Khóa luận tốt nghiệp: Thực trạng và một số giải pháp chủ yếu giảm nghèo ở huyện Quỳ Châu, tỉnh Nghệ An
6,635
417
81
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Nguyễn văn Vượng
SVTH: Lô Quang Hiệp – R7KTNN
41
424,21tỷ đồng năm 2010, tương đương với tăng 16,5% so với năm 2009. trong đó
giá trị sản xuất thông qua các nghành cũng đã có những biến đổi khá phức tạp, cụ
thể từ nông lâm ngư nghiệp cũng đã có những biến động rõ rệt, từ 125,00tỷ đồng
năm 2008, tương ứng với chiếm 41,39% so với tổng giá trị sản xuất, đã giảm xuống
còn 124,64tỷ đồng năm 2009, tương đương chỉ chiếm 34,23% tổng giá trị sản xuất,
và đến năm 2010 đã có xu hướng tăng lên 132,74tỷ tương đương chiếm 31,29% so
với tổng giá trỉan xuất của năm.
Trong lĩnh vực công nghiệp - xây dựng cũng đã tiến chuyển rất tôt, tăng lên
đồng đều qua các năm. Từ 63,7 tỷ đồng năm 2008, tăng lên 110,07tỷ năm 2009 và
tăng lên 141,47tỷ đồng năm 2010, tương đương chiêm 33,35% tổng giá trị sản xuất
năm 2010.
Đối với ngành dịch vụ cũng đã tăng lên đồng đều, từ 113,3 tỷ đồng năm
2008,tương đương chiếm 37,5% tổng giá trị sản xuất đã tăng lên 129,42tỷ đồng năm
2009, và tăng lên 150tỷ đồng năm 2010, tương đương chiếm 35,365 tổng giá trị sản
xuất.
Hệ thống giao thông: toàn Huyện có gần 40km đường quốc lộ 48 xuyên suốt
từ đông sang tây do Trung ương quản lý. Nhìn chung mạng lưới giao thông Quỳ
Châu còn yếu nên hạn chế sự thu hút đầu tư phát triển, thúc đẩy sản xuất và giao
lưu
trao đổi hàng hóa và văn hóa – xã hội giữa các vùng trong và ngoài huyện làm cho
kinh tế của huyện còn hết sức khó khăn.
Điện năng, hệ thống phát thanh truyền hình và bưu điện: Huyện Quỳ Châu có
16 trạm biến áp với tổng công suốt 3.500kw. Và 7 xã có điện số hộ được dùng điện
chiếm 70% dân toàn Huyện, có 4 đài truyền hình phủ sóng trên 80% địa bàn toàn
Huyện. Toàn Huyện có 8 trung tâm bưu điện với gần 3500 máy điện thoại. 12/12 xã
có máy điện thoại.
Hệ thống thủy lợi : Nhà nước đầu tư cho công trình thủy lợi Kẻ Cọc Khe Nhã
trên 20 tỷ đồng phục vụ tưới tiêu cho khoảng 600ha và hệ thông đập thủy lợi kiên
cố
ở khắp cả Huyện, phục vụ tưới tiếu chủ động hơn 1.000ha. Còn lại do dân làm các
đập bằng gỗ, đất đá và guồng nước. Hệ thông kênh mường nội đồng chưa được bê
tông hóa nên chất lương kém. Làm đất chủ yếu bằng trâu bò việc cơ giới hóa làm
đất
chỉ một phần không đáng kể.
Đại học Kinh tế Huế
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Nguyễn văn Vượng
SVTH: Lô Quang Hiệp – R7KTNN
42
Hệ thống giáo dục, y tế: Huyện có một bệnh viện đa khoa huyện và một trung
tâm y tế, các xã đều có trạm y tế xã và cán bộ y tế đến từng thôn bản, toàn
Huyện có
12 trường mẫu giáo 23 trường tiểu học, 11 trường THCS 1 trường THPT và 1 trung
tâm giáo dục thường xuyên. Một số trường học đã có nhà cao tầng kiên cố 80%
trường học đã được ngói hóa xây nhà cấp 4 trở lên ở các cấp học trong Huyện.
Quỳ Châu là Huyện miền núi nên dân số ít, mật độ dân số 48 người /km song
diện tích canh tác lại ít chỉ 563m/1 nhân khẩu nông nghiệp. Dân tộc cơ bản là
dân tộc
Thái chiếm 79%, dân tộc Kinh chiếm 21%. Có một xã vùng cao xa chỉ một số dân
tộc chủ yếu (Châu Nga, Châu Thuận, Diên Lãm). Nghề nghiệp chính của dân cư chủ
yếu là sản xuất nông nghiệp, Huyện có nhiều tiềm năng về đất đai, tài nguyên
rừng
để phát triển kinh tế, nhất là kinh tế trang trại, chăn nuôi gia súc song cũng
có một bộ
phần dân cư sống ở mức nghèo (tỷ lệ đói nghèo 25% năm 2010 ). Huyện đã phổ cập
tiểu học quốc gia năm 1999 và THCS năm 2002. Đào tạo nhân tài bước đầu được
quan tâm, công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân được quan tâm từ
huyện đến cơ sở, công tác dân số kế hoạch hóa gia đình được quan tâm nên tỷ lệ
phát
triển dân số đạt kết quả khá. Các hoạt động văn hóa, thể dục thể thao phát triển
đa
dạng nhiều hình thức.
Về văn hóa: Quỳ Châu vốn là một trong những nơi định cư của người Việt cổ.
Hiện nay tại nhà truyền thống của huyện còn lưu giữ những hiện vật bằng đá, di
chỉ
hoá thạch của người vượn cổ cách đây 140 vạn năm phát hiện ở hang Thẩm ồm. Quỳ
Châu có hệ thống di tích Bù Đằng của nghĩa quân Lê Lợi, di tích nghĩa quân đốc
binh Lang Văn Thiết trong cuộc khởi nghĩa Cần Vương.
Trong lịch sử các dân tộc ở Quỳ Châu đã đoàn kết bên nhau, anh dũng chiến
đấu chống kẻ thù chung của Tổ quốc, cần cù, sáng tạo trong lao động xây dựng đất
nước. Mối quan hệ giữa các dân tộc ở Quỳ Châu có từ lâu đời và ngày càng gia
tăng.
Đời sống văn hoá tinh thần của các dân tộc khá phong phú. Có nhiều điệu múa cổ
truyền nhiều màu sắc, nhạc cụ có kèn bè, đàn môi, đàn lá và các loại sáo
trúc,... làn
điệu dân ca có khắp, nhuôn, xuôi,... các lễ hội dân tộc đặc sắc ở Quỳ Châu có lễ
Cầu
Mưa, lễ Háu Cắm, lễ Hội Thề, hội Xển Mương, Xển Bản, hội Xẳng Khản... và còn
giữ được những sinh hoạt văn hoá độc đáo mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc mình.
Đại học Kinh tế Huế
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Nguyễn văn Vượng
SVTH: Lô Quang Hiệp – R7KTNN
43
Quỳ Châu có nhiều di tích lịch sử văn hoá và danh lam thắng cảnh, có thể khai
thác phục vụ du lịch như : Bến Mong, bãi Bù Đằng (Châu Hội), các hang động
(Hang Voi, Hang Bua, hang Cỏ Ngụn), khu rừng nguyên sinh Pù Huống, thác Đũa
trên sông Hiếu…Ngoài ra vốn văn hoá vật thể và phi vật thể cũng là tiềm năng để
phát triển du lịch nhân văn như: di chỉ người Việt Cổ ở Thẩm ồm (Châu Thuận), mộ
Lang Văn Thiết- Đốc Thiết (Châu Hội), đền Bà Hương án (Thị trấn) và lễ hội Hang
Bua (Châu Tiến)...
Mặc dù những năm gần đây, huyện Quỳ Châu đã đạt được một số kết quả
đáng mừng về cả kinh tế, văn hóa, xã hội. Tuy nhiên những kết quả này nếu đem so
sánh với tốc độ phát triển chung của cả tỉnh thì Quỳ Châu vẫn là một huyện
nghèo.
Tình trạng nghèo đói ở huyện vẫn luôn là vấn đề thời sự đặt ra cho các cấp ủy,
đảng
quan tâm giải quyết.
2.1.4. Tình hình dân số và lao động của huyện.
Lao động là hoạt động có mục đích của con người nhằm biến đổi các vật chất
tự nhiên thành của cải vật chất cần thiết cho đời sống của con người. Lao động
là
nhân tố quyết định của bất kỳ quá trình sản xuất nào. Cho nên việc hình thành
lao
động bao gồm cả chất lượng lẫn số lượng cũng như việc phân phối sử dụng lao động
một cách hợp lý có hiệu quả vô cùng quan trọng. Tận dụng triệt để đầy đủ và hợp
lý
nguồn lao động để giảm tỷ lệ thất nghiệp.
Trong phạm vi gia đình, việc sử dụng một cách đầy đủ và hợp lý nguồn lao
động trong gia đình là cơ sở quan trọng để tạo ra thu nhập, giảm tỷ lệ lao động
nhàn
rỗi. Để thấy rõ tình hình biến động dân số của huyện, ta đi sâu vào nghiên cứu
bảng
sau: Tình hình dân số, lao động của huyện qua 5 năm.
Qua bảng số liệu thu thập được từ phòng thống kê huyện ở trên đã cho chúng
ta thấy được tình hình dân số và lao động của huyện đã có những biến động rất
đáng
chú ý, tổng số hộ toàn huyện trong năm 2010 đã tăng lên 1052 hộ, tương đương
(13,37%) so với năm 2006, trong đó số hộ nông nghiệp là 3.097 hộ, tăng hơn so
với
năm 2006 là 516 hộ, tương đương tăng (5,66%). còn số hộ phi nông nghiệp tăng lên
khá cao, trong năm 2010 đã có 3.097 hộ, tăng hơn năm 2008 là 190 hộ, và tăng hơn
năm 2006 là 986 hộ, tương đương tăng (56,71%) so với năm 2006.
Đại học Kinh tế Huế
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Nguyễn văn Vượng
SVTH: Lô Quang Hiệp – R7KTNN
44
Bảng 3 : Tình hình dân số và lao động của huyện trong giai đoạn 2006-2010
Chỉ tiêu
ĐVT
2006
2008
2010
2010/2006
Sl
%
Sl
%
Sl
%
Sl
+/- (%)
1.Tổng số hộ
Hộ
11.230
100,00
11.956
100,00
12.732
100,00
1502
13,37
- Nông nghiệp
Hộ
9.119
81,20
9.049
75,69
9.635
75,68
516
5,66
- Phi nông nghiệp
Hộ
2.111
18,80
2.907
24,31
3.097
24,32
986
46,71
2. Tổng dân số
Khẩu
53.751
100,00
53.028
100,00
53.910
100,00
159
0,30
- Nam
Khẩu
26.877
50,00
26.746
50,44
27.191
50,44
314
1,17
- Nữ
Khẩu
26.874
50,00
26.228
49,56
26.719
49,56
-115
-0,58
3.Tổng số lao động
Người
27.767
100,00
30.779
100,00
31.290
100,00
3523
12,69
- Nông nghiệp
Người
22.547
81,20
23.295
75,68
23.678
75,67
1131
5,02
- Phi nông nghiệp
Người
5.220
18,80
7.484
24,32
7.612
24,33
2392
45,82
(Nguồn:phòng thống kê huyện Quỳ Châu tỉnh Nghệ An)
Đại học Kinh tế Huế
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Nguyễn văn Vượng
SVTH: Lô Quang Hiệp – R7KTNN
45
Cơ cấu dân số của huyện cũng đã có sự thay đổi khá rõ rệt, trong năm 2006
tổng dân số có 53.751 người, sang năm 2008 tổng dân số toàn huyện giảm rất
mạnh,chỉ còn 53.028 người, tuy nhiên đến năm 2010 tổng dân số lại tăng lên
53.910
người, sở dĩ có sự biến động như trên là do, một phần ý thức của người dân về
vấn đề
kế hoạch hóa gia đình vẫn chưa cao, phần khác do người dân ở một số địa phương
chuyển đến định cư tại địa phương nên đã làm cho dân số toàn huyện tăng lên.
trong
đó tỷ lệ giữa nam và nữ cũng đã có sự biến đổi không đồng đều. trong năm 2006,
tổng
số nam có 26.877 người, tương đương chiếm (50%) tổng dân số nữ có 26.874 người
chiếm (50%) đến năm 2008 số nam đã giảm xuống còn 26.747 người và nữ cũng giảm
chỉ còn 26.282 người, đến năm 2010 dân số cả nam lẫn nữ đều tăng lên đáng kể,
nam
đã tăng lên 27.191 người tương đương chiếm (50,44%), còn tổng số khẩu nữ cũng
tăng
lên 26.719 người, tương ứng với (49,56%) tổng dân số toàn huyện trong năm 2010.
tổng số nam trong năm 2010 đã tăng lên 314 người tương đương tăng (1,17%) so với
năm 2006, tỷ lệ nữ giảm 115 người, tướng đương giảm (0,58%) so với năm 2006.
điều
này đã cho ta thấy được sự chênh lệch về giới ngày càng tăng lên. và đây cũng là
một
trong những nguyên nhân làm tăng dân số, vì thế để thay đổi những tư tưởng, quan
niệm này của người dân thiết nghĩ chính quyền địa phương cần có các chính sách
thiết
thực hơn để vấn đề dân số được giải quyết nhanh chóng và ổn định.
Đối với lao động, trong năm 2006 có 27.767 người trong đó lao động nông
nghiệp chiếm đến 22.547 người, tương đương chiếm đên (81,2%), còn lại lao động
phi
nông nghiệp chiếm tỷ lệ rất thấp, chỉ có 5.220 người, tương đương 18,8% tông số
lao
động toàn huyện, đến năm 2008 số lao động nông nghiệp đã giảm đi tương đối, còn
23.295 người, tương đương (75,68%) tổng lao động toàn huyện, và lao động phi
nông
nghiệp đã tăng lên tương đối, có tới 7.484 người chiếm tỷ lệ (24,32%). đến năm
2010
tỷ lệ giữa lao động nông nghiệp và phi nông nghiệp tuy có thay đổi nhưng không
đáng
kể, số lao động nông nghiệp vẫn còn cao, có đến 23.678 người tương ứng với
(75,68%) tổng số lao động toàn huyện, và lao động phi nông nghiệp cũng chỉ chiếm
tỷ
lệ rất thấp, chỉ có 7.612 người, tương đương (24,33%) tổng dân số toàn huyện.
Nhìn chung, quy mô dân số chiếm số lượng nhiều nhưng số lao động hoạt động
trong các lĩnh vực phi nông nghiệp còn rất thấp. Điều này chứng tỏ mức thu nhập
của
người dân chưa cao. Vì vậy vấn đề đặt ra nên tìm kiếm ngành nghề hoặc lĩnh vực
hoạt
động khác để tạo việc làm tăng thêm thu nhập cho các hộ dân. Ví dụ như ngoài
thời gian
Đại học Kinh tế Huế
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Nguyễn văn Vượng
SVTH: Lô Quang Hiệp – R7KTNN
46
làm mùa, trong những lúc nông nhàn có thể tạo thêm việc làm khác như: Dệt vải,
đan lát
tre , mây .... để bán. Huyện nên có những giải pháp thiết thực hợp lý giải quyết
giữa vấn
đề dân số và việc làm ổn định nhằm nâng cao đời sống cho người dân địa phương.
2.2. Thực trạng chung về tình hình nghèo đói của huyện trong 3 năm qua.
2.2.1. khái quát về tình hình đói nghèo của huyện.
Trong những năm qua cùng với chủ trương của Đảng và Nhà nước về việc thực
hiện chương trình “Xoá đói giảm nghèo” chính quyền và nhân dân huyện đã quyết
tâm
thực hiện tốt chương trình này. Với các chương trình hỗ trợ mà đặc biệt cho
người
nghèo như cho vay vốn ưu đãi, xoá nhà tạm, chương trình giải quyết việc làm,
miễn
giảm học phí cho các em thuộc hộ nghèo....Đời sống vật chất của nhân dân trong
huyện ngày càng được cải thiện. Người nghèo được tiếp cận với công đồng đã rút
nhiều kinh nghiệm trong sản xuất cũng như trong đời sống của mọi người dân.
Bảng 4: Số liệu hộ nghèo qua các năm.
chỉ tiêu
Năm .
Tổng hộ
Hộ nghèo
Tỷ lệ nghèo
(%)
2008
11.956
4.605
38.50
2009
12.149
4.280
35,23
2010
12.732
4.468
35,10
( Nguồn: Phòng Thống kê huyện Quỳ Châu)
Qua bảng số liệu trên đã cho ta thấy được thực trang về vấn đề nghèo đói của
huyện trong 3 năm vừa qua đã có xu hướng giảm khá rõ rệt,trong năm 2008 có đến
4.605 hộ tương đương chiếm 38,5% tổng số hộ, đến năm 2009 số hộ nghèo giảm xuống
còn 4.280 hộ, tương đương với 35,23% tổng số hộ toàn huyện, mặc dù trong năm
2010
tỷ lệ hộ nghèo cũng đã giảm so với những năm trước, tỷ lệ hộ nghèo giờ chỉ còn
35,1%,
tuy nhiên thực chất số hộ nghèo đã tăng lên 4.468 hộ, tăng nhiều hơn năm 2009 là
188
hộ, và tổng số hộ trong năm 2010 cũng tăng lên 12.732 hộ, từ đó đã làm cho số hộ
nghèo trong năm 2010 cũng tăng lên, hơn nữa do một số nguyên nhân cơ bản như:
- Thiếu vốn và tư liệu sản xuất, chủ yếu là đất nông nghiệp và lâm nghiệp.
- Thiếu kinh nghiệm và kiến thức làm ăn.
- Đông con và thiếu lao động.
- Ốm đau, các tệ nạn xã hôi. và một số nguyên nhân khác.
Đại học Kinh tế Huế
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Nguyễn văn Vượng
SVTH: Lô Quang Hiệp – R7KTNN
47
Từ đó đã làm cho số hộ nghèo của huyện trong năm 2010 tăng lên đáng kể so
với năm trước.
Để thấy rõ hơn tỷ lệ nghèo cũng như cơ cấu về hộ nghèo giữa các vùng, các khu
vực khác nhau chúng ta đi sâu vào phân tích bảng sốliệu sau.
Bảng 5: Phân loại hộ nghèo của huyện Quỳ Châu trong năm 2010
Hộ Nghèo
Vùng sinh thái
Số hộ
(hộ)
Cơ cấu
(%)
Vùng trên
1.272
28,45
Vùng trong
1.024
22,92
Vùng giữa
296
6,62
Vùng dưới
1.876
41,99
Tổng cộng
4.468
100
(Nguồn: Phòng LĐTB&XH huyện Quỳ Châu, tỉnh Nghệ An)
Như chúng ta đã biết Quỳ Châu là huyện miền núi có địa hình hiểm trở,
nhiều núi cao bao bọc tạo nên những thung lũng nhỏ và hẹp nằm trong địa bàn của
các đới kiến tạo, đới nâng Pù Huống, phức nếp lõm sông Hiếu nên địa hình có
nhiều lớp lượn sóng theo hướng từ Tây Bắc xuống Đông Nam. Các khe suối đổ về
sông Hiếu, sông Hiếu nằm giữa chạy từ Tây sang Đông tạo thành địa hình lòng
máng.
Nhìn chung, địa hình Quỳ Châu chủ yếu là núi cao, độ dốc tương đối lớn.
Các dòng sông hẹp và dốc gây khó khăn cho phát triển vận tải đường sông và hạn
chế khả năng điều hoà nguồn nước mặt trong các mùa phục vụ cho canh tác nông
nghiệp. Tuy nhiên, hệ thống sông ngòi có độ dốc lớn, với nhiều thác lớn nhỏ là
tiềm năng rất lớn cần được khai thác để phát triển thuỷ điện. Dựa vào đặc điểm
địa
hình, Quỳ Châu được chia thành 4 tiểu vùng sinh thái:
- Vùng trên gồm các xã: Châu Bính, Châu Tiến, Châu Thuận, Châu Thắng.
- Vùng giữa gồm xã: Châu Hạnh và Thị trấn.
- Vùng dưới gồm các xã: Châu Bình, Châu Hội, Châu Nga.
- Vùng trong gồm các xã: Châu Hoàn, Châu Phong, Diên Lãm.
Chính vì thế nên cứ mỗi vùng sinh thái cũng sẽ có những đặc điểm riêng biệt
nhau, tạo nên những vùng sinh thái khác nhau và trong mỗi vùng điều kiện để phát
Đại học Kinh tế Huế
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Nguyễn văn Vượng
SVTH: Lô Quang Hiệp – R7KTNN
48
triển về kinh tế cũng như những lĩnh vực khác cũng sẽ không đồng đều nhau, vì
thế tỷ lệ nghèo đói trong mỗi vùng cũng khác nhau, cụ thể ở trên bảng số liệu
trên
đã cho chúng ta thấy, đối với vùng trên, số hộ nghèo là 1.227 hộ, tương ứng với
chiếm 28,45% tổng số hộ nghèo toàn huyện, còn ở vùng trong số hộ nghèo là
1.024 hộ, tương đương với chiếm 22,92% tổng số hộ nghèo toàn huyện, ở vùng
dưới tỷ lệ hộ nghèo chiếm tỷ lệ khá cao 41,99%, tương đương với 1.876 hộ. Lý do
là do các cùng này còn khó khăn về nhiều mặt như: giao thông, giáo dục, y tế ...
từ
đó đã làm cho tỷ lệ nghèo đói chiếm tỷ lệ khá cao, còn đối với vùng giữa, do có
điều kiện thuân lợi hơn nên tỷ lệ hộ nghèo chiếm tỷ lệ khá thấp, chỉ 296 hộ,
tương
ứng với 6,62% tổng số hộ nghèo trên toàn huyện.
2.2.2. Những thuận lợi và khó khăn trong công tác XĐGN của huyện.
2.2.2.1. Thuận lơi.
Trong những năm qua, chính sách XĐGN trên địa bàn huyện đã thực hiện
một các đồng bộ và đạt được những kết quả tích cực góp phần vào mục tiêu XĐGN
của huyện, có tác động sâu sắc tới sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương
cũng như đời sống của người dân trên địa bàn.
Thứ nhất, Các chương trình, chính sách XĐGN đã góp phần quan trọng làm
thay đổi cơ bản bộ mặt nông thôn miền núi huyện Quỳ Châu. Về cơ bản hệ thống
cơ sở hạ tầng quan trọng, đây là lực lượng vật chất to lớn làm thay đổi bộ mặt
của
địa phương, góp phần XĐGN và tạo điều kiện cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá
vùng đồng bào dân tộc và miền núi. Huyện đã triển khai thực hiện và đưa vào sử
dụng nhiều công trình hạ tầng thiết yếu như đường giao thông, hệ thống điện,
trường học các cấp, công trình thuỷ lợi, trạm y tế xã và các hạng mục công trình
thiết yếu khác.
Thứ hai, Kết quả mà các chính sách XĐGN đã đạt được góp phần làm thay
đổi nhận thức, thay đổi tập quán sản xuất của đồng bào dân tộc vùng ĐBKK.
Thứ ba, Các chính sách góp phần giảm tỷ lệ hộ nghèo
Thứ tư, Kết quả của các chính sách đã góp phần quan trọng cải thiện rõ rệt
đời sống của người dân, đặc biệt người dân vùng ĐBKK trên các lĩnh vực đời sống
xã hội như văn hoá, giáo dục, y tế, và sức khoẻ cộng đồng…
Thứ năm, Các chính sách góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an
toàn xã hội đảm bảo quốc phòng trên địa bàn huyện Quỳ Châu và các huyện lân cận.
Đại học Kinh tế Huế
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Nguyễn văn Vượng
SVTH: Lô Quang Hiệp – R7KTNN
49
Bởi nhờ giải quyết được đói nghèo, phát triển giáo dục, nâng cao dân trí, đã góp
phần rất quan trọng nâng cao niềm tin của người dân đối với Đảng và Nhà nước;
đồng thời giải quyết được vấn đề việc làm, hạn chế được tình trạng du canh, du
cư,
phá rừng và tệ nạn ma tuý ở địa phương. Chính từ kết quả đó đã góp phần to lớn
củng cố an ninh địa phương và huy động quần chúng tham gia và công tác giữ vững
trật tự an toàn xã hội trên địa bàn.
Như vậy, đánh giá một cách tổng quan thì trong thời gian qua các kết quả
mà chính sách XĐGN đã được về cơ bản là có hiệu quả, có tác động làm thay đổi
cả đời sống vật chất và đời sống tinh thần của đồng bào nơi đây. Tuy nhiên, các
kết
quả đó xét trong tương quan với mục tiêu giảm nghèo và thực trạng đời sống của
người dân các địa phương khác thì vẫn cồn nhiều bất cập.
2.2.2.2. Khó khăn.
Mặc dù những năm qua đã có rất nhiều cố gắng và đạt được nhiều kết quả
cải thiện đáng kể tình hình nghèo đói trên địa bàn huyện giai đoạn qua, song đến
nay huyện Quỳ Châu vẫn là một huyện nghèo và là điểm nóng về công tác XĐGN.
Thứ nhất, Việc hoạch định và ban hành các chính sách XĐGN chưa xuất
phát từ thực tiễn và yêu cầu của địa phương. Hầu hết các chính sách ban hành từ
trên xuống nên mang ý chí của các nhà quản lý – các nhà hoạch định chính sách,
lúc đến với người dân thì họ luôn là người bị động thực thi chính sách nên các
chính sách chưa đạt được hiệu quả như mong muốn. Đồng thời, một số chính sách
do không tính toán, dự báo được tình hình thị trường, biến động xã hội nên đưa
đến
cho người hưởng lợi từ chính sách đó gặp rủi ro. Ví dụ như chính sách trợ giá
giống
bò sữa trong khi không có thị trường tiêu thụ…
Thứ hai, Cơ sở vật chất, cơ sở hạ tầng của địa phương tuy đã được tăng
cường đầu tư xây dựng nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển của huyện
trong thời kỳ mới. Hệ thống giao thông vẫn chưa mở rộng đến các thôn bản, đặc
biệt là giao thông vào các xã vùng xa như Xã Châu Hoàn, Diên Lãm còn hết sức
khó khăn. Tính đến cuối năm 2009, còn có tới 4 xã vẫn chưa có điện lưới quốc gia
và thông tin liên lạc còn hạn chế (Châu Nga, Châu Hoàn, Châu Thuận, Diên Lãm).
Thứ ba, Tỷ lệ hộ nghèo trên địa bàn vẫn cao và không đồng đều Theo thống
kê tháng 12/2010 thì tỷ lệ nghèo đói tập trung chủ yếu ở một số xã vùng sâu,
vùng
xa, nơi mà chủ yếu là các dân tộc ít người sinh sống. Trong đó, 2 xã có ít số hộ
nhất
Đại học Kinh tế Huế
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Nguyễn văn Vượng
SVTH: Lô Quang Hiệp – R7KTNN
50
thì tỷ lệ hộ nghèo lại cao nhất như xã Châu Hoàn với 448 hộ nhưng có đến 47.1 %
là hộ nghèo , xã Châu Nga là 410 hộ với 44.9 % hộ nghèo. Tỷ lệ hộ nghèo ở Thị
trấn là thấp nhất với 4,1% (mức nghèo bình quân toàn huyện chỉ 34,7%). Điều đó
chứng tỏ rằng mức độ nghèo giữa các vùng, các khu vực là không giống nhau. Việc
xét các hộ nghèo cũng chỉ mang tính tương đối, có thể nhóm người nghèo của vùng
này bằng nhóm người giàu ở một số vùng khác.
Thứ tư, Sự phối hợp lồng ghép thực hiện chương trình, chính sách XĐGN
với các chương trình phát triển kinh tế - xã hội, các mô hình khuyến nông –
khuyến
lâm, chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật trên địa bàn còn thiếu chặt chẽ. Hầu
hết
các chính sách được thực hiện một cách riêng lẻ, ít có sự phối hợp hoặc cơ chế
phối
hợp không rõ ràng nên các chính sách XĐGN xét về từng chính sách riêng lẻ thì
đạt
kết quả cao (theo báo cáo của các phòng, ban chức năng) nhưng xét về tổng thể
thì
hiệu quả lại chưa rõ ràng. Vì vậy mà trong những năm qua đã có nhiều chính sách
XĐGN được thực hiện và đều đạt kết quả cao, đạt được chỉ tiêu đề ra nhưng đời
sống nhân dân vẫn còn hết sức khó khăn, vẫn còn nhiều xã nghèo và huyện vẫn là
một huyện nghèo.
Thứ năm, Nhận thức của các chủ thể, các cấp chính quyền cũng như một bộ
phận người nghèo chưa đầy đủ, chưa sâu sắc về chủ trương, đường lối, mục tiêu
của chính sách XĐGN. Do vậy mà một số các xã không muốn thoát khỏi xã nghèo
vì nếu công nhận thoát nghèo thì họ mất hết mọi quyền lợi được hưởng từ các
chính
sách, một số người nghèo cũng chưa ý thức được trách nhiệm của mình trong công
tác XĐGN, họ tiếp cận các chính sách XĐGN là vì họ được hưởng lợi từ các chính
sách đó mà thôi. Do vậy, càng được sự giúp đỡ từ phía nhà nước thì họ lại càng
không muốn thoát khỏi diện hộ nghèo. Như vậy, địa phương trông chờ vào trung
ương, người nghèo cũng trông chờ vào nhà nước, tạo nên tính thụ động, không có
nội lực để vươn lên thoát nghèo.
Thứ sáu, Bộ máy hoạt động trong công tác XĐGN không ổn định, không có
cán bộ chuyên trách có trình độ chuyên môn. Đặc biệt là cán bộ XĐGN cấp xã, họ
chủ yếu là những người kiêm nhiệm nên công tác chỉ đạo, điều hành cũng như việc
đưa các chủ trương, chính sách của Đảng, nhà nước vào đời sống người dân còn
lung túng, chưa xây dựng được kế hoạch rõ ràng nên kết quả đạt được còn rất hạn
Đại học Kinh tế Huế