập của mỗi hộ gia đình.
Bảng 8: Trang bị TLSX của các hộ điều tra ở huyện Quỳ Châu năm 2010.
(tính bình quân/hộ)
CHỈ TIÊU
ĐVT
BQ
Chung
Hộ Nghèo
Hộ Trung
Bình
Hộ khá
1. Gia súc
- Trâu bò cày kéo
Con
0,62
0,39
1,13
1,27
- Lợn nái sinh sản
Con
0,72
0,36
1,00
1,33
2. Công cụ sản xuất
- Máy tuốt lúa
Cái
0,32
0,18
0,33
0,67
- Máy xay xát
Cái
0,32
0,00
0,13
0,42
- Máy cày
Cái
0,07
0,00
0,07
0,16
- Xe công nông
Xe
0,08
0,00
0,07
0,33
- Máy bơm nước
Cái
0,38
0,15
0,04
1,00
- Tàu thuyền
Cái
0,00
0,00
0,00
0,00
- Lưới, chài đánh cá
Bộ
0,17
0,00
0,33
0,42
- Bình phun thuốc trừ sâu
Cái
0,33
0,15
0,27
0,92
(Nguồn: Số liệu điều tra thực tế 2010)
Quan sát bảng số liệu thu thập ở bảng trên ta thấy được hầu hết các đã được
trang bị công cụ sản xuất, tuy nhiên mức độ hiện đại và đầy đủ thì các nhóm hộ
nghèo
còn lạc hậu hơn nhiều so với nhóm hộ trung bình và nhóm hộ khá. Cụ thể ở từng
loại
công nụ như sau, đối với trâu bò cày kéo, nhóm hộ nghèo chỉ đạt bình quân 0,39
con/hộ, còn đối với hộ trung bình 1,13 con/hộ, và đối với hộ khá 1,27 con/hộ.
Ngoài ra
Đại học Kinh tế Huế
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Nguyễn văn Vượng
SVTH: Lô Quang Hiệp – R7KTNN
57
đối với lợn nái sinh sản ở hộ nghèo cũng rất thấp, chỉ có đạt bình quân 0,36
con/hộ,
đối với hộ trung bình tỷ lệ bình quân là 1con/hộ, còn hộ khá là 1,33 con/hộ. Qua
đó đã
cho chúng ta thấy được phần nào sư chênh lệch về công cụ sản xuất giữa các nhóm
hộ
có sự khác biệt và chênh lệch đến mức nào. Ngoài ra một số tư liệu khác cũng có
sự
khác biệt khá rõ ràng. Như máy tuốt lúa đối với hộ nghèo chỉ đạt bình quân 0,18
máy/hộ, còn hộ khá là 0,67 máy/hộ. ngoài ra đối với hộ nghèo một số công cụ như:
máy xay xát, xe công nông hay máy cày…. Thì gần như không có, các công cụ đó chỉ
có các nhóm hộ khá và trung bình mới có thể sắm được, chính vì thế đã làm cho sự
chênh lệch khá lớn về hiệu quả trong quá trình sản xuất kinh doanh. Làm cho các
nhóm hộ nghèo đòi hỏi phải dùng chính sức lao động của mình nhiều hơn, và hiệu
quả
trong quá trình sản xuất cũng thấp, và năng suất lao động cũng không cao.
Tóm lại. các hộ nghèo nếu muốn thực sự vượt nghèo thì không có cách nào
khác là phải đầu tư các tư liệu tiến tiến vào sản xuất, đòi hỏi họ phải thay đổi
phương
thức canh tác lạc hậu, kém hiệu quả đồng thời phải học hỏi và áp dụng tốt các
loại
công cụ tiên tiến vào trong quá trình sản xuất để đạt hiệu quả nhất trong công
việc, có
như thế thì họ mới có thể thoát nghèo được.
2.3.3.1.4. Nhà ở và đồ dùng sinh hoạt của các hộ điều tra.
Nhà ở và các đồ dùng sinh hoạt là một yếu tố rất quan trọng đối với mỗi hộ gia
đình, nó phản ãnh một cách khá khách quan đến mức thu nhập, mức sống cũng như
chất lượng cuộc sống đối với mỗi hộ gia đình. Vì thế đối với các nhóm hộ khác
nhau
cũng sẽ khác nhau về nhà ở và trang thiết bị, đồ dùng sinh hoạt trong gia đình..
Qua điều tra thực tế 60 hộ ở 3 xã đại diện cho 3 vùng sinh thái của của huyện
Quỳ Châu đã cho ta thấy rõ ở bảng trên như sau. Cụ thể đã điều tra 33 hộ nghèo,
15
hộ trung bình và 12 hộ khá. Trong 33 hộ nghèo điều tra đã có tới 11 nhà bán kiên
cố
tương đương vói 33,33% trong tổng số 33 hộ nghèo điều tra. Điều càng đáng chú ý
hơn nữa là trong 33 hộ nghèo thì có đến 18 hộ mới chỉ có nhà tạm để ở, và chỉ có
4
nhà kiên cố. Trong khi đó thì hộ trung bình và hộ khá thì số lượng nhà kiên cố
là khá
cao, cụ thể như trong 15 hộ trung bình điều tra thì có đến 10 hộ có nhà kiên cố
để ở,
tương đương chiếm 66,66% trong tổng số 15 hộ trung bình,số nhà tạm chỉ có 1 hộ,
chỉ
chiém 6,67% Và trong 12 hộ khá điều tra thì có tới 7 hộ có nhà kiên cố tương ứng
với
58,33% trong tổng số 12 hộ điều tra, và không có hộ nào là nhà tạm bợ, điều đó
đã cho
ta thấy được sự khác biệt khá rõ ràng giữa các nhóm hộ.
Đại học Kinh tế Huế
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Nguyễn văn Vượng
SVTH: Lô Quang Hiệp – R7KTNN
58
Bảng 9: Tình hình nhà ở và trang thiết bị sinh hoạt của các hộ điều tra năm 2010
Chỉ tiêu
ĐVT
Hộ Nghèo
Hộ Trung Bình
Hộ khá
Số lượng
%
Số lượng
%
Số lượng
%
1. Nhà ở
33
100
15
100
12
100
- Nhà bán kiên cố
Cái
11
33,33
4
26,67
5
41,67
- Nhà Tạm
Cái
18
54,55
1
6,67
0
0,00
- Nhà kiên cố
Cái
4
12,12
10
66,66
7
58,33
2. Trang bị đồ dùng gia đình
- Xe máy
Chiếc
11
33,33
8
53,35
16
133,33
- Ti vi
Cái
23
69,70
15
100
12
100
- Radio-caset
Cái
10
30,30
4
26,67
1
8,33
- Quạt điện
Cái
26
78,79
21
140
27
225
- Xe đạp
Chiếc
25
75,76
10
66,67
7
58,33
- Tủ lạnh
Cái
0
0,00
3
20,00
7
58,33
- Tủ gỗ tốt
Cái
5
15,15
4
26,67
10
83,33
- Bàn gỗ tốt
Cái
8
24,24
4
26,67
9
75,00
(Nguồn: Số liệu điều tra 2010)
Đại học Kinh tế Huế
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Nguyễn văn Vượng
SVTH: Lô Quang Hiệp – R7KTNN
59
Hơn nữa, các yếu tố trang bị đồ dùng sinh hoạt trong gia đình cũng có sự khác
nhau khá rõ ràng, đối với các nhóm hộ nghèo các đồ dùng sinh hoạt trong gia đình
cũng
chỉ chủ yếu các loại đồ dùng mang tính chất thô sơ, như các loại đồ dùng cơ bản
như xe
đạp, Radio - caset, quạt điện và tivi thì gần như trong các hộ nghèo hộ nào cũng
có, tuy
nhiên các loại đồ dùng với giá trị kinh tế cao hơn như: xe máy, tủ lạnh, hay tủ
gỗ tốt thì
lại rất ít hoặc giường như không có. Cụ thể như: xe máy trong 33 hộ điều tra thì
chỉ có
11 chiếc, tương đương chỉ chiếm 33,33%, tủ lanh thì không có hộ nào có cả, trong
khi
đó các nhóm hộ trung bình và hộ khá thì các laọi công cụ sinh hoạt có giá trị
kinh tế cao
thì lại chiếm tỷ lệ rất cao, điển hình như, nhóm hộ trung bình thì có đến 53,35%
số hộ là
có xe máy, 20% số hộ có tủ lạnh, 26,67% số hộ có bàn ghế, giường tủ tốt để dùng,
và
nhóm hộ khá cũng có đến 16 chiếc xe máy trong tổng số 12 hộ khá điều tra, tương
đương chiếm tỷ lệ 133,33%. Hơn nữa tỷlệ hộ có tủ gỗ tốt và tủ lạnh dùng cũng
chiếm tỷ
lệ rất cao, có đến 10 hộ có tủ gỗ tôt, và 7 hộ có tủ lạnh dùng. Qua đó đã cho ta
thấy được
sự chênh rất rõ ràng về mức sống cũng như mức thu nhập của các nhóm hộ, do đó
đây
cũng là một yếu tố phản ãnh rất rõ ràng sự chênh lệch về mức sống cũng như mức
thu
nhập giữa các nhóm hộ giàu, nghèo, và hộ trung bình.
2.4. Thực trạng sản xuất của các hộ điều tra.
2.4.1. Tình hình thu nhập và cơ cấu thu nhập của các hộ điều tra.
Thu nhập là kết quả của một quá trình sản xuất, kinh doanh của nông hộ, nó
phản ánh hiệu quả của một quá trình sản xuất, kinh doanh. Thu nhập cao thì đời
sống
của các nông hộ càng cao và ngược lại, chỉ tiêu thu nhập bình quân đầu
người/tháng là
chỉ tiêu phản ánh khá chính xác đầy đủ thực trạng đời sống, mức độ sống của các
hộ
nghèo đói.
Qua bảng số liệu (Bảng số 9) đã cho ta thấy rõ được cơ cấu thu nhập của các
nhóm hộ điều tra rất cụ thể, tổng mức thu nhập bình quân chung cho cả 3 nhóm hộ
là 30.829.000 đồng, trong đó thu từ trồng trọt là 10.272.000 đồng, chăn nuôi
11.187.000 đồng, lâm nghiệp 3.372.000 đồng, và từ một số nghành khác là
5.998.000 đồng.
Đại học Kinh tế Huế
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Nguyễn văn Vượng
SVTH: Lô Quang Hiệp – R7KTNN
60
Bảng 10: Cơ cấu tổng thu từ hoạt động sản xuất kinh doanh của các hộ điều tra
(tính bình quân/hộ/năm)
Chỉ tiêu
BQ Chung
NHÓM HỘ
Hộ Nghèo
Hộ Trung Bình
Hộ Khá
(1000đ)
%
(1000đ)
%
(1000đ)
%
(1000đ)
%
Tổng thu
30.829
100
21.126
100
31.913
100
56.158
100
1. Thu từ Trồng trọt
10.272
33,32
8.230
38,96
11.867
37,19
13.892
24,74
2. Thu từ Chăn nuôi
11.187
36,29
6.861
32,47
14.087
44,14
19.458
34,65
3. Thu từ Lâm nghiệp
3.372
10,94
2.258
10,69
3.187
9,98
6.667
11,87
4. Thu từ Nghành khác
5.998
19,45
3.777
17,88
2.772
8,69
16.141
28,74
(Nguồn số liệu điều ra thực tế năm 2010)
Đại học Kinh tế Huế