Khóa luận tốt nghiệp: Thực trạng tham gia chuỗi giá trị toàn cầu (CVC) của Trung Quốc trong ngành may mặc và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

7,890
908
90
37
phối. Trở lại năm 2007 là năm xuất khẩu mạnh nhất của Trung Quốc, theo dữ
liệu từ tổ chức thương mại thế giới WTO năm 2007 Trung Quốc xuất khẩu
vào thị trường may mặc của Hoa Kỳ EU chiếm tới 64% thương mại toàn
cầu về may mặc. Năm 2007 và 2008 thị phần nhập khẩu EU về hàng may mặc
của Trung Quốc chiếm tới 38,5 44,8% tổng giá trị nhập khẩu hàng may
mặc của EU. [9].
Sau khủng hoảng kinh tế toàn cầu vào 6 tháng cuối năm 2008, kinh tế
EU phục hồi chậm hơn so với sự phục hồi kinh tế của Mỹ. Đây cũng là thời
điểm mà Mỹ và EU loại bỏ các hạn chế về một số sản phẩm dệt may đối với
Trung Quốc. Vì vậy, nhập khẩu may mặc trong quý 1 và 2 năm 2008 của EU
từ Trung Quốc vẫn tăng trưởng cao. Đến quý 3 4 năm 2008, khi kinh tế
thế giới khủng hoảng trầm trọng đã tác động mạnh đến việc xuất nhập khẩu
của các quốc gia trên thế giới. vậy hàng dệt may may mặc của Trung
Quốc xuất khẩu sang EU cho thấy xu hướng tăng trưởng yếu. m 2008
Trung Quốc xuất khẩu sang EU đã giảm 4,2% so năm 2007, năm 2009 Trung
Quốc xuất khẩu sang EU đã giảm 6,2% so năm 2008. [9]. Trong 2 tháng đu
năm 2010 Trung Quốc đã xuất khu hàng dt may ti th trường EU đạt gn
24% trên tng kim ngch xut khu. [7].
2.2.2.3. Thị trường Nhật Bản:
Trong những năm qua Trung Quốc nhà xuất khẩu hàng may mặc
chiếm thị phần lớn nhất tại thị trường Nhật Bản. Năm 2009, Nhật Bản thị
trường lớn thứ hai trên thế giới về tiêu thụ hàng dệt may, trong đó thị trường
thời trang hàng ngày cho tầng lớp phụ nữ trẻ chiếm khoảng 60% trong tổng
thể thị trường quần áo trị giá khoảng 28 tỷ USD. Tnhững năm 2000
Trung Quốc nước chiếm độc quyền về xuất khẩu thị trường quần áo giá rẻ
37 phối. Trở lại năm 2007 là năm xuất khẩu mạnh nhất của Trung Quốc, theo dữ liệu từ tổ chức thương mại thế giới WTO năm 2007 Trung Quốc xuất khẩu vào thị trường may mặc của Hoa Kỳ và EU chiếm tới 64% thương mại toàn cầu về may mặc. Năm 2007 và 2008 thị phần nhập khẩu EU về hàng may mặc của Trung Quốc chiếm tới 38,5 và 44,8% tổng giá trị nhập khẩu hàng may mặc của EU. [9]. Sau khủng hoảng kinh tế toàn cầu vào 6 tháng cuối năm 2008, kinh tế EU phục hồi chậm hơn so với sự phục hồi kinh tế của Mỹ. Đây cũng là thời điểm mà Mỹ và EU loại bỏ các hạn chế về một số sản phẩm dệt may đối với Trung Quốc. Vì vậy, nhập khẩu may mặc trong quý 1 và 2 năm 2008 của EU từ Trung Quốc vẫn tăng trưởng cao. Đến quý 3 và 4 năm 2008, khi kinh tế thế giới khủng hoảng trầm trọng đã tác động mạnh đến việc xuất nhập khẩu của các quốc gia trên thế giới. Vì vậy hàng dệt may và may mặc của Trung Quốc xuất khẩu sang EU cho thấy xu hướng tăng trưởng yếu. Năm 2008 Trung Quốc xuất khẩu sang EU đã giảm 4,2% so năm 2007, năm 2009 Trung Quốc xuất khẩu sang EU đã giảm 6,2% so năm 2008. [9]. Trong 2 tháng đầu năm 2010 Trung Quốc đã xuất khẩu hàng dệt may tới thị trường EU đạt gần 24% trên tổng kim ngạch xuất khẩu. [7]. 2.2.2.3. Thị trường Nhật Bản: Trong những năm qua Trung Quốc là nhà xuất khẩu hàng may mặc chiếm thị phần lớn nhất tại thị trường Nhật Bản. Năm 2009, Nhật Bản là thị trường lớn thứ hai trên thế giới về tiêu thụ hàng dệt may, trong đó thị trường thời trang hàng ngày cho tầng lớp phụ nữ trẻ chiếm khoảng 60% trong tổng thể thị trường quần áo và có trị giá khoảng 28 tỷ USD. Từ những năm 2000 Trung Quốc là nước chiếm độc quyền về xuất khẩu thị trường quần áo giá rẻ
38
sang Nhật. Nhưng mảng quần áo cao cấp hiện vẫn còn nhiều đất trống và đây
chính hi tốt cho Trung Quốc y dựng thương hiệu gia tăng xuất
khẩu.
m 2007, Nhật Bản đã nhập khẩu hơn 82% tổng giá trị nhập khẩu
may mặc từ Trung Quốc. Tuy nhiên, Nhật Bản đã bị ảnh hưởng nghiêm trọng
bởi cuộc khủng hoảng kinh tế năm 2008 nên tăng trưởng kinh tế Nhật Bản
chậm lại, do đó nhu cầu thị trường hàng may mặc giảm. Nhưng Trung Quốc
vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng tại thị trường tại Nhật Bản. Xuất khẩu sang thị
trường Nhật Bản trong năm 2008 2009 vẫn n định. m 2009 Trung
Quốc xuất khẩu sang Nhật đã tăng trưởng 1,2% so năm 2008. Trong 2 tháng
đầu năm 2010 Trung Quốc đã xuất khu ti th trường Nht Bản đạt 10,43%
trên tng kim ngch xut khu.
2.2.2.4. Thị trường Châu Á:
Có thể nói Trung Quốc đã xuất khẩu hàng dệt may sang Hiệp hội Các
nước Đông Nam Á (ASEAN) đã ng mạnh kể từ khi Trung Quốc
ASEAN thực hiện lộ trình giảm thuế bắt đầu từ ngày 1/7/2005 trên cơ sở
thoả thuận mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc. Từ 1/7/2005, Thái Lan
Malaixia đã giảm thuế đánh vào hàng dệt may Trung Quốc, lần lượt từ 21,5%
16,8% xuống 16,9% và 15%, sẽ tiếp tục giảm xuống 10,6% 9,2%.
Đến năm 2010 hàng dệt may Trung Quốc xuất sang hai nước này sẽ chỉ còn
chịu thuế 0%. Lộ trình giảm thuế với hàng dệt may Trung Quốc của
Philipines cũng tương tự. Trong khi đó, hàng dệt may Trung Quốc xuất sang
Inđônêxia, hiện đang chịu mức thuế chưa đến 5%, s giảm xuống 0% vào
năm 2009. Trước kia Việt Nam đánh thuế 36,6% đối với hàng dệt may Trung
Quốc, nhưng t 1/7/2005 đã giảm xuống 31% và năm 2006 sẽ giảm xuống
38 sang Nhật. Nhưng mảng quần áo cao cấp hiện vẫn còn nhiều đất trống và đây chính là cơ hội tốt cho Trung Quốc xây dựng thương hiệu và gia tăng xuất khẩu. Năm 2007, Nhật Bản đã nhập khẩu hơn 82% tổng giá trị nhập khẩu may mặc từ Trung Quốc. Tuy nhiên, Nhật Bản đã bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi cuộc khủng hoảng kinh tế năm 2008 nên tăng trưởng kinh tế Nhật Bản chậm lại, do đó nhu cầu thị trường hàng may mặc giảm. Nhưng Trung Quốc vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng tại thị trường tại Nhật Bản. Xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản trong năm 2008 và 2009 vẫn ổn định. Năm 2009 Trung Quốc xuất khẩu sang Nhật đã tăng trưởng 1,2% so năm 2008. Trong 2 tháng đầu năm 2010 Trung Quốc đã xuất khẩu tới thị trường Nhật Bản đạt 10,43% trên tổng kim ngạch xuất khẩu. 2.2.2.4. Thị trường Châu Á: Có thể nói Trung Quốc đã xuất khẩu hàng dệt may sang Hiệp hội Các nước Đông Nam Á (ASEAN) đã tăng mạnh vì kể từ khi Trung Quốc và ASEAN thực hiện lộ trình giảm thuế bắt đầu từ ngày 1/7/2005 trên cơ sở thoả thuận mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc. Từ 1/7/2005, Thái Lan và Malaixia đã giảm thuế đánh vào hàng dệt may Trung Quốc, lần lượt từ 21,5% và 16,8% xuống 16,9% và 15%, và sẽ tiếp tục giảm xuống 10,6% và 9,2%. Đến năm 2010 hàng dệt may Trung Quốc xuất sang hai nước này sẽ chỉ còn chịu thuế 0%. Lộ trình giảm thuế với hàng dệt may Trung Quốc của Philipines cũng tương tự. Trong khi đó, hàng dệt may Trung Quốc xuất sang Inđônêxia, hiện đang chịu mức thuế chưa đến 5%, sẽ giảm xuống 0% vào năm 2009. Trước kia Việt Nam đánh thuế 36,6% đối với hàng dệt may Trung Quốc, nhưng từ 1/7/2005 đã giảm xuống 31% và năm 2006 sẽ giảm xuống
39
27,2%, sẽ giảm dần hằng năm cho tới 0% vào năm 2015. Theo kế hoạch
đến năm 2010, Trung Quốc và 6 nước thành viên cũ của ASEAN sẽ áp dụng
mức thuế 0% đối với các sản phẩm thông thường. Thời hạn thực hiện cho 4
nước chậm phát triển hơn trong ASEAN sẽ kéo dài tới năm 2015. Đây
thuận lợi lớn để Trung Quốc xuất khẩu hàng may mặc sang thị trường Đông
Nam Á. [2].
m 2009 đã có 28% lượng hàng may mặc của Trung Quốc được bán
vào thị trường Châu Á. [19]. Một điểm đáng chú ý trong xuất khu dt may
Trung Quốc trong 2 tháng đầu năm 2010 là sự tăng cường xut khu của nước
này trong vùng Châu Á ng gần 26% v kim ngch so vi cùng k năm 2009.
[6]. Dù mức tăng trưởng v xut khu này không nhiu bng mức tăng ti các
th trường truyn thống, nhưng cũng đáng ghi nhận n lc ca Trung Quc
trong công tác đa dạng hoá th trường.
2.2.3. Giá cả:
Trong chuỗi giá trị ng may mặc thế giới, các doanh nghiệp Trung
Quốc tham gia rất tốt vào mạng lưới sản xuất. Theo xu hướng phát triển hiện
nay thì Trung Quốc đang nhà cung cấp phụ cho các đối tác như Hồng
Kông, Đài Loan, Hàn Quốc…Trung Quốc là nước được hưởng li nhiu nht
nh toàn cu hóa. Nh sn xut giá r, Trung Quốc đã trở thành nhà địch
đối vi mt s lĩnh vc sn xut, t đồ chơi đến máy thu hình và nht là hàng
may mc. Theo số liệu thống mới nhất từ Cục thống Quốc gia Trung
Quốc, doanh số bán lẻ các sản phẩm tiêu dùng tại Trung Quốc trong 2 tháng
đầu năm 2010 đã đạt 2.502 tỷ Tệ. Trong đó, doanh số các sản phẩm dệt may
đạt 110,5 tỷ Tệ, tăng 23,3%. Tuy nhiên, đơn giá các sản phẩm may mặc giảm
0,9% trong 2 tháng đầu năm 2010, so với cùng kỳ năm ngoái. Trong tháng 2,
39 27,2%, và sẽ giảm dần hằng năm cho tới 0% vào năm 2015. Theo kế hoạch đến năm 2010, Trung Quốc và 6 nước thành viên cũ của ASEAN sẽ áp dụng mức thuế 0% đối với các sản phẩm thông thường. Thời hạn thực hiện cho 4 nước chậm phát triển hơn trong ASEAN sẽ kéo dài tới năm 2015. Đây là thuận lợi lớn để Trung Quốc xuất khẩu hàng may mặc sang thị trường Đông Nam Á. [2]. Năm 2009 đã có 28% lượng hàng may mặc của Trung Quốc được bán vào thị trường Châu Á. [19]. Một điểm đáng chú ý trong xuất khẩu dệt may Trung Quốc trong 2 tháng đầu năm 2010 là sự tăng cường xuất khẩu của nước này trong vùng Châu Á tăng gần 26% về kim ngạch so với cùng kỳ năm 2009. [6]. Dù mức tăng trưởng về xuất khẩu này không nhiều bằng mức tăng tới các thị trường truyền thống, nhưng cũng đáng ghi nhận nỗ lực của Trung Quốc trong công tác đa dạng hoá thị trường. 2.2.3. Giá cả: Trong chuỗi giá trị hàng may mặc thế giới, các doanh nghiệp Trung Quốc tham gia rất tốt vào mạng lưới sản xuất. Theo xu hướng phát triển hiện nay thì Trung Quốc đang là nhà cung cấp phụ cho các đối tác như Hồng Kông, Đài Loan, Hàn Quốc…Trung Quốc là nước được hưởng lợi nhiều nhất nhờ toàn cầu hóa. Nhờ sản xuất giá rẻ, Trung Quốc đã trở thành nhà vô địch đối với một số lĩnh vực sản xuất, từ đồ chơi đến máy thu hình và nhất là hàng may mặc. Theo số liệu thống kê mới nhất từ Cục thống kê Quốc gia Trung Quốc, doanh số bán lẻ các sản phẩm tiêu dùng tại Trung Quốc trong 2 tháng đầu năm 2010 đã đạt 2.502 tỷ Tệ. Trong đó, doanh số các sản phẩm dệt may đạt 110,5 tỷ Tệ, tăng 23,3%. Tuy nhiên, đơn giá các sản phẩm may mặc giảm 0,9% trong 2 tháng đầu năm 2010, so với cùng kỳ năm ngoái. Trong tháng 2,
40
giá các sản phẩm may mặc giảm 1,3%. Năm 2009 doanh số bán trong nước
chiếm 79,89% trong tổng doanh thu, tăng 3,15%. [6]. Như vậy chính thị
trường nội địa lớn mạnh đã giúp cho các doanh nghiệp may mặc Trung Quốc
thể tham gia tốt hơn trong chuỗi giá trị hàng dệt may thế giới bởi khả
năng phát triển thượng nguồn sẽ khiến cho giá trị gia tăng hàng dệt may tăng
mạnh của Trung Quốc khi tham gia chuỗi.
Nhờ chiến lược phát triển quy mô ở phạm vi rộng, Trung Quốc sớm tr
thành xưởng sản xuất dệt may thế giới. Ưu điểm ln của ngành dệt may
Trung Quốc chi phí nhân công rẻ, chất lượng sản phẩm cao khả năng
đáp ứng tốt nhu cầu của thị trường hàng may mặc thế giới đặc biệt những
thị trường khó tính như Mỹ, EU, Canada. Trong số những quốc gia xuất khẩu
hàng may mặc vào thị trường Mỹ, thì giá hàng may mặc xuất khẩu của Trung
Quốc từ năm 2005 đến 2009 có thể nói là thấp nhất, chỉ cao hơn giá xuất khẩu
của Bangladesh.
m 2008 suy thoái kinh tế trên phạm vi toàn cầu cũng ảnh hưởng tới
giá cả xuất nhập khẩu của các nước trên thế giới. Trong ng một năm từ
30/6/2008 đến 30/6/2009, nhp khu hàng may mc của EU đã giảm 2,5% v
khối lượng xung 4,4 triu tn, nhưng lại tăng 2,9% về giá tr lên tng cng
60,08 t Euro (khong 82,00 t USD). Như vậy, giá nhp khẩu trung bình đã
tăng 5,6%. [9]. Người mua EU nhu cầu ngày càng tăng đối vi hàng ca
Trung Quc, mt phn do các nhà sn xut Trung Quốc đã xửthành công
việc tăng giá trị của đồng Nhân dân t và giảm được áp lc v tiền lương bằng
cách đẩy mnh th trường sn xut qun áo chất ng tốt hơn trong khi
chuyn sn xuất bản sang các khu vc chi phí thấp hơn ngay trong nội
địa hoặc ra nước ngoài.
40 giá các sản phẩm may mặc giảm 1,3%. Năm 2009 doanh số bán trong nước chiếm 79,89% trong tổng doanh thu, tăng 3,15%. [6]. Như vậy chính thị trường nội địa lớn mạnh đã giúp cho các doanh nghiệp may mặc Trung Quốc có thể tham gia tốt hơn trong chuỗi giá trị hàng dệt may thế giới bởi vì khả năng phát triển thượng nguồn sẽ khiến cho giá trị gia tăng hàng dệt may tăng mạnh của Trung Quốc khi tham gia chuỗi. Nhờ chiến lược phát triển quy mô ở phạm vi rộng, Trung Quốc sớm trở thành xưởng sản xuất dệt may thế giới. Ưu điểm lớn của ngành dệt may Trung Quốc là chi phí nhân công rẻ, chất lượng sản phẩm cao và khả năng đáp ứng tốt nhu cầu của thị trường hàng may mặc thế giới đặc biệt là những thị trường khó tính như Mỹ, EU, Canada. Trong số những quốc gia xuất khẩu hàng may mặc vào thị trường Mỹ, thì giá hàng may mặc xuất khẩu của Trung Quốc từ năm 2005 đến 2009 có thể nói là thấp nhất, chỉ cao hơn giá xuất khẩu của Bangladesh. Năm 2008 suy thoái kinh tế trên phạm vi toàn cầu cũng ảnh hưởng tới giá cả xuất nhập khẩu của các nước trên thế giới. Trong vòng một năm từ 30/6/2008 đến 30/6/2009, nhập khẩu hàng may mặc của EU đã giảm 2,5% về khối lượng xuống 4,4 triệu tấn, nhưng lại tăng 2,9% về giá trị lên tổng cộng 60,08 tỷ Euro (khoảng 82,00 tỷ USD). Như vậy, giá nhập khẩu trung bình đã tăng 5,6%. [9]. Người mua EU có nhu cầu ngày càng tăng đối với hàng của Trung Quốc, một phần do các nhà sản xuất Trung Quốc đã xử lý thành công việc tăng giá trị của đồng Nhân dân tệ và giảm được áp lực về tiền lương bằng cách đẩy mạnh thị trường và sản xuất quần áo chất lượng tốt hơn trong khi chuyển sản xuất cơ bản sang các khu vực có chi phí thấp hơn ngay trong nội địa hoặc ra nước ngoài.
41
Tuy nhiên, tnăm 2008, sau khi đạt đến tốc độ tăng trưởng cao điểm
thì tình hình xuất khẩu dệt may của Trung Quốc đã giảm. Về bản, các
khách hàng lớn hiện nay ở châu Âu và Hoa Kỳ đang tìm nguồn cung ứng toàn
cầu, ngay cả một thương hiệu của cùng một trong cùng loại quần áo, nơi sản
xuất, bao gồm cả các quốc gia khác nhau, và họ đặt hàng cho những nước
chi phí thấp giá thành rẻ. Vì vậy, các doanh nghiệp Trung Quốc có bất lợi về
chi phí, giá cả không cạnh tranh so với c nước trong khu vực. Do khủng
hoảng kinh tế toàn cầu nên tình hình mua sắm trên toàn cầu giảm. Hầu hết các
doanh nghiệp may mặc Trung Quốc đã có các biện pháp khác nhau cạnh tranh
với các công ty nước ngoài. Các biện pháp y nhằm củng cố những khách
hàng cũ, và cố gắng giới thiệu một số sản phẩm có thương hiệu lớn để có thể
đảm bảo một số lợi nhuận, tiếp theo tìm một số thị trường tiêu thụ mới.
Những nguyên nhân dẫn đến việc giảm tỉ trọng xuất khẩu hàng dệt may
Trung Quốc chủ yếu là do những nguyên nhân chính sau đây:
Thứ nhất: do cuộc khủng hoảng tài chính từ 6 tháng cuối năm 2008 đến
nay ảnh hưởng lớn đến ba thị trường xuất khẩu lớn nói trên của Trung Quốc;
Thứ hai: đó sự cạnh tranh của các nước xuất khẩu ngành dệt may
Châu Á trong việc giành thị phần xuất khẩu vào thị trường Mỹ và EU;
Thứ ba: là hiện nay, chi phí lao động của Trung Quốc cao hơn nhiều so
với các nước châu Á khác dẫn đến giá xuất khẩu bị cạnh tranh gay gắt trên
trường quốc tế.
Thứ : Trung Quốc đang cố gắng giảm bớt sự lệ thuộc vào thị trường
nước ngoài bằng cách đẩy mạnh tiêu dùng trong nước. Nhu cầu hàng dệt may
đang tăng lên trên thị trường nội địa Trung Quốc, hạn chế tỷ trọng xuất khẩu
trong tổng doanh thu.
41 Tuy nhiên, từ năm 2008, sau khi đạt đến tốc độ tăng trưởng cao điểm thì tình hình xuất khẩu dệt may của Trung Quốc đã giảm. Về cơ bản, các khách hàng lớn hiện nay ở châu Âu và Hoa Kỳ đang tìm nguồn cung ứng toàn cầu, ngay cả một thương hiệu của cùng một trong cùng loại quần áo, nơi sản xuất, bao gồm cả các quốc gia khác nhau, và họ đặt hàng cho những nước có chi phí thấp giá thành rẻ. Vì vậy, các doanh nghiệp Trung Quốc có bất lợi về chi phí, giá cả không cạnh tranh so với các nước trong khu vực. Do khủng hoảng kinh tế toàn cầu nên tình hình mua sắm trên toàn cầu giảm. Hầu hết các doanh nghiệp may mặc Trung Quốc đã có các biện pháp khác nhau cạnh tranh với các công ty nước ngoài. Các biện pháp này nhằm củng cố những khách hàng cũ, và cố gắng giới thiệu một số sản phẩm có thương hiệu lớn để có thể đảm bảo một số lợi nhuận, tiếp theo tìm một số thị trường tiêu thụ mới. Những nguyên nhân dẫn đến việc giảm tỉ trọng xuất khẩu hàng dệt may Trung Quốc chủ yếu là do những nguyên nhân chính sau đây: Thứ nhất: do cuộc khủng hoảng tài chính từ 6 tháng cuối năm 2008 đến nay ảnh hưởng lớn đến ba thị trường xuất khẩu lớn nói trên của Trung Quốc; Thứ hai: đó là sự cạnh tranh của các nước xuất khẩu ngành dệt may Châu Á trong việc giành thị phần xuất khẩu vào thị trường Mỹ và EU; Thứ ba: là hiện nay, chi phí lao động của Trung Quốc cao hơn nhiều so với các nước châu Á khác dẫn đến giá xuất khẩu bị cạnh tranh gay gắt trên trường quốc tế. Thứ tư: Trung Quốc đang cố gắng giảm bớt sự lệ thuộc vào thị trường nước ngoài bằng cách đẩy mạnh tiêu dùng trong nước. Nhu cầu hàng dệt may đang tăng lên trên thị trường nội địa Trung Quốc, hạn chế tỷ trọng xuất khẩu trong tổng doanh thu.
42
Chính những nguyên nhân trên đã khiến cho giá cả của sản phẩm dệt
may Trung Quốc tăng lên. Mặc dù vậy, công nghiệp dệt may Trung Quốc vẫn
được đánh giá là những nhà xuất khẩu “giá rẻ họ đã biết tận dụng và khai
thác một cách có hiệu quả những lợi thế trong sản xuất và xuất khẩu hàng dệt
may để trở thành đối tác quan trọng và chi phối phần lớn mạng lưới sản xuất
trong chuỗi giá trị dệt may thế giới.
2.2.4. Các phương thức sản xuất hàng may mặc của Trung Quốc
Trong sut hai thp k 1980 và 1990 Trung Quc ch đơn thuần là nhà
sn xut hàng may mc theo các đơn đặt hàng ca các nhà thiết kế trên thế
gii. C th là các nhà sn xuất nước ngoài để thiết kế, cung cp mu mã và
thuê các doanh nghip may mc ca Trung Quc sn xut sn phm theo yêu
cu ca h (OEM).
Phải đến những năm 2000, Trung Quốc các doanh nghip dt may
mặc đã trưởng thành tham gia vào thiết kế trang phc, phát trin mô hình
kinh doanh t đơn đặt ng OEM đến mt mức độ cao n - ODM. Đồng
thời, người tiêu dùng trong nước tăng cao nhận thc v thương hiệu, đã sinh
ra các mô hình thương hiệu nhà sn xut (to ra bi các nhà sn xut ca các
thương hiệu như là nhãn hiệu nhà sn xut).
Sau m 2000, do các nhà sản xuất thu được nhiu kinh nghim và bí
quyết trong quá trình gia công s dng thiết b ca mình (OEM - Original
equipment manufacturing), các doanh nghip mnh Trung quốc đang từng
bước ci thin sc mnh ca mình nhm xây dựng thương hiệu trong tương
lai. Điểm bắt đầu là ODM (Original design manufacturing), các nhà cung cp
không ch cung cp dch v sn xut mà còn c dch v thiết kế na. Phn ln
các nhà sn xut may mc Trung quc hin nay đang làm các đơn hàng theo
42 Chính những nguyên nhân trên đã khiến cho giá cả của sản phẩm dệt may Trung Quốc tăng lên. Mặc dù vậy, công nghiệp dệt may Trung Quốc vẫn được đánh giá là những nhà xuất khẩu “giá rẻ” vì họ đã biết tận dụng và khai thác một cách có hiệu quả những lợi thế trong sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may để trở thành đối tác quan trọng và chi phối phần lớn mạng lưới sản xuất trong chuỗi giá trị dệt may thế giới. 2.2.4. Các phương thức sản xuất hàng may mặc của Trung Quốc Trong suốt hai thập kỷ 1980 và 1990 Trung Quốc chỉ đơn thuần là nhà sản xuất hàng may mặc theo các đơn đặt hàng của các nhà thiết kế trên thế giới. Cụ thể là các nhà sản xuất nước ngoài để thiết kế, cung cấp mẫu mã và thuê các doanh nghiệp may mặc của Trung Quốc sản xuất sản phẩm theo yêu cầu của họ (OEM). Phải đến những năm 2000, Trung Quốc và các doanh nghiệp dệt may mặc đã trưởng thành và tham gia vào thiết kế trang phục, phát triển mô hình kinh doanh từ đơn đặt hàng OEM đến một mức độ cao hơn - ODM. Đồng thời, người tiêu dùng trong nước tăng cao nhận thức về thương hiệu, đã sinh ra các mô hình thương hiệu nhà sản xuất (tạo ra bởi các nhà sản xuất của các thương hiệu như là nhãn hiệu nhà sản xuất). Sau năm 2000, do các nhà sản xuất thu được nhiều kinh nghiệm và bí quyết trong quá trình gia công sử dụng thiết bị của mình (OEM - Original equipment manufacturing), các doanh nghiệp mạnh ở Trung quốc đang từng bước cải thiện sức mạnh của mình nhằm xây dựng thương hiệu trong tương lai. Điểm bắt đầu là ODM (Original design manufacturing), các nhà cung cấp không chỉ cung cấp dịch vụ sản xuất mà còn cả dịch vụ thiết kế nữa. Phần lớn các nhà sản xuất may mặc ở Trung quốc hiện nay đang làm các đơn hàng theo
43
phương thức OEM ch các công ty xut sắc như Youngor thể đạt
được trình độ cao ca ODM. [34].
Các doanh nghip dt may ca Trung Quc hu hết là các doanh nghip
tư nhân, các doanh nghiệp nhà nước đã được c phn hóa, các công ty liên
doanh với nước ngoài và nhng doanh nghiệp nước ngoài đã trở thành nhng
nhà xut khu hàng may mc ch yếu Trung Quc tham gia vào chui
giá tr toàn cu ngành may mc. [10]. Những người nhp khu bao gm:
- Các hãng sn xut trong khu vc và trên thế gii, ch yếu t M, EU,
Nht Bn, Canada, Nga, n Quc, tiến hành vic sn xut t các nhà máy
ca h hoc t các nhà cung cấp độc lp ca Trung Quc to thành chui giá
tr toàn cu hình tam giác vi các nhà nhp khu c nước phát trin.
- Các hãng kinh doanh ch yếu t M, EU, Nht Bn sn xut hàng
theo y thác cho các nhà nhp khẩu nước ngoài.
- Các hãng n l c ngoài sn xut trc tiếp ti Trung Quốc dưới
nhãn hiu ca chính h.
Trong s những đối tác c ngoài nhp khu hàng may mc Trung
Quc thì mt s các công ty kinh doanh hàng may mc M, Eu, Nht Bn,
Canada m văn phòng đại din ti Trung Quốc để vn giám sát vic sn
xut ca các doanh nghip may mc Trung Quc. Mt s các doanh nghip
liên doanh vi các doanh nghip Trung Quốc để sn xut hàng may mc xut
khu h thành lp mng lưới sn xuất như đặt nhà máy ti các quc gia
khác như đt nhà máy ti Campuchia, Vit Nam, Sri Lanka...có li thế so
sánh v nhân công, nguyên vt liệu đầu vào…[34].
Trong s các doanh nghip xut khu may mc Trung Quc thì
mt s các doanh nghiệp như Bosideng, Youngor, Sunshine…sản xut theo
hình thc ODM, đã thiết lp mi quan h trc tiếp vi các hãng bán l nước
43 phương thức OEM và chỉ có các công ty xuất sắc như Youngor có thể đạt được trình độ cao của ODM. [34]. Các doanh nghiệp dệt may của Trung Quốc hầu hết là các doanh nghiệp tư nhân, các doanh nghiệp nhà nước đã được cổ phần hóa, các công ty liên doanh với nước ngoài và những doanh nghiệp nước ngoài đã trở thành những nhà xuất khẩu hàng may mặc chủ yếu ở Trung Quốc và tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu ngành may mặc. [10]. Những người nhập khẩu bao gồm: - Các hãng sản xuất trong khu vực và trên thế giới, chủ yếu từ Mỹ, EU, Nhật Bản, Canada, Nga, Hàn Quốc, tiến hành việc sản xuất từ các nhà máy của họ hoặc từ các nhà cung cấp độc lập của Trung Quốc tạo thành chuỗi giá trị toàn cầu hình tam giác với các nhà nhập khẩu ở các nước phát triển. - Các hãng kinh doanh chủ yếu từ Mỹ, EU, Nhật Bản sản xuất hàng theo ủy thác cho các nhà nhập khẩu nước ngoài. - Các hãng bán lẻ nước ngoài sản xuất trực tiếp tại Trung Quốc dưới nhãn hiệu của chính họ. Trong số những đối tác nước ngoài nhập khẩu hàng may mặc Trung Quốc thì một số các công ty kinh doanh hàng may mặc Mỹ, Eu, Nhật Bản, Canada mở văn phòng đại diện tại Trung Quốc để tư vấn giám sát việc sản xuất của các doanh nghiệp may mặc Trung Quốc. Một số các doanh nghiệp liên doanh với các doanh nghiệp Trung Quốc để sản xuất hàng may mặc xuất khẩu và họ thành lập mạng lưới sản xuất như đặt nhà máy tại các quốc gia khác như đặt nhà máy tại Campuchia, Việt Nam, Sri Lanka...có lợi thế so sánh về nhân công, nguyên vật liệu đầu vào…[34]. Trong số các doanh nghiệp xuất khẩu may mặc ở Trung Quốc thì có một số các doanh nghiệp như Bosideng, Youngor, Sunshine…sản xuất theo hình thức ODM, đã thiết lập mối quan hệ trực tiếp với các hãng bán lẻ nước
44
ngoài bng cách m văn phòng đại din M, EU, Nht Bn…Nhờ đó
hiu qu kinh doanh nhng doanh nghiệp này cao hơn do lợi nhun thu v cao
hơn so với làm hàng gia công xut khu (OEM). Giá bán theo hình thc này
cao hơn giá gia công rất nhiu lần, trong đó giá xut khu bao gm giá
nguyên vt liu, tin gia công, lãi suất ngân hàng (vay để mua hoc nhp khu
nguyên vt liệu), chi phí khác như vận chuyển… đặc bit li nhun thu
thường chiếm t l cao trong doanh thu xut khẩu. Như vậy lớn hơn rất
nhiu so vi giá gia công thun túy ch bao gm tin pgia công li
nhuận thu được. Bi li nhun doanh nghip thu v t gia ng xut
khu ch chiếm lượng rt nh của giá gia công do đó làm giảm li nhun ca
doanh nghip dẫn đến hiu qu xut khu không cao. [34].
Doanh nghip sn xut theo hình thc OEM thì vic xut khu chu s
chi phi mnh m bi nhng hãng mua hàng may mc ca thế gii. H chi
phi t vic cung cp vải để gia công hàng may mc xut khẩu đến vic ch
định nhà cung cp hoc ít nhất cũng thực hin vic kim tra sn xut theo
hàng mu. Trung Quc quc gia li thế v ngun nguyên vt liu ni
địa, chất lượng vi tt chính vì thế sn phm xut khu ca Trung Quốc đã tận
dụng được nguyên liệu trong nước.
Ngày 01/01/2005, Hiệp định ATC hết hiu lc thì nhu cu th trường
xut khu thế gii v hàng may mc th hiếu tiêu dùng may mc trong
nước bước vào một giai đoạn phát triển nhanh. Để đáp ng nhu cầu đó một s
nhà sn xut hàng may mc Trung Quốc đã tập trung vào thiết kế sn phm,
nhãn hiu thi trang (qun áo nhãn hiệu được to ra bi nhà thiết kế), tp
trung vào tiếp th thương hiệu kênh bán l (của chính thương hiệu ca các nhà
bán lẻ) và thương hiệu đại lý nhanh chóng phát trin. [11].
44 ngoài bằng cách mở văn phòng đại diện ở Mỹ, EU, Nhật Bản…Nhờ đó mà hiệu quả kinh doanh những doanh nghiệp này cao hơn do lợi nhuận thu về cao hơn so với làm hàng gia công xuất khẩu (OEM). Giá bán theo hình thức này cao hơn giá gia công rất nhiều lần, trong đó giá xuất khẩu bao gồm giá nguyên vật liệu, tiền gia công, lãi suất ngân hàng (vay để mua hoặc nhập khẩu nguyên vật liệu), chi phí khác như vận chuyển… đặc biệt là lợi nhuận thu thường chiếm tỉ lệ cao trong doanh thu xuất khẩu. Như vậy là lớn hơn rất nhiều so với giá gia công thuần túy chỉ bao gồm tiền phí gia công và lợi nhuận thu được. Bởi vì lợi nhuận mà doanh nghiệp thu về từ gia công xuất khẩu chỉ chiếm lượng rất nhỏ của giá gia công do đó làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp dẫn đến hiệu quả xuất khẩu không cao. [34]. Doanh nghiệp sản xuất theo hình thức OEM thì việc xuất khẩu chịu sự chi phối mạnh mẽ bởi những hãng mua hàng may mặc của thế giới. Họ chi phối từ việc cung cấp vải để gia công hàng may mặc xuất khẩu đến việc chỉ định nhà cung cấp hoặc ít nhất cũng thực hiện việc kiểm tra sản xuất theo hàng mẫu. Trung Quốc là quốc gia có lợi thế về nguồn nguyên vật liệu nội địa, chất lượng vải tốt chính vì thế sản phẩm xuất khẩu của Trung Quốc đã tận dụng được nguyên liệu trong nước. Ngày 01/01/2005, Hiệp định ATC hết hiệu lực thì nhu cầu ở thị trường xuất khẩu thế giới về hàng may mặc và thị hiếu tiêu dùng may mặc trong nước bước vào một giai đoạn phát triển nhanh. Để đáp ứng nhu cầu đó một số nhà sản xuất hàng may mặc Trung Quốc đã tập trung vào thiết kế sản phẩm, nhãn hiệu thời trang (quần áo nhãn hiệu được tạo ra bởi nhà thiết kế), tập trung vào tiếp thị thương hiệu kênh bán lẻ (của chính thương hiệu của các nhà bán lẻ) và thương hiệu đại lý nhanh chóng phát triển. [11].
45
Trong năm 2008 2009 do nh hưởng s suy thoái ca nn kinh tế
toàn cu, s cnh tranh ca các nhà xut khu may mc Châu Á cùng vi
chính sách mô Trung Quốc nên nguyên liu ngành dt nht sản lượng
bông giảm đáng kể, vì vy s ph thuc vào nguyên liệu nước ngoài tăng lên.
Nnh dt may Trung Quốc đang gặp nhiều khó khăn mt nguyên nhân
na do chi phí lao động trong nước tăng. Dường như xu hướng xut khu gián
tiếp ca Trung Quốc đặt nhà máy mt s nước như Campuchia, Việt Nam,
Ấn Độ tăng n họ hp dn bởi môi trường đầu do nhân công thuế
nhp khu nguyên liu thp. Li thế ch yếu ca các doanh nghip nội địa
các nhà máy mà Trung Quốc đầu tư c ngoài là chi phí nhân công r.
vy h th nhp khu nguyên liu t th trường Trung Quc vào các nhà
máy sn xut tại nước ngoài ca mình.
Các nhà sn xut hàng may mc Trung Quc t nhà sn xut theo
đơn đặt hàng đã chuyển đổi sang mô hình quản lý thương hiệu, nhà sn xut
đã chủ động được t khâu sn xut theo dây chuyn công nghiệp cho đến thiết
kế sn phm, quản lý thương hiệu và phân phi ti các hãng bán l. Chính vì
vy, giá tr ca ca sn phẩm cao hơn vì không phải tr tin cho nhà thiết kế,
li nhun ca nhà sn xuất cũng được nâng cao vì giá tr thiết kế phi tr cho
nhà thiết kế c ngoài t 30 đến 50% li nhun trên mt sn phm. [34].
m lại, để cạnh tranh hơn trên thị trường quốc tế về xuất khẩu hàng
may mặc, các doanh nghiệp Trung Quốc trong ngành dệt may cần phải tăng
cường sức mạnh về quy mô công ty, thiết kế sản phẩm, marketing và hệ thống
phân phối. Mặt khác, muốn thâm nhập sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu
tạo ra nhiều lượng giá trị gia tăng hơn nữa thì các doanh nghiệp Trung Quốc
cần phải nâng cao tỷ lệ sản xuất dưới dạng sản xuất theo thiết kế riêng (ODM
- Original Design Manufacture) và hướng tới sản xuất theo thương hiệu riêng
(OBM - Original Brandname Manufacture).
45 Trong năm 2008 và 2009 do ảnh hưởng sự suy thoái của nền kinh tế toàn cầu, sự cạnh tranh của các nhà xuất khẩu may mặc Châu Á cùng với chính sách vĩ mô Trung Quốc nên nguyên liệu ngành dệt nhất là sản lượng bông giảm đáng kể, vì vậy sự phụ thuộc vào nguyên liệu nước ngoài tăng lên. Ngành dệt may Trung Quốc đang gặp nhiều khó khăn vì một nguyên nhân nữa do chi phí lao động trong nước tăng. Dường như xu hướng xuất khẩu gián tiếp của Trung Quốc đặt nhà máy ở một số nước như Campuchia, Việt Nam, Ấn Độ tăng lên vì họ hấp dẫn bởi môi trường đầu tư do nhân công và thuế nhập khẩu nguyên liệu thấp. Lợi thế chủ yếu của các doanh nghiệp nội địa và các nhà máy mà Trung Quốc đầu tư ở nước ngoài là chi phí nhân công rẻ. Vì vậy họ có thể nhập khẩu nguyên liệu từ thị trường Trung Quốc vào các nhà máy sản xuất tại nước ngoài của mình. Các nhà sản xuất hàng may mặc Trung Quốc từ là nhà sản xuất theo đơn đặt hàng đã chuyển đổi sang mô hình quản lý thương hiệu, nhà sản xuất đã chủ động được từ khâu sản xuất theo dây chuyền công nghiệp cho đến thiết kế sản phẩm, quản lý thương hiệu và phân phối tới các hãng bán lẻ. Chính vì vậy, giá trị của của sản phẩm cao hơn vì không phải trả tiền cho nhà thiết kế, lợi nhuận của nhà sản xuất cũng được nâng cao vì giá trị thiết kế phải trả cho nhà thiết kế nước ngoài từ 30 đến 50% lợi nhuận trên một sản phẩm. [34]. Tóm lại, để cạnh tranh hơn trên thị trường quốc tế về xuất khẩu hàng may mặc, các doanh nghiệp Trung Quốc trong ngành dệt may cần phải tăng cường sức mạnh về quy mô công ty, thiết kế sản phẩm, marketing và hệ thống phân phối. Mặt khác, muốn thâm nhập sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu và tạo ra nhiều lượng giá trị gia tăng hơn nữa thì các doanh nghiệp Trung Quốc cần phải nâng cao tỷ lệ sản xuất dưới dạng sản xuất theo thiết kế riêng (ODM - Original Design Manufacture) và hướng tới sản xuất theo thương hiệu riêng (OBM - Original Brandname Manufacture).
46
2.3. Vị trí của Trung Quốc trong chuỗi giá trị toàn cầu
Chui giá tr toàn cu ngành dt may mt trong nhng chui giá tr
được hình thành sm nht trên thế gii. hu hết các quc gia, vic tham gia
tt vào tt c các công đon trong chui giá tr toàn cu mt vic rt khó,
bi vì mi mt quc gia có nhng li thế khác nhau. Ví d như Mỹ và EU có
ngành dt may phát trin sớm nhưng hiện nay h hu như chỉ tham gia vào
nhng công đon phía h ngun. Đó là các khâu mạng lưới xut khu
mạng lưới marketing, vì hđội ngũ phân phối sn phm, thiết kế được đào
to gii chuyên nghip. Còn đối vi những nước đang phát triển như
nhng nước Châu Á, Châu Phi những nước li thế v i nguyên, khí
hậu, nhân công đông và rẻ thì mnh v công đoạn phần thượng ngun nht
khâu mạng lưới sn xut.
Chính vì vy trên thế giới đã hình thành những chui giá tr để th
tn dụng được nhng li thế ca các quc gia t đó sn xuất được ra nhng
sn phm r nht vi chất lượng tt nht. Chui giá tr dt may mt trong
nhng chui giá tr như vậy và nó đã tạo ra nhng li ích rt ln cho tt c các
quc gia khi tham gia vào chui giá tr dt may toàn cu.
46 2.3. Vị trí của Trung Quốc trong chuỗi giá trị toàn cầu Chuỗi giá trị toàn cầu ngành dệt may là một trong những chuỗi giá trị được hình thành sớm nhất trên thế giới. Ở hầu hết các quốc gia, việc tham gia tốt vào tất cả các công đoạn trong chuỗi giá trị toàn cầu là một việc rất khó, bởi vì mỗi một quốc gia có những lợi thế khác nhau. Ví dụ như Mỹ và EU có ngành dệt may phát triển sớm nhưng hiện nay họ hầu như chỉ tham gia vào những công đoạn ở phía hạ nguồn. Đó là các khâu ở mạng lưới xuất khẩu và mạng lưới marketing, vì họ có đội ngũ phân phối sản phẩm, thiết kế được đào tạo giỏi và chuyên nghiệp. Còn đối với những nước đang phát triển như những nước Châu Á, Châu Phi là những nước có lợi thế về tài nguyên, khí hậu, nhân công đông và rẻ thì mạnh về công đoạn ở phần thượng nguồn nhất là ở khâu mạng lưới sản xuất. Chính vì vậy trên thế giới đã hình thành những chuỗi giá trị để có thể tận dụng được những lợi thế của các quốc gia từ đó sản xuất được ra những sản phẩm rẻ nhất với chất lượng tốt nhất. Chuỗi giá trị dệt may là một trong những chuỗi giá trị như vậy và nó đã tạo ra những lợi ích rất lớn cho tất cả các quốc gia khi tham gia vào chuỗi giá trị dệt may toàn cầu.