Khóa luận tốt nghiệp: Thực trạng và một số giải pháp chủ yếu giảm nghèo ở huyện Quỳ Châu, tỉnh Nghệ An
6,624
417
81
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Nguyễn văn Vượng
SVTH: Lô Quang Hiệp – R7KTNN
11
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Tính tất yếu của đê tài.
Nghèo đói là vấn đề kinh tế - xã hội không chỉ của riêng một quốc gia, một
châu lục nào mà nó trở thành vấn đề mang tính toàn cầu và được cả thế giới quan
tâm
giải quyết. Việt Nam là một quốc gia đang phát triển, có tỷ lệ người nghèo cao
so với
các nước khác trên thế giới. Thế nên, giải quyết vấn đề nghèo đói và đẩy mạnh
công
tác XĐGN đang là một vấn đề bức xúc đặt ra cho toàn Đảng, toàn dân trong quá
trình
phát triển kinh tế - xã hội và trong xu thế hội nhập quốc tế hiện nay.
Ngay từ khi mới giành chính quyền Đảng và Nhà nước ta đã ra sức kêu gọi toàn
dân đoàn kết “chống giặc đói, giặc dốt”. Từ đó vấn đề XĐGN luôn được Chính phủ
Việt
nam quan tâm giải quyết và xem đó vừa là nhiệm vụ cấp bách, vừa là nhiệm vụ
trọng
tâm lâu dài trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tại đại
hội Đảng
toàn quốc lần thứ IX, Đảng ta đã thể hiện rõ mục tiêu có tính chất chiến lược,
xuyên suốt
đó là tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với đảm bảo tiến bộ và công bằng xã hội.
Để thực
hiện mục tiêu đó, Đảng và nhà nước ta có rất nhiều các chủ trương, chính sách,
các dự
án XĐGN được triển khai thực hiện trên diện rộng và đã đạt được nhiều thành tựu.
Điều
đó có ý nghĩa thiết thực để hoàn thiện chiến lược và chính sách phát triển kinh
tế - xã
hội nhằm đưa nước ta thoát khỏi tình trạng nước nghèo mà Đảng ta đã khái quát là
Dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.
Hiện nay vấn đề xoá đói giảm nghèo (XĐGN) mang tính chất và nội dung mới,
đòi hỏi phải được giải quyết một cách cấp bách hơn. Nhận thức rõ tầm quan trọng
của
đói nghèo, cùng với 189 nước trên thế giới, việt nam đã cam kết thực hiện Tuyên
bố
thiên niên kỷ của LHQ, trong đó có mục tiêu về xoá đói giảm nghèo(XĐGN). Việt
Nam là một nước nông nghiệp nghèo nàn, bởi điều kiện tự nhiên thiên nhiên ít
thuận
lợi, thường bị thiên tai đe doạ và khả năng chế ngự thiên nhiên còn hạn hẹp, kỹ
thuật
và công nghệ sản xuất còn lạc hậu, tàn tích chiến tranh còn nặng nề. Để thực
hiện mục
tiêu về XĐGN nêu trên, trong những năm qua Đảng và nhà nước ta đã hình thành
Chương trình mực tiêu quốc gia về XĐGN chương trình phát triển kinh tế xã
hội(KT-
XH) các xã đặc biệt khó khăn... Để thực hiện mục tiêu hiệu quả chương trình này
Đảng ta đã đề ra nhiều chính sách dành riêng cho đối tuợng người đói nghèo. Nhờ
vậy
Đại học Kinh tế Huế
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Nguyễn văn Vượng
SVTH: Lô Quang Hiệp – R7KTNN
12
mà trong những năm qua đời sống đại bộ phận nhân dân đã đuợc nâng lên một cách
rõ
rệt, hằng năm số hộ đói nghèo đã giảm xuống 1,8%- 2%
Tuy vậy, mức độ và tỷ lệ nghèo của Việt Nam vẫn còn cao và chưa bền vững so
với yêu cầu, với việc thay đổi chuẩn nghèo trong giai đoạn 2006 - 2010, thì tỷ
lệ nghèo
vẫn còn rất lớn. Mặt khác những tác động tiêu cực của cơ chế thị truờng đã dẫn
đến sự
phân hoá giàu nghèo đã vàđang diễn ra mạnh mẽ, là vấn đề xã hội đặc biệt quan
tâm.
Quỳ Châu là một huyện miền núi nằm về phía tây bắc của tỉnh Nghệ An . Đời
sống của người dân nơi đây dựa vào nguồn thu nhập chính là nông nghiệp, ngư
nghiệp,
lâm nghiệp, dịch vụ,...,mức sống của người dân ở đây gặp nhiều khó khăn, nhất là
những năm bị thiên tai đe doạ, dịch bệnh hoành hành,.... Trong những năm qua,
cùng
với sự nỗ lực của các cấp chính quyền và nhân dân trong huyện đã làm tốt công
tác
XĐGN như: Công tác điều tra xác định hộ nghèo, công tác tạo việc làm xoá mù chữ;
công tác khuyến nông, khuyến ngư; công tác hỗ trợ người nghèo về nhà ở, y tế,
giáo
dục; chính sách vay vốn tín dụng ưu đãi hộ nghèo,…. Nhờ đó mà tỷ lệ hộ nghèo
trong
toàn huyện đã giảm dần qua các năm: từ 39,12% (2008); xuống còn 35,1% (2010) và
không còn hộ đói. Mặc dù tỷ lệ hộ nghèo ở đây vẫn còn rất cao nhưng cũng là một
thành tựu đáng mừng cho huyện. Tuy nhiên điều đáng nói ở đây là: Hiện nay so với
mặt bằng chung của cả nước cũng như các địa phương khác trong tỉnh, thì tỷ lệ hộ
nghèo ở Quỳ Châu vẫn còn khá cao. Thực trạng đời sống của nhân dân còn đang rất
khó khăn. Xuất phát từ những tình hình nói trên và cũng từ những yêu cầu thực
tiễn
của địa bàn tôi chọn đề tài:” Thực trạng và một số giải pháp chủ yếu nhằm giảm
nghèo
ở huyện Quỳ Châu, tỉnh Nghệ An” làm khoá luận tốt nghiệp của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
- Hệ thống các vấn đề có tính chất lý luận và phương pháp luận để xem xét
đánh giá về vấn đề đói nghèo của các hộ nông dân.
- Phân tích, Đánh giá thực trạng nghèo đói của huyện từ đó tìm ra nguyên
nhân và những nhân tố ảnh hưởng đến nghèo đói của hộ nông dân huyện Quỳ Châu.
- Đề xuất các giải pháp phù hợp với điều kiện KT-XH của huyện nhằm góp
phần nâng cao hiệu quả công tác XĐGN trên địa bàn huyện Quỳ Châu, tỉnh Nghệ An
trong giai đoạn hiện nay và trong thời gian tới.
Đại học Kinh tế Huế
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Nguyễn văn Vượng
SVTH: Lô Quang Hiệp – R7KTNN
13
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
- Đối tượng nghiên cứu: Những hộ nông dân nghèo trên địa bàn huyện Quỳ
Châu – Nghệ An.
- Phạm vi nghiên cứu:
Không gian: Huyện Quỳ Châu, Tỉnh Nghệ An
Thời gian: Chúng tôi tiến hành tìm hiểu, phân tích tình hình kinh tế, chính trị,
xã hội của huyện trong 3 năm 2008-2010, riêng với các hộ chúng tôi chỉ tìm hiểu,
điều
tra, nghiên cứu trong năm 2010.
4. phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp duy vật biện chứng; phương pháp logic và lịch sử,....,để tìm ra
những nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình hình nghèo đói của địa phương, từ đó tìm
ra
cách khắc phục những nguyên nhân trên.
- Phương pháp điều tra ngẫu nhiên thực trạng đời sống và sản xuất của 60 hộ
gia đình ở huyện Quỳ Châu gồm 33 hộ nghèo; 15 hộ trung bình và 12 hộ khá tại 3
xã:
Châu Bình, Châu Thắng, Châu Phong. đại diện cho 3 vùng sinh thái theo thứ tự là:
Vùng dưới, vùng trên và vùng trong.
+ Phương pháp thu thập thông tin: Phỏng vấn đến từng hộ nông dân theo mẫu
điều tra đã sẵn có; tham khảo ý kiến của cán bộ khoa học, kỹ thuật, cán bộ
huyện, xã,
các chủ hộ có trình độ văn hoá, có nhiều kinh nghiệm.
+ Phương pháp hệ thống phân tích, tổng hợp để phân tích, đánh giá thực trạng đói
nghèo so với tiêu chuẩn của bộ LĐTB & XH ban hành năm 2005.
Đại học Kinh tế Huế
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Nguyễn văn Vượng
SVTH: Lô Quang Hiệp – R7KTNN
14
PHẦN II: NỘI DUNG NGHIÊNCỨU.
Chương1: CƠ SỎ KHOA HỌC CỦA VẤN ĐỀ NGHÈO ĐÓI.
1.1. Cơ sở lý luận.
Nghèo đói luôn là vấn đề được các cấp ủy chính quyền quan tâm. Để giải quyết
vấn đề này, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành và thực hiện rất nhiều các chủ
trương,
chính sách XĐGN ở Việt Nam. Trong phạm vi chương 1, tác giả tìm hiểu một số vấn
đề lý luận về nghèo đói cũng như một số các chủ trương, chính sách cụ thể của
Đảng
và Nhà nước ta trong công tác XĐGN qua các giai đoạn, làm tiền đề cho việc phân
tích, đánh giá thực trạng và một số giải pháp của chính sách XĐGN của huyện Quỳ
Châu, tỉnh Nghệ An mà tác giả nghiên cứu sẽ trình bày ở chương 2.
1.1.1. Khái niệm và nguyên nhân dẫn đến đói nghèo.
Bàn đến vấn đề nghèo đói có rất nhiều vấn đề về mặt lý luận. Tuy nhiên trong
phạm vi đề tài tác giả chỉ đề cập đến một số vấn đề liên quan như tìm hiểu về
khái
niệm nghèo đói, nguyên nhân nghèo đói, công tác XĐGN và chính sách XĐGN.
1.1.1.1. Khái niệm đói nghèo.
Nghèo đói không chỉ là vấn đề xã hội của những nước lạc hậu, kém phát triển
mà đó còn là vấn đề đang tồn tại ngay cả trong những nước phát triển, có nền
công
nghiệp tiên tiến nhất trên thế giới. Nghèo đói luôn là vấn đề thời sự nóng bỏng
mang
tính toàn cầu thể hiện ở tình trạng bất bình đẳng về thu nhập, nan đói, nạn suy
dinh
dưỡng ở trẻ em, về tốc độ tăng thu nhập không đồng đều giữa các cá nhân và các
nhóm dân cư khác nhau trong xã hội. Khái niệm nghèo đói đã xuất hiện và được sử
dụng rất lâu trên thế giới, là một khái niệm thuộc phạm trù kinh tế - xã hội để
diễn đạt
mức sống của một nhóm dân cư, một quốc gia hay một nhóm quốc gia so với mức
sống của một cộng đồng, quốc gia hay nhóm quốc gia khác.
Cho đến nay vẫn chưa có một khái niệm chính thống về nghèo đói. Có nhiều
quan niệm khác nhau về nghèo đói trên thế giới cũng như ở Việt Nam tùy trên
những
góc tiếp cận khác nhau. Tuy nhiên, tư tưởng cốt lõi nhất của một người bị coi là
nghèo
đó là “sự thiếu hụt”.
Trên thế giới có một số các quan niệm về nghèo đói như:
Theo quan niệm của Viện Ngân hàng thế giới(WB) “nghèo đói là sự thiếu hụt
so với mức sống nhất định mà sự thiếu hụt này được xác định theo các chuẩn mực
xã
hội và phụ thuộc vào không gian và thời gian” .
Đại học Kinh tế Huế
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Nguyễn văn Vượng
SVTH: Lô Quang Hiệp – R7KTNN
15
Theo nghiên cứu của Rowntree, năm 1991 cho thấy nghèo đói là sự thiếu hụt
một lượng dinh dưỡng nào đó để tổn tại được.
Nghiên cứu của Tổ chức lao động quốc tế (ILO) cho rằng “nghèo đói không chỉ
là thiếu thốn về thu nhập mà thiếu sự tiếp cận với các dịch vụ y tế, giáo dục và
các
dịch vụ cơ bản khác” .
Những khái niệm này đã đề cập đến “sự thiếu hụt” của con người làm căn cứ để
xác định đó là nghèo, tuy nhiên đây chỉ là những thiếu hụt về vật chất mà các
khái
niệm chưa đề cập đến những nhu cầu phi vật chất khác.
Liên hiệp quốc quan niệm nghèo đói ở môt khía canh mang tính trìu tượng hơn
và nhìn nhận đói nghèo như một khái niệm đa chiều “ đói nghèo con người đề cập
đến
sự phủ nhận các cơ hội và sự lựa chọn để đảm bảo một cuộc sống cơ bản nhất hoặc
có
thể chấp nhận được”.
Báo cáo gần đây của Liên hiệp quốc thì nhấn mạnh sự cần thiết đưa phương
pháp tiếp cận nghèo đói trên cơ sở quyền lợi của con người.
Tự do: Con người có quyền sống một cuộc sống không bị đói khổ và không bị
đe dọa do bạo lực, chống đối và bị tổn thương.
Bình đẳng: Mọi người có quyền tham gia, hưởng thụ và chia sẻ thành quả phát
triển xã hội.
Sự khoan dung: Mọi người cần phải được tôn trọng gồm cả niềm tin, văn hóa
và ngôn ngữ.
Hay khái niệm do Ủy ban kinh tế - xã hội khu vực Châu á – Thái Bình Dương
đưa ra tại Hội nghị chống đói nghèo (tháng 9/1993): “ Nghèo là tình trạng một bộ
phận dân cư không được hưởng và thỏa mãn những nhu cầu của con người mà những
nhu cầu này đã được xã hội thừa nhận tùy theo trình độ phát triển kinh tế - xã
hội và
phong tục tập quán của địa phương”.
Theo hai quan niệm trên thì tình trạng nghèo đói được đề cập một cách toàn
diện hơn, không chỉ về đời sống vật chất mà cả tinh thần, ngôn ngữ và những nhu
cầu
cơ bản của con người để đảm bảo cuộc sống tối thiểu. Trong thực tế nhà nước ta
đã và
đang rất quan tâm đến vấn đề này.
Ngoài những khái niệm nghèo đói của thế giới, ở Việt Nam quan niệm tách
riêng nghèo và đói là quan niệm chung nhất:
Nghèo là tình trạng bộ phận dân cư chỉ có điều kiện thỏa mãn một phần các nhu
Đại học Kinh tế Huế
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Nguyễn văn Vượng
SVTH: Lô Quang Hiệp – R7KTNN
16
cầu tối thiểu, cơ bản của cuộc sống và có mức sống thấp hơn mức sống trung bình
của
cộng đồng xét trên mọi phương diện.
Khái niệm đói theo Nguyễn Hữu Hải “Đói là tình trạng một bộ phận dân cư
nghèo có mức sống dưới mức tối thiểu, cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, thu nhập
không đảm bảo duy trì cuộc sống” .hái niệm này đề cập đến hai vấn đề cụ thể, đói
trước hết là thuộc hộ nghèo và đói là tình trạng không có cơm ăn áo mặc để duy
trì
cuộc sống.
Thực tế, đói là những người đang phải đối mặt với vấn đề thiếu lương thực
hàng ngày và thường xuyên thiếu ăn. Do đó, biện pháp cấp bách đối với những
người
này là phải cung cấp lương thực cho họ để duy trì cuộc sống, sau đó mới tính đến
các
giải pháp để tiếp cận lương thực một cách ổn định. Đói – nghèo có mối quan hệ
mật
thiết với nhau, khi con người ở trong tình trạng đói thì hiển nhiên đó là người
nghèo,
còn khi con người nghèo khổ sẽ dễ rơi vào tình trạng đói nếu không sớm thoát
nghèo.
Còn đối với người dân họ quan niệm về nghèo đói rất đơn giản và thực tế. Nếu
có sự thiếu thốn gì đó thì họ có thể cho là nghèo. Ở Việt Nam trước đây quan
niệm
những người nghèo khổ là những người bần cố nông, không có ruộng đất, đi làm
thuê,
cuốc mướn, cấy rẽ. Những năm gần đây thì xác định người nghèo, hộ nghèo là những
hộ có mức thu nhập không đảm bảo cuộc sống tối thiểu, những hộ gia đình thường
xuyên thiếu ăn.
Tuy nhiên, trong phạm vi nghiên cứu này, đề tài sử dụng khái niệm chung về
nghèo đói như sau:
“Nghèo đói là một phạm trù chỉ mức sống của một cộng đồng hay một nhóm
dân cư là thấp, không đảm bảo những nhu cầu tối thiểu của con người mà những nhu
cầu này theo một tiêu chuẩn đã được xã hội thừa nhận” .
Trên đây là một số khái niệm xoay quanh về vấn đề nghèo đói. Song để đi sâu
đánh giá mức độ đói nghèo thì còn có quan niệm về nghèo đói tương đối và nghèo
đói
tuyệt đối.
Nghèo đói tương đối và Nghèo đói tuyệt đối
Theo quan niệm của Ngân hàng phát triển Châu Á:
Nghèo đói tuyệt đối là việc không có khả năng thỏa mãn các nhu cầu tối thiểu
để duy trì cuộc sống cơ thể con người. Ở khái niệm này nghèo đói tuyệt đối có xu
hướng đề cập đến những con người đang thiếu ăn theo nghĩa đen.
Đại học Kinh tế Huế
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Nguyễn văn Vượng
SVTH: Lô Quang Hiệp – R7KTNN
17
Nghèo đói tương đối là tình trạng không có khả năng đạt mức sống tối thiểu tại
một thời điểm nào đó. Khái niệm nghèo đói tương đối thừa nhận có một số nhu cầu
ở
nước này được xem là thiết yếu nhưng ở nơi khác lại xem là xa xỉ.
Tuy nhiên, việc đưa ra khái niệm về nghèo đói tuyệt đối và nghèo đói tương đối
cũng chỉ là tương đối.
1.1.1.2. Nguyên nhân nghèo đói.
Nghèo đói xuất phát từ rất nhiều các yếu tố khác nhau, có rất nhiều quan điểm
và cách phân loại, song nghèo đói ở Việt Nam chúng ta xem xét trên góc độ của
các
nhóm nguyên nhân sau:
Nguyên nhân chủ quan: Xuất phát từ bản thân người nghèo
- Hầu hết những người nghèo đều có trình độ dân trí thấp, thiếu hiểu biết, không
chịu học hỏi, học tập nên không tích lũy được kinh nghiệm sản xuất để tự vươn
lên thoát
nghèo. Vì đã nghèo khó lại thiếu kiến thức nên họ sẽ là những người gánh chịu
nhiều thua
thiệt nhất, gặp nhiều rủi ro nhất trong quá trình vận động phát triển của xã
hội. Các số liệu
thống kê cho thấy rằng: khoảng 90% người nghèo có trình độ phổ thông hoặc thấp
hơn.
Đây là một trong những nguyên nhân rất quan trọng dẫn đến nghèo đói, trình độ
dân trí
thấp không chỉ gây khó khăn cho người nghèo trong quá trình học hỏi, tiếp thu
những
kinh nghiệm, các quy trình kỹ thuật sản xuất mới, hiệu quả…vào trong sản xuất để
nâng
cao năng xuất, tăng thu nhập. Trong khi cán bộ không thể “cầm tay chỉ việc” cho
từng
người, từng hộ gia đình, mà bản thân người nghèo thì “học trước quên sau”. Như
vậy dân
trí thấp, tự ti, kém năng động, không chịu học hỏi lại không có cách thức làm ăn
hợp lý là
nguyên nhân cơ bản dẫn đến cảnh nghèo đói triền miên đối với nhiều hộ nông dân.
Quỳ
châu là một huyện miền núi, vùng sâu vùng xa với đa phần là người dân tộc thiểu
số sinh
sống nên tình trạng này là phổ biến.
- Các hộ gia đình nghèo có xu hướng là các hộ đông nhân khẩu với tỷ lệ ăn
theo cao. Họ thường sinh đẻ không có kế hoạch do nhận thức chưa cao cũng như tư
tưởng, tập tục lạc hậu ở các miền nông thôn “trọng nam, khinh nữ”, gánh nặng con
trai
“nối dõi tông đường” và cũng là để được “ngồi mâm trên”…Bản thân người nghèo
chưa nhân thức rõ về tác hại cũng như khó khăn mà tình trạng đông con đem lại.
Tình
trạng sinh nhiều con và sinh quá dày ở các cặp vợ chồng trẻ, cặp vợ chồng đang
độ
tuổi sinh đẻ là khá phổ biến ở các vùng nông thôn và miền núi nơi cần nhiều lao
động,
bình quân các hộ này có từ 3 – 5 con. Điều này, đối với huyện miền núi Quỳ Châu
nơi
Đại học Kinh tế Huế
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Nguyễn văn Vượng
SVTH: Lô Quang Hiệp – R7KTNN
18
có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống lại càng thể hiện rõ. Cũng chính vì
đông
con mà chi phí trong cuộc sống tăng lên làm cho nhiều hộ từ làm ăn khá giả hoặc
trung
bình rơi xuống mức nghèo đói hoặc những hộ đang nghèo không thể thoát nghèo.
- Một điểm dễ nhận thấy nữa đối với các hộ nghèo là họ chưa có ý thức vươn lên
để thoát nghèo hoặc không muốm thoát nghèo để được hỗ trợ, được sự bao cấp của
nhà
nước. Tâm lý của người nghèo là “sợ mất” và “ngại đổi mới”, họ không dám đầu tư
vào
sản xuất để nâng cao năng suất và thu nhập, không chịu khó lao động và luôn ỷ
lại. Năm
này qua năm khác vẫn là một lối sản xuất cũ, cách thức cũ. Nhà nước hỗ trợ bao
nhiêu
vốn, bao nhiêu giống cây trồng, vật nuôi, phương tiện sản xuất thì người nghèo
sử dụng
chừng ấy, còn bản thân họ không dám,không muốn bỏ vốn ra đầu tư cho sản xuất.
Như
vậy, chính bản thân người nghèo chưa thấy hết được vai trò của mình. Lúc họ
nghèo, họ
biết họ là đối tượng của các chính sách XĐGN nhưng không nhận thức được họ còn
là
chủ thể của công tác XĐGN nên chưa cóý thức “tự thân” vươn lên thoát nghèo.
- Bên cạnh đó do có ít vốn, thu nhập hàng tháng hạn hẹp cộng với trình độ
dân trí thấp nên số tiền của các hộ gia đình nghèo thường có sự chi tiêu không
hợp lý,
không kế hoạch, không tính toán. Các hộ gia đình nghèo thường dùng số tiền ít ỏi
của
mình chi tiêu cho sinh hoạt hàng ngày hơn là đầu tư sản xuất. Với tâm lý “Đằng
nào
cũng không có” mà “có tiết kiệm cũng không đáng bao nhiêu” nên làm được đồng nào
họ chi tiêu đồng ấy. Nhiều hộ cả năm lao động nhưng không dành dụm được khoản
tiền nào nên lúc nào họ cũng là người nghèo.
Nguyên nhân khách quan: Nguyên nhân từ bên ngoài người nghèo
Đa phần người nghèo sống tập trung ở những vùng nông thôn, miền núi, vùng
sâu, vùng xa, là những nơi có tài nguyên thiên nhiên rất phong phú, đặc biệt là
rừng.
Tuy nhiên do khai thác rừng một cách bừa bãi và việc sử dụng nguồn tài nguyên
vốn
có để phát triển kinh tế không hợp lý, dẫn đến ô nhiễm môi trường và thiên tai
thường
xảy ra như lũ lụt, hạn hán, lốc xoáy…phá hủy bao nhiêu ngôi nhà, mảnh vườn và
hàng
ngàn các công trình giao thông, cơ sở hạ tầng. Thiên tai làm thiệt hại hàng tỷ
đồng và
làm cho cuộc sống con người trở nên nghèo đói. Trong những năm gần đây, chúng ta
phải hứng chịu liên tiếp các thiên tai như trận lũ lịch sử năm 2002 ở Miền
trung, Lũ
quét ở Sơn La, Lai Châu, Cao Bằng năm 2008… Ở Quỳ châu, là nơi có khí hậu khá
khắc nghiệt nên thường xuyên xẩy ra những trận lũ lụt, lốc xoáy, sụt lở núi đất
ở mùa
mưa…Làm cho cư dân ở những vùng này vốn đã nghèo nay trở nên bần cùng hóa và
Đại học Kinh tế Huế
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Nguyễn văn Vượng
SVTH: Lô Quang Hiệp – R7KTNN
19
rất ít cơ may có thể thoát nghèo. Bởi vậy, mỗi người dân cần nhận thức tầm quan
trọng
của việc bảo toàn thiên nhiên, rừng đầu nguồn, sử dụng hợp lý nguồn tài
nguyên…trong việc XĐGN.
Chiến tranh cũng là một trong những nguyên nhân khách quan làm cho cuộc
sống con người trở nên khốn khó. Hậu quả của chiến tranh rất nặng nề, với một
quả
bom nguyên tử có thể sinh mạng của hàng triệu người và phá hủy toàn bộ tài sản,
nhà
của, cơ sở vật chất trên diện rộng. Các chất hóa học được sử dụng trong chiến
tranh
phá hủy sức khỏe của con người không những ở hiện tại mà còn kéo dài đến nhiều
thế
hệ sau như chất độc Dioxin. Cuộc chiến tranh còn để lại cho nhân dân ta những
hậu
quả nặng nề mà suốt hơn 30 năm nay chúng ta vẫn chưa khắc phục được. Đặc biệt là
vấn đề nghèo đói và nạn nhân chất độc màu da cam. Huyện Quỳ Châu hiện có 1.053
nạn nhân chất độc màu da cam, đó là hậu quả của chiến tranh để lại làm cho đời
sống
người dân hết sức khó khăn.
Các thay đổi bất lợi về giá cả làm tăng tỷ lệ nghèo một cách đáng kể. Khi mà
thu nhập thấp, con người không thể trang trải đầy đủ cho một cuộc sống với chi
phí
quá cao. Điều đó đã làm cho nhiều hộ gia đình thuộc nhóm cận nghèo hoặc trung
bình
đã rớt xuống nhóm hộ nghèo. Tại Hội nghị tác động của suy thoái kinh tế toàn cầu
đến
nghèo đói và phát triển bền vững tại Châu Á – Thái Bình Dương tháng 9/2009. Ngân
hàng phát triển Châu Á đã đưa ra kết luận: “Nếu tăng trưởng cao của Châu á không
dừng lại trong năm 2008 do khủng hoảng thì khoảng 60 triệu người đã có thể thoát
khỏi mức nghèo (dưới 1,25 USD/ngày) và 100 triệu người đã thoát khỏi mức cận
nghèo (2USD/ngày)…”
1
. Nói như vậy để khẳng định là sự khủng hoảng về kinh tế -
chính trị cũng là một trong những nguyên nhân gây ra nghèo đói. Như làm cho hàng
ngàn công nhân thất nghiệp, thu nhập giảm trong khi chi phí tăng, các cuộc biểu
tình,
đình công phổ biến ở các khu công nghiệp. Tình trạng lạm phát làm cho giá cả
trong 2
năm trở lại đây tăng vọt từ 1,5 đến 2 lần và người nghèo là nhóm dân cư sẽ bị
ảnh
hưởng nhiều nhất làm cho khoảng cách giàu nghèo ngày càng nới rộng.
Một nguyên nhân nữa của tình trạng đói nghèo là do kinh tế của địa phương,
của đất nước chậm phát triển. Việt Nam xây dựng đất nước từ xuất phát điểm thấp
với
nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu nên phần lớn dân số là nông dân với lao động thủ
công năng suất thấp. Nguồn thu nhập quốc dân chưa cao nên việc đầu tư cơ sở vật
chất,
Đại học Kinh tế Huế
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Nguyễn văn Vượng
SVTH: Lô Quang Hiệp – R7KTNN
20
cơ sở hạ tầng một cách toàn diện và rộng khắp là vượt quá khả năng về tài chính.
Mặt
khác, tỷ lệ hộ nghèo tập trung đông nhất ở những tỉnh nghèo, huyện nghèo có nền
kinh
tế hết sức khó khăn chủ yếu là nền kinh tế Nông – Lâm – Ngư nghiệp. Ở những vùng
này giao thông đi lại không thuận lợi, điện, đường, trường, trạm về cơ bản đã
được đầu
tư xây dựng nhưng còn thiếu thốn. Các phương tiện truyền thông, nước sạch chưa
đến
được các làng, bản và điều kiện sản xuất ở những vùng này cũng còn nhiều vấn đề
bất
cập như chưa có hệ thống thủy lợi, đất đai bị chia cắt bởi đồi núi, đất đá vôi,
thiếu đất,
thiếu nước, thời tiết khắc nghiệt…nên năng suất lao động ở đây thấp, thu nhập
không
ổn định như vùng núi Tây bắc, Tây nguyên…. Ở huyện Quỳ châu thì nguyên nhân này
càng thể hiện rõ khi mà nền kinh tế ở đây chủ yếu là nông – lâm ngiệp, các ngành
nghề
kém phát triển, công thương, dịch vụ hầu như chưa có gì đáng kể, kinh tế nói
chung
còn kém phát triển nên việc đầu tư cho công tác XĐGN cũng còn nhiều hạn chế.
Giải
pháp để khắc phục nguyên nhân này là nhà nước cần thực hiện hiệu quả các chương
trình, dự án XĐGN như chương trình 135, 143…. Để nâng cao về số lượng, chất
lượng các cơ sở vật chất, cơ sở hạ tầng, các điều kiện phục vụ cho sản xuất ở
những
vùng miền núi. Chuyển đổi cơ cấu sản xuất từ nông nghiệp sang công nghiệp, dịch
vụ
đối với những vùng thiếu đất sản xuất.
Nguyên nhân khách quan cuối cùng là các rủi ro đối với người nghèo như ốm
đau, tai nạn. Đây là nguyên nhân không kém phần quan trọng vì sức khỏe yếu sẽ
làm
cho năng suất lao động thấp, thu nhập thấp kéo theo đó là hàng loạt các chi phí
chữa
bệnh cho các thành viên trong gia đình. Nhiều gia đình còn trở thành “con nợ” vì
vay
tiền để chữa bệnh. Đối với những gia đình giàu có đây có thể là điều bình thường
nhưng đối với gia đình nghèo thì việc các thành viên trong gia đình ốm là cả một
sự
kiện lớn làm đảo lộn mọi hoạt động hàng ngày.
Nguyên nhân từ các chính sách của Nhà nước không đồng bộ, không kịp
thời và chưa phù hợp. Việc xây dưng và hướng dẫn việc thực hiện các chính sách
kinh
tế của nhà nước phần lớn chưa xem xét trên nhu cầu thực tiễn nên không có tính
khả
thi và dẫn đến rủi ro cao, làm mất mát, thiệt hại các khoản đầu tư và công sức
của
người dân. Sự hạn chế đó càng làm cho người nghèo càng nghèo hơn. Một điển hình
là
chính sách dự trữ gạo quốc gia khi giá gạo tăng cao trong năm 2008 làm thiệt hại
cho
người dân hàng tỷ đồng. Ở huyện Quỳ Châu có chính sách nuôi bò sữa nhưng không
tính đến thị trường tiêu thụ nên đến khi thu hoạch không bán được làm cho người
chăn
Đại học Kinh tế Huế