Khóa luận tốt nghiệp Quản trị kinh doanh: Nâng cao hiệu quả hoạt động bán hàng của công ty TNHH TM Thảo Ái - Chi nhánh Huế
3,398
180
99
Khóa luận tốt nghiệp
SVTH: Nguyễn Thị Tùy Nhi – K45 QTKDTH 23
Trong nghiên cứu kinh tế, giá được hiểu là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị
hàng hóa. Trong kinh doanh và quản trị giá, giá được mô tả một cách đơn giản và
cụ thể hơn: giá là khoản tiền phải bỏ ra để đổi lấy một món hàng hay một dịch vụ
hoặc giá là khoản tiền phải trả cho một thứ gì đó.
Thông thường, giá là môt yếu tố rất nhạy cảm trong hoạt động kinh doanh nói
chung và hoạt động thương mại nói riêng, bởi giá liên quan đến lợi ích cá nhân
có
tính mâu thuẫn giữa người mua và người bán.
Các mức giá được tính toán và sử dụng trong hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp hình thành nên hệ thống giá cả của doanh nghiệp. Hệ thống giá của doanh
nghiệp là tập hợp có tính khoa học các mức giá được lựa chọn và tính toán nhằm
phục vụ cho các mục đích, đối tượng và điều kiện ứng dụng khác nhau của quá
trình
kinh doanh và bán hàng. Tùy theo tiêu thức định giá cụ thể, hệ thống giá của
doanh
nghiệp có thể xác định từ người đặt giá (giá nhà sản xuất, nhà bán buôn, nhà bán
lẻ),
theo phương thức bán (giá bán buôn, giá bán lẻ), theo tính chất giá (giá kế
hoạch,
giá thực tế, giá niêm yết…)
Trong thực tế, doanh nghiệp có thể lựa chọn mục tiêu định giá của mình từ các
mục tiêu chính như sau:
- Định giá nhằm đảm bảo mức thu nhập được xác định trước
- Định giá nhằm mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận
- Định giá nhằm mục tiêu doanh số bán hàng
- Định giá nhằm mục tiêu phát triển các phân đoạn thị trường
- Định giá nhằm cạnh tranh đối đầu
- Định giá nhằm mục tiêu cạnh tranh không mang tính giá cả
Chính sách giá đưa ra của doanh nghiệp bao gồm:
- Chính sách một giá
- Chính sách giá linh hoạt
- Chính sách giá hớt váng
- Chính sách giá xâm nhập
- Chính sách giá giới thiệu
- Chính sách giá theo thị trường
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ HUẾ
Khóa luận tốt nghiệp
SVTH: Nguyễn Thị Tùy Nhi – K45 QTKDTH 24
1.1.4.2. Chất lƣợng sản phẩm
Chất lượng sản phẩm cung cấp cho khách hàng là giá trị mà khách hàng nhận
được từ hiệu quả của sản phẩm và dịch vụ do doanh nghiệp cung ứng. Chất lượng
sản phẩm được bao gồm nhiều yếu tố, và doanh nghiệp cần xác định và lựa chọn
những yếu tố quan trọng,
đặc thù và tạo khả năng cạnh tranh cao cho sản phẩm do
bạn sản xuất. Chất lượng của một sản phẩm có thể gồm những tiêu chuẩn kỹ
thuật bắt buộc, tiêu chuẩn cở sở do doanh nghiệp đặt ra, và những đặc tính khác
cũng như những đặc tính của những dịch vụ đi kèm. Như vậy, đề quản lý được
chất lượng sản phẩm thì việc trước tiên là cần xác định những đặc tính chất
lượng, cả kỹ thuật và phi kỹ thuật, mà bạn muốn sản phẩm phải có để cạnh tranh
trên thị trường. Sau đó, bạn cần thiết lập những biện pháp quản lý và đảm bảo
rằng khách hàng của bạn nhận được những sản phẩm đúng như họ mong muốn.
Ngày nay, chất lượng sản phẩm, hàng hóa không những là thước đo quan
trọng khẳng định sự tồn tại của doanh nghiệp mà còn là chuẩn mực trong các quan
hệ kinh tế, thương mại và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Những đặc điểm sau đây
khiến cho chất lượng trở thành yếu tố trung tâm tạo năng suất cao, phát triển
bền
vững, cũng tức là làm cho khả năng cạnh tranh cao:
- Khách hàng cần giá trị sử dụng của sản phẩm – dịch vụ (các tính năng kỹ
thuật hay những tính chất đặc trưng đáp ứng nhu cầu về ăn, mặc, ở, đi lại, học
tập,
giải trí…) chứ không phải là giá trị của sản phẩm – dịch vụ đó. Cho nên họ
thường
trả giá (mua) ở mức trung bình hay thấp hơn trong số sản phẩm dịch vụ cùng loại,
cùng mức chất lượng của các tổ chức cung cấp khác nhau. Trong khi đó, các tổ
chức cung cấp vừa phải tạo ra sản phẩm – dịch vụ có mức chất lượng thỏa mãn
khách hàng, vừa khống chế sao cho giá thành phải dưới giá bán càng nhiều càng
tốt.
Dung hạn về mức chất lượng (khoảng trống phía trên các đường mức chất lượng
chấp nhận) và dung hạn về điều chỉnh giá (khoảng cách giữa giá bán và giá thành)
là hai tiền đề tổ chức cung cấp sản phẩm – dịch vụ thiết lập và giải bài toán
hiệu quả
và cạnh tranh của mình.
- Chất lượng là thuộc tính của bất cứ sản phẩm – dịch vụ nào. Nếu không hội đủ
yêu cầu tối thiểu về các tính chất đặc trưng để có giá trị sử dụng ở mức chấp
nhận thì tự
nó không còn là sản phẩm hay dịch vụ nữa, đó cũng là bản chất của chất lượng.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ HUẾ
Khóa luận tốt nghiệp
SVTH: Nguyễn Thị Tùy Nhi – K45 QTKDTH 25
- Tạo ra sản phẩm – dịch vụ có chất lượng cao, thỏa mãn khách hàng là chọn
cách phát triển theo chiều sâu, là phương án hợp thời và tiết kiệm. Hơn nữa, khi
coi
trọng và nâng cao dần chất lượng sản phẩm – dịch vụ thì sẽ có tác động ngược lại
mạnh
hơn, buộc phải đổi mới sản phẩm – dịch vụ, đổi mới công nghệ, nâng cao kỹ năng
lao
động, cải tiến cách thức quản lý…, tức là tạo sức mạnh thúc đẩy quá trình chuyển
đổi
kinh tế (chuyển từ lĩnh vực giá trị gia tăng thấp sang lĩnh vực giá trị gia tăng
cao.
- Khi chất lượng sản phẩm – dịch vụ được nâng cao, thỏa mãn khách hàng với
giá bán thấp một cách tương đối thì uy tín của các tổ chức cung cấp sẽ được nâng
cao, ưu thế cạnh tranh mạnh hơn, thị phần sẽ được mở rộng, kể cả xuất khẩu. Khi
xuất khẩu tăng thì sức hút nguồn đầu tư bên ngoài cũng mạnh hơn và hệ quả tất
yếu
sẽ được thêm công nghệ mới, kỹ năng lao động và kỹ năng quản lý cao hơn, tạo nên
hiệu quả kép (tăng trưởng các nguồn lực + tăng trưởng kinh tế).
- Khi có chất lượng cao trên nền tảng công nghệ tiến bộ sẽ kéo theo nhiều vấn
đề không chỉ là kinh tế mà còn là xã hội được giải quyết như: nâng cao dân trí,
nâng
cao ý thức trách nhiệm và kỷ luật, phong cách công nghiệp, bảo vệ môi trường,
văn
minh trong hoạt động kinh tế và trong đời sống xã hội.
Tóm lại, chất lượng là yếu tố cạnh tranh được nhìn nhận theo quan điểm tổng
hợp kinh tế - kỹ thuật – xã hội, là cái bên trong, là sự vận động tự thân của
hoạt
động kinh tế. Tuy nhiên, điều cần lưu ý là, yếu tố chất lượng chỉ phát huy tác
dụng
cao khi hoạt động sản xuất - kinh doanh - dịch vụ hướng theo khách hàng, lấy
thỏa
mãn khách hàng làm mục tiêu, qua đó đạt được lợi nhuận (tức lợi nhuận phụ thuộc
vào mức độ thu hút và thỏa mãn khách hàng để tạo thêm giá trị mới). Cần nắm
vững, vận dụng linh hoạt tính tương đối của chất lượng, tức chất lượng biến đổi
theo đối tượng và thời gian sử dụng chứ không phải là chất lượng tối đa chất
lượng
không tưởng.
1.1.4.3. Sản phẩm và chính sách sản phẩm kinh doanh
Chính sách về chủng loại sản phẩm
Tức là phải lựa chọn bao nhiêu mặt hàng trong chủng loại sản phẩm. Bề rộng
của chủng loại sản phẩm phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố: yêu cầu thị trường cạnh
tranh, khả năng sản xuất của doanh nghiệp…mục tiêu doanh nghiệp. Đối với những
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ HUẾ
Khóa luận tốt nghiệp
SVTH: Nguyễn Thị Tùy Nhi – K45 QTKDTH 26
doanh nghiệp đang cố gắng để nổi tiếng là người cung ứng một chủng loại hoặc
đang phấn đấu để chiếm lĩnh thị phần hay mở rộng thị trường, thường có chủng
loại
hàng hóa rộng. Còn các doanh nghiệp quan tâm trước hết đến tính sinh lời cao của
doanh nghiệp thì thường có chủng loại hẹp.
Chính sách danh mục sản phẩm
Danh mục sản phẩm là tập hợp tất cả các nhóm chủng loại sản phẩm do một
người bán cụ thể đem chào bán cho người mua. Ví dụ, một công ty có thể có danh
mục sản phẩm gồm ba chủng loại chính: mỹ phẩm, đồ trang sức, hàng gia dụng.
Mỗi loại chia thành nhiều nhóm sản phẩm.
Danh mục sản phẩm của doanh nghiệp có thể được mô tả theo:
- Chiều rộng: là tổng số các nhóm chủng loại sản phẩm do doanh nghiệp sản
xuất.
- Chiều dài: mức độ phong phú của danh mục sản phẩm là tổng số những mặt
hàng có thành phần có trong tất cả chủng loại sản phẩm của doanh nghiệp.
- Chiều sâu của danh mục sản phẩm là số mẫu khác nhau của mỗi sản phẩm
trong mặt hàng.
- Tính đồng nhất của danh mục sản phẩm là mức độ liên quan mật thiết giữa các
sản phẩm thuộc các nhóm chủng loại khác nhau xét theo góc độ mục đích cuối cùng
của chúng, các yêu cầu về sản xuất, hệ thống phân phối hay các chỉ tiêu nào đó.
Bốn điều nói trên của danh mục sản phẩm trở thành những công cụ để định ra
chính sách sản phẩm cho doanh nghiệp. Doanh nghiệp có thể mở rộng hoạt động
của mình theo bốn hướng. Có thể mở rộng danh mục sản phẩm của mình bằng cách
bổ sung thêm những chủng loại hàng hóa mới, có thể tăng thêm mức độ phong phú
của những nhóm sản phẩm đã có, và tùy theo yêu cầu, doanh nghiệp có thể phấn
đấu theo hướng tăng hay giảm mức độ đồng nhất giữa các mặt hàng thuộc các
chủng loại sản phẩm khác nhau.
1.1.4.4. Dịch vụ bán hàng
Một yếu tố nữa của chính sách hàng hóa đó là cung cấp dịch vụ khách hàng.
Hàng hóa của công ty thường đòi hỏi phải có những dịch vụ nhất định. Dịch vụ có
thể là không lớn nhưng nó giữ vai trò quyết định đối với hàng hóa.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ HUẾ
Khóa luận tốt nghiệp
SVTH: Nguyễn Thị Tùy Nhi – K45 QTKDTH 27
Ngày nay trên thị trường cạnh tranh, sự cạnh tranh vể giá cả ngày càng ít có ý
nghĩa quan trọng hơn, thay vào đó là sự cạnh tranh về dịch vụ. Các nhà kinh
doanh
coi dịch vụ bán hàng là một thứ vũ khí sắc bén để cạnh tranh, giành ưu thế trên
thị
trường. Một trong những điều quan tâm trong dịch vụ này của doanh nghiệp chính
là khách hàng, nguồn đem lại thu nhập cho công ty. Cuộc sống càng hiện đại, cung
cách buôn bán càng phát triển thì họ càng được tự do hơn trong lựa chọn. Ngược
lại, các công ty chỉ có một hướng đi: hiểu thấu đáo về các thượng đế của mình,
làm
mọi thứ để lấy lòng được khách hàng. Trong thực tế, một doanh nghiệp có thể bán
sản phẩm với nhiều mức độ khác nhau:
- Bán một sản phẩm thuần túy thì không cần có dịch vụ đi kèm
- Bán một sản phẩm cụ thể kèm dịch vụ
- Một dịch vụ kèm theo những món hàng và dịch vụ nhỏ hơn
- Dịch vụ thuần túy
Khi xác định môt dịch vụ bán hàng nhà quản trị phải thông qua các quyết định
quan trọng sau:
Quyết định về hệ thống dịch vụ tổng hợp: Nhà quản trị phải nghiên cứu
người tiêu dùng để hiểu rõ có thể chào mời khách hàng những dịch vụ chủ yếu nào
và tầm quan trọng của những dịch vụ chủ yếu đó. Nhưng việc giải quyết vấn đề về
cung cấp những dịch vụ cụ thể nào vẫn không đơn giản. Dịch vụ có thể là hết sức
quan trọng đối với người tiêu dùng, tuy nhiên không phải là yếu tố quyết định
khi
lựa chọn nhà cung ứng nếu tất cả những người cung ứng hiện có đều cung ứng các
dịch vụ đó với mức chất lượng như nhau.
Quyết định về mức độ dịch vụ: Người tiêu dùng quan tâm không chỉ đến
bản thân dịch vụ mà còn cả khối lượng và chất lượng dịch vụ nữa. Công ty phải
thường xuyên theo dõi xem dịch vụ của mình và của đối thủ cạnh tranh đáp ứng sự
mong đợi của khách hàng đến mức độ nào. Có thể phát hiện những thiếu sót trong
hệ thống dịch vụ bằng một số biện pháp như mua so sánh, thường xuyên thăm dò ý
kiến của khách hàng, đặt các thùng góp ý và tổ chức hệ thống giải quyết các đơn
khiếu nại. Tất cả những việc đó sẽ giúp công ty có được ý niệm về công việc mình
làm và sự thỏa mãn của khách hàng.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ HUẾ
Khóa luận tốt nghiệp
SVTH: Nguyễn Thị Tùy Nhi – K45 QTKDTH 28
Quyết định về hình thức làm dịch vụ: Nhà quản trị cần phải quyết định xem
dịch vụ sẽ được cung ứng dưới hình thức nào. Câu hỏi quan trọng là quyết định
đơn
giá làm dịch vụ thế nào. Mỗi dạng dịch vụ có thể được cung ứng theo nhiều cách
khác nhau. Vì quyết định của công ty sẽ tùy thuộc vào ý thích của khách hàng và
vào cách cung ứng của đối thủ cạnh tranh.
Quyết định về bộ phận làm dịch vụ khách hàng.
1.1.4.5. Vị trí điểm bán
Việc lựa chọn địa điểm bố trí cửa hàng là một trong những yếu tố cạnh tranh
quyết định xét theo khả năng thu hút người mua. Các khách hàng thường lựa chọn
những cửa hàng gần trung tâm và gần nơi mình sinh sống. Các cửa hàng bách hóa
tổng hợp, các công ty dầu mỏ và các chủ sở hữu quyền ưu đãi trong khu vực ăn
uống công cộng phục vụ nhanh đều lựa chọn hết sức kỹ lưỡng địa điểm bố trí xí
nghiệp của mình bằng cách sử dụng những phương pháp lựa chọn hoàn hảo và đánh
giá các khu đất.
Các tiêu chí để lựa chọn vị trí điểm bán tối ưu:
- Thuận tiện: đây là một trong những tiêu chí vô cùng quan trọng khi doanh
nghiệp xác định địa điểm đặt trụ sở của mình. Địa điểm được các doanh nghiệp ưu
tiên hàng đầu đó là gần trục đường chính, gần trung tâm thành phố, thuận tiện
cho
việc đi lại của khách hàng và cũng dễ được khách hàng chú ý.
- An toàn: đây là vấn đề ngày càng được khách hàng và nhân viên quan tâm.
Điểm đậu xe gần trụ sở của bạn đến mức nào? Có được chiếu sáng tốt không? Tình
hình an ninh trong khu vực như thế nào?
- Danh tiếng: Một địa chỉ ở khu buôn bán sầm uất sẽ tăng thêm uy tín cho
doanh nghiệp không? Các khách hàng giàu có thích tìm đến những doanh nghiệp
nằm trong vùng dành cho giới của họ không?
- Giao thông: những người tìm địa điểm bán lẻ thì rất thích những nơi có giao
thông đông đúc, còn những người tìm chỗ cho thuê văn phòng thì không
- Yêu cầu về trang thiết bị
- Sự khoanh vùng: đảm bảo doanh nghiệp đang hoạt động trong vùng cho
phép.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ HUẾ
Khóa luận tốt nghiệp
SVTH: Nguyễn Thị Tùy Nhi – K45 QTKDTH 29
1.1.4.6. Khuyến mãi
Khái niệm
Khuyến mãi bao gồm rất nhiều công cụ cổ động nhằm kích thích thị trường
đáp ứng mạnh hơn và nhanh chóng hơn. Những công cụ này là kích thích khách
hàng (tặng hàng mẫu, phiếu thưởng, trả lại tiền, bán đại hạ giá, phần thưởng, tố
chức cuộc thi, phiếu tặng hàng, trình diễn), kích thích thương mại (trợ cấp mua,
quà
miễn phí, trợ cấp bán hàng, quảng cáo hợp tác, thi đua doanh số các đại lý) và
kích
thích nhân viên bán hàng (tiền thưởng, thi đua, so sánh doanh số). Khuyến mãi là
những kích thích ngắn hạn khuyến khích người ta mua hay bán một sản phẩm hoặc
một dịch vụ
Một số yếu tố đã góp phần cho sự phát triển nhanh chóng của khuyến mại,
nhất là trong thị trường tiêu thụ. Thứ nhất, ở bên trong, các nhà quản trị phải
đứng
trước những áp lực rất lớn là gia tăng doanh số hiện tại, và ngày nay, chuyện
khích
lệ được ban giám đốc xem như một công cụ buôn bán hiệu quả hơn. Thứ hai, phần
về bên ngoài, công ty đứng trước sự cạnh tranh gay gắt hơn và các nhãn hiệu có
sự
ngang nhau, tương tự nhau. Các đối thủ cạnh tranh đang sử dụng đến các khích lệ
nhiều hơn trước và người tiêu thụ trở nên có tính định hướng theo thoã thuận
nhiều
hơn trước. Thứ ba, công dụng của quảng cáo yếu dần bởi phí tổn cứ quá cao, cộng
với các hạn buộc của luật pháp và tình trạng quảng cáo xô bồ, chen chúc. Sau
cùng
nhà bán lẻ đang đòi hỏi nhà sản xuất nên có sự thoã thuận nhiều hơn.
Những quyết định chủ yếu về khuyến mãi
Khi sử dụng các công cụ khuyến mãi, doanh nghiệp phải xác lập các mục tiêu,
lựa chọn công cụ, triển khai chương trình, thử nghiệm truớc, tiến hành và kiểm
tra
hoạt động và đánh giá kết quả.
Xác lập các mục tiêu khuyến mại
Mục tiêu khuyến mại rất đa dạng. Những mục tiêu khuyến mại được thiết
lập từ những mục tiêu truyền thông chủ yếu, mà chúng vốn được xây dựng căn
cứ vào những mục tiêu marketing chủ yếu đã được triển khai cho mỗi sản phẩm.
Những mục tiêu riêng biệt của khuyến mãi sẽ thay đổi tuỳ theo loại thị trường
mục tiêu đã chọn
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ HUẾ
Khóa luận tốt nghiệp
SVTH: Nguyễn Thị Tùy Nhi – K45 QTKDTH 30
- Mục tiêu cổ động người tiêu dùng
+ Để tăng doanh số ngắn hạn hay góp phần xây dựng thị phần về lâu dài
+ Lôi cuốn người tiêu thụ thử dung sản phẩm mới
+ Thu hút KH của đối thủ cạnh tranh
+ Duy trì, tưởng thưởng lòng trung thành của người tiêu thụ
- Mục tiêu cổ động thương mại
+ Làm cho nhà bán lẻ chịu bày bán sản phẩm mới và lưu kho nhiều hơn
+ Làm cho nhà bán lẻ chịu quảng cáo sản phẩm và dành cho sản phẩm đó
nhiều chỗ bày trên kệ hơn.
+ Khiến cho họ chịu mua trước
- Mục tiêu đối với lực lượng bán
+ Mục tiêu khiến cho nhân viên bán hàng hết lòng hơn đối với sản phẩm mới
hay sản phẩm hiện tại.
+ Khiến cho lực lượng bán nỗ lực tìm kiếm khách hàng mới
Lựa chọn công cụ khuyến mãi
Những công cụ chính gồm có
Các công cụ cổ động người tiêu dùng
Hàng mẫu, quà tặng, phiếu thưởng, phần thưởng cho khách hàng thường
xuyên hay mua nhiều, gói hàng chung, quà tặng, phiếu đổi hàng, dùng thử miễn
phí,
trưng bày và trình diễn tại nơi bán hàng.
Kích thích thương mại
- Chiết khấu
- Tài trợ
- Tặng hàng khuyến mãi
Các công cụ cổ động doanh nghiệp
1.1.4.7. Hoạt động nhân viên bán hàng
Kỹ năng bán hàng chuyên nghiệp của nhân viên là nhân tố quan trọng ảnh
hưởng tới sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp. Những kỹ năng của họ -
bao gồm cung cấp các dịch vụ và xúc tiến bán hàng - sẽ là một lợi thế khiến bạn
vượt trội hơn so với các doanh nghiệp khác. Đối với khách hàng, nhân viên bán
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ HUẾ
Khóa luận tốt nghiệp
SVTH: Nguyễn Thị Tùy Nhi – K45 QTKDTH 31
hàng chính là cửa hàng. Điều đó cũng có nghĩa là, trong suy nghĩ của họ nhân
viên
bán hàng tốt thì cửa hàng đó tốt, còn nhân viên bán hàng không tốt thì cửa hàng
đó
là không tốt.
Một chương trình quảng cáo thành công sẽ lôi kéo được khách hàng đến với
cửa hàng của bạn. Nhưng để làm cho họ muốn mua hàng thì trước tiên phải đào tạo
đội ngũ nhân viên bán hàng năng động.
Sức ép cạnh tranh trên thương trường đang gia tăng, khi ngày càng có nhiều
công ty kinh doanh các loại hình sản phẩm – dịch vụ trên cùng một lĩnh vực. Việc
thị
trường không được mở rộng, trong khi số lượng đối thủ cạnh tranh mỗi lúc một
đông
thêm đã khiến công việc cạnh tranh trở nên khó khăn hơn. Trong bối cảnh đó, việc
nâng cao doanh số và tăng lợi nhuận gần như phụ thuộc hoàn toàn vào tài trí,
năng
lực cũng như tính chuyên nghiệp của đội ngũ nhân viên bán hàng. Quả thật, nhân
viên bán hàng luôn giữ một vị trí rất quan trọng trong các quy trình hoạt động
kinh
doanh. Họ không chỉ là những người trực tiếp làm ra doanh thu, mà họ còn là bộ
mặt
của công ty và chịu trách nhiệm truyền tải hình ảnh công ty tới người tiêu dùng.
1.2. Cơ cở thực tiễn
1.2.1. Tổng quan thị trƣờng xe máy ở Việt Nam
Trong những năm gần đây, việc thực hiện chính sách mở cửa và hội nhập với
nền kinh tế của các nước trong khu vực và trên thế giới đã làm cho nền kinh tế
Việt
Nam phát triển và đạt được những thành tựu đáng kể. Sự phát triển đó của nền
kinh
tế đã có ảnh hưởng trực tiếp tích cực đến đời sống của người dân. Đời sống của
nhân dân từng bước được cải thiện và nâng cao rõ rệt. Cũng như những nhu cầu tự
nhiên như ăn, mặc, ở thì một nhu cầu khác không thể thiếu được đối với con người
trong cuộc sống hiện nay đó là phương tiện đi lại hay còn gọi là phương tiện
giao
thông. Và để đáp ứng được nhu cầu đó của người dân thì một loạt các phương tiện
giao thông đã được nghiên cứu, sản xuất và đưa vào sử dụng như : ô tô, xe gắn
máy,
xe đạp điện, ...
Nếu như ở Việt Nam khoảng một hai thập niên trước đây, chiếc xe gắn máy
mang tính thiểu số được vị nể với tư cách là một sản phẩm tân kỳ, một tài sản
lớn
hơn là một phương tiện giao thông thì trong những năm gần đây, chiếc xe gắn máy
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ HUẾ
Khóa luận tốt nghiệp
SVTH: Nguyễn Thị Tùy Nhi – K45 QTKDTH 32
đã trở nên phổ biến hơn và hầu như trở thành phương tiện giao thông chính của
đại
đa số người dân. Hiện nay, có những gia đình có 1, 2 thậm chí có đến 3, 4 chiếc
xe
gắn máy trong nhà.
Theo số liệu từ Hiệp hội các nhà sản xuất xe máy Việt Nam (VAMM), trong
năm 2014, lượng tiêu thụ của 5 hãng lớn nhất thị trường là Honda, Yamaha, SYM,
Piaggio và Suzuki đạt hơn 2,71 triệu xe, giảm 3% so với năm 2013. Tuy nhiên, thị
trường xe máy năm 2014 cũng đã nhộn nhịp trở lại sau năm 2013 u ám. Sự xuất
hiện của những cái tên như Honda Wave RSX FI, Yamaha Sirius FI hay Piaggio
Vespa đều đã góp phần “hâm nóng” cả phân khúc xe ga và xe số. Mẫu xe Honda
được yêu thích nhất, và cũng là xe bán chạy nhất toàn thị trường xe máy Việt Nam
là Honda Airblade với doanh số hơn 368 nghìn chiếc, trên tổng doanh số 1,91
triệu
xe máy Honda. Honda Airblade ra mắt lần đầu năm 2007, trải qua nhiều lần thay
đổi kiểu dáng, động cơ và từng là mẫu xe "làm mưa làm gió" đến mức Head tăng
giá đến hơn 10 triệu đồng mà vẫn đông người mua xe. Đến nay Airblade vẫn là
chiếc xe máy được tiêu thụ nhiều nhất. Trong khi đó Yamaha dành nhiều tình cảm
cho Sirius. Elegant thống lĩnh doanh số của SYM, còn Vespa Primavera được các
khách hàng của Piaggio ưa chuộng hơn cả.
Việt Nam nằm trong khu vực có thị trường xe máy lớn nhất thế giới hiện nay.
Với lợi thế này, Việt Nam có khả năng xuất khẩu linh kiện và xe máy đạt kim
ngạch
cao trong tương lai. Xe máy "made in Vietnam" có thế xuất khẩu sang nhiều nước
khu vực trên thế giới. Thị trường xe máy hứa hẹn sẽ có những chuyển biến đáng kể
trong những năm tới.
1.2.2. Tổng quan thị trƣờng xe máy ở Tỉnh Thừa Thiên Huế
Thị trường xe máy trên địa bàn Tỉnh Thừa Thiên Huế những năm trở lại đây
khá sôi động, nhất là trên địa bàn thành phố Huế. Hiện nay có khá nhiều cửa hàng
chuyên bán, dịch vụ, sửa chữa xe máy các loại. Phần lớn các doanh nghiệp này
chưa
thực sự chú trọng đến các hoạt động bán hàng trong quá trình kinh doanh. Hình
thức bán được sử dụng nhiều nhất là tổ chức các đợt khuyến mãi trong các dịp lễ
lớn như 30/4 và 1/5, ngày Quốc Khánh 2/9, Tết Nguyên Đán…còn các hoạt động
khác hầu như không được quan tâm đúng mức. Chỉ có một số ít doanh nghiệp quan
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ HUẾ