Khóa luận tốt nghiệp: Kinh nghiệm M&A của Trung Quốc và bài học cho Việt Nam

1,247
730
115
23
CHƢƠNG HAI: ĐÁNH GIÁ KINH NGHIỆM HOẠT ĐỘNG
M&A CỦA TRUNG QUỐC.
1. GII THIU TH TRƢNG M&A TI TRUNG QUC.
1.1. Nguyên nhân hình thành M&A tại Trung Quốc.
Trước năm 1985, Trung Quốc không h cho phép bt c mt hình thc
M&A nào. Đến năm 1985, trước tình trạng làm ăn thua lỗ ca các SOE, chính
quyền các địa phương đưa ra phương pháp thử nghim: sáp nhập các SOE đang rơi
vào tình trạng khó khăn với các SOE đang có hoạt động kinh doanh hiu qu. Kết
qu hoạt động kinh doanh của các SOE này đạt được hiu qu n hẳn so vi
trước đây. Thành phố Baoding là nơi đầu tiên din ra v sáp nhp gia các SOE và
sau đó, làn sóng này đã lan ra nhiều tnh thành ph khác ti Trung Quốc. Đây
chính là những manh nha đầu tiên ca hoạt động M&A ti Trung Quc.
Tuy nhiên,ch đến đầu những năm 1990, khi nn kinh tế Trung Quc bắt đầu
phát trin sang một giai đoạn mới, làn sóng M&A đầu tiên ca Trung Quc mi
thc s bắt đầu khi các nhà đầu tư nước ngoài dần được cho phép thc hin các giao
dịch “tương tự” như M&A, tuy nhiên điều này ch áp dng vi nhng công ty
vốn đầu nước ngoài. Những thương vụ mua bán này được thc hin thông qua
vic mua bán c phiếu trên sàn giao dch chng khoán của các công ty đã được
niêm yết trên sàn, hoc có th mua t các nhà đầu tư nước ngoài khác.
T na những năm sau của những năm 1990 trở đi, chính ph Trung Quc
bắt đầu chính thc tạo điều kin phát trin cho các loại hình công ty phương tây
(western-style) và công ty c phn. Rt nhiu các doanh nghiệp nhà nước (SOEs)
được chuyển đổi thành nhng công ty c phần, điều này tạo cơ hội cho các nhà đầu
tư nước ngoài mua trc tiếp c phiếu ca nhng doanh nghiêp trên. Thc cht, hot
động mua li và sáp nhập được chính ph Trung Quc bắt đầu cho phép tiến hành là
do chính ph nước này muốn thông qua M&A để gim bt s ng các SOE làm
ăn thua lỗ. Sau khi công cuc cải cách được thc hin, bắt đầu t năm 1979, một s
ng ln các SOE của nước này rơi vào tình trng thua l không đủ sc cnh
tranh. Năm 1995, khoảng 45% các SOE có nguy cơ bị phá sn. Trong suốt giai đoạn
23 CHƢƠNG HAI: ĐÁNH GIÁ KINH NGHIỆM HOẠT ĐỘNG M&A CỦA TRUNG QUỐC. 1. GIỚI THIỆU THỊ TRƢỜNG M&A TẠI TRUNG QUỐC. 1.1. Nguyên nhân hình thành M&A tại Trung Quốc. Trước năm 1985, Trung Quốc không hề cho phép bất cứ một hình thức M&A nào. Đến năm 1985, trước tình trạng làm ăn thua lỗ của các SOE, chính quyền các địa phương đưa ra phương pháp thử nghiệm: sáp nhập các SOE đang rơi vào tình trạng khó khăn với các SOE đang có hoạt động kinh doanh hiệu quả. Kết quả là hoạt động kinh doanh của các SOE này đạt được hiệu quả hơn hẳn so với trước đây. Thành phố Baoding là nơi đầu tiên diễn ra vụ sáp nhập giữa các SOE và sau đó, làn sóng này đã lan ra nhiều tỉnh và thành phố khác tại Trung Quốc. Đây chính là những manh nha đầu tiên của hoạt động M&A tại Trung Quốc. Tuy nhiên,chỉ đến đầu những năm 1990, khi nền kinh tế Trung Quốc bắt đầu phát triển sang một giai đoạn mới, làn sóng M&A đầu tiên của Trung Quốc mới thực sự bắt đầu khi các nhà đầu tư nước ngoài dần được cho phép thực hiện các giao dịch “tương tự” như M&A, tuy nhiên điều này chỉ áp dụng với những công ty có vốn đầu tư nước ngoài. Những thương vụ mua bán này được thực hiện thông qua việc mua bán cổ phiếu trên sàn giao dịch chứng khoán của các công ty đã được niêm yết trên sàn, hoặc có thể mua từ các nhà đầu tư nước ngoài khác. Từ nửa những năm sau của những năm 1990 trở đi, chính phủ Trung Quốc bắt đầu chính thức tạo điều kiện phát triển cho các loại hình công ty phương tây (western-style) và công ty cổ phần. Rất nhiều các doanh nghiệp nhà nước (SOEs) được chuyển đổi thành những công ty cổ phần, điều này tạo cơ hội cho các nhà đầu tư nước ngoài mua trực tiếp cổ phiếu của những doanh nghiêp trên. Thực chất, hoạt động mua lại và sáp nhập được chính phủ Trung Quốc bắt đầu cho phép tiến hành là do chính phủ nước này muốn thông qua M&A để giảm bớt số lượng các SOE làm ăn thua lỗ. Sau khi công cuộc cải cách được thực hiện, bắt đầu từ năm 1979, một số lượng lớn các SOE của nước này rơi vào tình trạng thua lỗ vì không đủ sức cạnh tranh. Năm 1995, khoảng 45% các SOE có nguy cơ bị phá sản. Trong suốt giai đoạn
24
này, do tình trng phá sn ca các SOE không phi là mt s la chn thích hp nên
chính ph Trung Quốc đã tạo điều kiện cho các SOE có nguy phá sản được sáp
nhp vi các doanh nghip vng mạnh trong nươc hoặc nước ngoài, Tuy rng,
nhng cuc sáp nhp gia nhng cuc sáp nhp gia những công ty nước ngoài
đang tìm kiếm mt ch đứng trong nn kinh tế này những công ty trong nước
không phi ph biến vi tt c các SOE ca Trung Quốc, nhưng số v sáp nhp
ti Trung Quốc đã tăng đáng kể trong giai đoạn này. Chính sách này dường như đã
đem lại hiu qu ln, t năm 1995-2002, s ng SOE gim xung 46% trong khi
đó tổng li nhun tính bng Nhân dân t tăng 163,6% (số liu ca y ban hành
chính và giám sát tài sản Nhà nước TQ năm 2004)
Trước năm 1992, không một doanh nghiệp nhân nào ca Trung Quc
được tham gia vào th trưng M&A. Tt c nhng v chuyển nhượng ti sản đều
phi din ra trong khu vc kinh tế thuc s hữu Nhà nước. K t sau năm 1992,
ng hi ch nghĩa nước này đã cho phép việc nhân hóa các SOE. Cuc
hp th 15 ca Quc hi Trung Quc diễn ra vào năm 1997 đã coi sở hữu tư nhân là
mt thành phn quan trng ca nn kinh tế. T đó, đã rất nhiu các công ty nh
được hình thành phát triển thành công trên các lĩnh vực thích hợp. Hơn nữa,
chính sách nm gi các SOE ln gii phóng các SOE nh - tức tư nhân hoá
các SOE nh- đã khuyến khích các doanh nghip này tham gia vào hoạt động M&A.
Đây một công c kinh tế rt quan trng ca chính ph Trung Quc trong vic
chuyn di hình thc s hu t SOE sang các loi hình doanh nghiệp nhân, cổ
phàn, TNHH…
Như vậy, so vi nn th trưng Vit Nam, hoạt động M&A ti Trung Quc
đã diễn ra sớm hơn rất nhiu. Trong những năm cải cách, hoạt động mua li và sáp
nhập đã nhận được nhiu s quan tâm ca chính ph Trung Quc, t đó hoạt động
mua li giữa công ty nước ngoài công ty Trung Quốc cũng như hoạt động sáp
nhp gia các công ty Trung Quc mi có nhiều cơ hội phát triển. Năm 2002, cuộc
hp quc hi ln th 15 đã thông qua “các gợi ý cho kế hoch phát trin kinh tế
hội 5 năm lần th 15”, hỗ tr cho “việc s dng hp lý các khoản đầu tư quốc tế
th nghim thành công các hot dng M&A, các qu đầu tư, đầu tư chứng khoán và
24 này, do tình trạng phá sản của các SOE không phải là một sự lựa chọn thích hợp nên chính phủ Trung Quốc đã tạo điều kiện cho các SOE có nguy cơ phá sản được sáp nhập với các doanh nghiệp vững mạnh trong nươc hoặc nước ngoài, Tuy rằng, những cuộc sáp nhập giữa những cuộc sáp nhập giữa những công ty nước ngoài đang tìm kiếm một chỗ đứng trong nền kinh tế này và những công ty trong nước không phải là phổ biến với tất cả các SOE của Trung Quốc, nhưng số vụ sáp nhập tại Trung Quốc đã tăng đáng kể trong giai đoạn này. Chính sách này dường như đã đem lại hiệu quả lớn, từ năm 1995-2002, số lượng SOE giảm xuống 46% trong khi đó tổng lợi nhuận tính bằng Nhân dân tệ tăng 163,6% (số liệu của ủy ban hành chính và giám sát tài sản Nhà nước TQ năm 2004) Trước năm 1992, không một doanh nghiệp tư nhân nào của Trung Quốc được tham gia vào thị trường M&A. Tất cả những vụ chuyển nhượng tải sản đều phải diễn ra trong khu vực kinh tế thuộc sở hữu Nhà nước. Kể từ sau năm 1992, tư tưởng xã hội chủ nghĩa ở nước này đã cho phép việc tư nhân hóa các SOE. Cuộc họp thứ 15 của Quốc hội Trung Quốc diễn ra vào năm 1997 đã coi sở hữu tư nhân là một thành phần quan trọng của nền kinh tế. Từ đó, đã có rất nhiều các công ty nhỏ được hình thành và phát triển thành công trên các lĩnh vực thích hợp. Hơn nữa, chính sách nắm giữ các SOE lớn và giải phóng các SOE nhỏ - tức là tư nhân hoá các SOE nhỏ- đã khuyến khích các doanh nghiệp này tham gia vào hoạt động M&A. Đây là một công cụ kinh tế rất quan trọng của chính phủ Trung Quốc trong việc chuyển dổi hình thức sở hữu từ SOE sang các loại hình doanh nghiệp tư nhân, cổ phàn, TNHH… Như vậy, so với nền thị trưởng Việt Nam, hoạt động M&A tại Trung Quốc đã diễn ra sớm hơn rất nhiều. Trong những năm cải cách, hoạt động mua lại và sáp nhập đã nhận được nhiều sự quan tâm của chính phủ Trung Quốc, từ đó hoạt động mua lại giữa công ty nước ngoài và công ty Trung Quốc cũng như hoạt động sáp nhập giữa các công ty Trung Quốc mới có nhiều cơ hội phát triển. Năm 2002, cuộc họp quốc hội lần thứ 15 đã thông qua “các gợi ý cho kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm lần thứ 15”, hỗ trợ cho “việc sử dụng hợp lý các khoản đầu tư quốc tế và thử nghiệm thành công các hoạt dộng M&A, các quỹ đầu tư, đầu tư chứng khoán và
25
các phương thức khác trong vic s dng các khoản đầu tư nước ngoài dài hạn”.
Chính ph Trung Quốc đã kiên quyết ng h lập trường này.
1.2. Quá trình hình thành và phát triển M&A tại Trung Quốc.
Quá trình hình thành và phát trin M&A ti Trung Quc có th chia ra làm 3
giai đoạn như sau: Từ năm 1985-1996, 1996 2000, 2001- 2008.
1.2.1. Giai đoạn t năm 1985 - 1996 : giai đoạn bắt đầu xut hin hot
động M&A.
T 01/01/1985 đến 31/12/1996, ti Trung Quốc đã 180 thương vụ M&A
vi tng tr giá lên đến trên 5,3 t USD. Vốn đầu nước ngoài FDI chiếm 62%
trên tng tr giá giao dch trong những năm này.
Thương vụ sáp nhập đầu tiên ti Trung Quc din ra ti Baoding, mt thành
ph nh phía bc Trung Quốc vào năm 1985. Trong vụ giao dch này, chính
quyn Trung Quốc đã khuyến khích bốn SOE đang làm ăn thua lỗ sáp nhp vi các
SOE đang kinh doanh có hiệu qu ca thành ph. Cuc th nghiệm này đã gây một
bước thành công đột phá. Sau đó, đã rất nhiu thành ph khác cũng đi theo
hình này. Kết qu là, vào cuối năm 1988, hơn 1500 SOE được sáp nhp trên khp
c nước và dến năm 1989, đã có 2559 thương vụ din ra. Theo tp chí B.Zhang et al.
(1995), thành ph Baoding, li nhun sau sáp nhp của các công ty đã tăng lên
223% so vi li nhuận trước lúc sáp nhp. Tuy nhiên, nhiu v sáp nhp vn gp
phi tht bi do s thiếu hào hng ca những công ty kinh doanh đang hiu qu.
Trong suốt giai đoạn những năm 80, hầu hết các v sáp nhp ca doanh
nghip din ra trong cùng một lĩnh vực kinh doanh, cùng một địa phương, và cùng
mt hình thc s hữu. Cũng chỉ sau năm 1990, tại Trung Quc mi din ra các v
mua li và sáp nhp ca các doanh nghip hoạt động trong các ngành công nghip,
các địa phương, các hình thức s hữu khác nhau. Năm 1995, chính phủ Trung
Quốc đã ban hành một chính sách mi: nm gi các doanh nghiệp nhà nước ln và
gii phóng các doanh nghip nh. Chính sách này đã góp phần thúc dẩy quá trình tư
nhân hóa ti các SOE quy nh trong khi đó vẫn gi lại được các doanh nghip
nhà nước ch chốt dưỡi tm kim soát ca chính ph.
25 các phương thức khác trong việc sử dụng các khoản đầu tư nước ngoài dài hạn”. Chính phủ Trung Quốc đã kiên quyết ủng hộ lập trường này. 1.2. Quá trình hình thành và phát triển M&A tại Trung Quốc. Quá trình hình thành và phát triển M&A tại Trung Quốc có thể chia ra làm 3 giai đoạn như sau: Từ năm 1985-1996, 1996 – 2000, 2001- 2008. 1.2.1. Giai đoạn từ năm 1985 - 1996 : giai đoạn bắt đầu xuất hiện hoạt động M&A. Từ 01/01/1985 đến 31/12/1996, tại Trung Quốc đã có 180 thương vụ M&A với tổng trị giá lên đến trên 5,3 tỷ USD. Vốn đầu tư nước ngoài FDI chiếm 62% trên tổng trị giá giao dịch trong những năm này. Thương vụ sáp nhập đầu tiên tại Trung Quốc diễn ra tại Baoding, một thành phố nhỏ ở phía bắc Trung Quốc vào năm 1985. Trong vụ giao dịch này, chính quyền Trung Quốc đã khuyến khích bốn SOE đang làm ăn thua lỗ sáp nhập với các SOE đang kinh doanh có hiệu quả của thành phố. Cuộc thử nghiệm này đã gây một bước thành công đột phá. Sau đó, đã có rất nhiều thành phố khác cũng đi theo mô hình này. Kết quả là, vào cuối năm 1988, hơn 1500 SOE được sáp nhập trên khắp cả nước và dến năm 1989, đã có 2559 thương vụ diễn ra. Theo tạp chí B.Zhang et al. (1995), ở thành phố Baoding, lợi nhuận sau sáp nhập của các công ty đã tăng lên 223% so với lợi nhuận trước lúc sáp nhập. Tuy nhiên, nhiều vụ sáp nhập vẫn gặp phải thất bại do sự thiếu hào hứng của những công ty kinh doanh đang hiệu quả. Trong suốt giai đoạn những năm 80, hầu hết các vụ sáp nhập của doanh nghiệp diễn ra trong cùng một lĩnh vực kinh doanh, cùng một địa phương, và cùng một hình thức sở hữu. Cũng chỉ sau năm 1990, tại Trung Quốc mới diễn ra các vụ mua lại và sáp nhập của các doanh nghiệp hoạt động trong các ngành công nghiệp, các địa phương, và các hình thức sở hữu khác nhau. Năm 1995, chính phủ Trung Quốc đã ban hành một chính sách mới: nắm giữ các doanh nghiệp nhà nước lớn và giải phóng các doanh nghiệp nhỏ. Chính sách này đã góp phần thúc dẩy quá trình tư nhân hóa tại các SOE quy mô nhỏ trong khi đó vẫn giữ lại được các doanh nghiệp nhà nước chủ chốt dưỡi tầm kiểm soát của chính phủ.
26
K t cui những năm 80, chính phủ Trung Quốc đã tạo ra mt lat các v
M&A trong quá trình ci t các SOE. Sau đó, Quyết định ca chính ph năm 1994,
yêu cu 18 thành ph (sau này m rộng ra hơn 100 thành ph) tiến hành th nghim
vic tối ưu hóa cơ cấu vốn, đã thúc đẩy nhanh hoạt động sáp nhp.
Hoạt động M&A ti Trung Quc trong thời đầu những m 80 đều do
chính ph nước này lãnh đạo và định hướng theo các mục tiêu phi thương mại. Lúc
này, mục đích chính của chính ph là thoát khi các gánh nng h tr doanh nghip
kinh doanh thua l bng cách sáp nhp chúng vi các doanh nghip kinh doanh hiu
qu hơn. Nhưng đến giai đoạn sau, cui những năm 80, hoạt động M&A ti Trung
Quốc đã mang tính chủ động t phía các doanh nghip. Các doanh nghip t tiến
hành M&A thay vì do chính ph yêu cầu như trước đây. Mục đích kinh tế thun túy
của các thương vụ M&A lúc này là: giành quyn s hữu đất đai, mở rng sn xut,
hp lý hóa các chui sn phm, thâm nhp vào các th trưng mi hoặc để tiếp cn
vi ngun cung cấp đầu vào chính. Tuy nhiên, chính ph Trung Quc vn nm
quyn kim soát áp dng mt s tiêu chuẩn để xác định SOE nào được phép
tham gia th trường M&A. Trước hết, các thương vụ mua li và sáp nhp phải đựoc
thc hin dần để tránh shock cho nn kinh tế. Th hai, phi duy trì vic kim
soát các yếu t đầu ra có ý nghĩa quan trng đối vi nn kinh tế và an ninh quc gia.
Th ba, th trưng M&A cn phải được phát trin trên nn tng thc nghim (các
doanh nghip gặp khó khăn nhất s được ưu tiên tiến hành M&A), qua đó, chính
ph có th điều chnh các chính sách khi cn thiết.
Đồng thi vi vic tham gia th trưng M&A ca các doanh nghip SOE,
tham gia vào hoạt động M&A còn có ý nghĩa sốn còn với các công ty tư nhân Trung
Quốc. Sau năm 1990, chính ph Trung Quốc đã cho phép các doanh nghiệp nước
ngoài tham gia vào th trưng M&A ti nước này. Cuối năm 1996, 10 trong 59
nhà sn xut lp ô tô ln nht, 12 trong s 13 các công ty dược phm ln nht,
70% các nhà sn xut bia ca Trung Quốc đã nằm dưới quyn kim soát ca công
ty nước ngoài.
Nh s tham gia ca dòng vốn nước ngoài, hoạt động M&A ti Trung
Quốc đã đạt được những bước tiến đáng kể. T năm 1985 đến đầu năm 1990, tổng
26 Kể từ cuối những năm 80, chính phủ Trung Quốc đã tạo ra một lọat các vụ M&A trong quá trình cải tổ các SOE. Sau đó, Quyết định của chính phủ năm 1994, yêu cầu 18 thành phố (sau này mở rộng ra hơn 100 thành phố) tiến hành thử nghiệm việc tối ưu hóa cơ cấu vốn, đã thúc đẩy nhanh hoạt động sáp nhập. Hoạt động M&A tại Trung Quốc trong thời kì đầu những năm 80 đều do chính phủ nước này lãnh đạo và định hướng theo các mục tiêu phi thương mại. Lúc này, mục đích chính của chính phủ là thoát khỏi các gánh nặng hỗ trợ doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ bằng cách sáp nhập chúng với các doanh nghiệp kinh doanh hiệu quả hơn. Nhưng đến giai đoạn sau, cuối những năm 80, hoạt động M&A tại Trung Quốc đã mang tính chủ động từ phía các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp tự tiến hành M&A thay vì do chính phủ yêu cầu như trước đây. Mục đích kinh tế thuần túy của các thương vụ M&A lúc này là: giành quyền sở hữu đất đai, mở rộng sản xuất, hợp lý hóa các chuỗi sản phẩm, thâm nhập vào các thị trường mới hoặc để tiếp cận với nguồn cung cấp đầu vào chính. Tuy nhiên, chính phủ Trung Quốc vẫn nắm quyền kiểm soát và áp dụng một số tiêu chuẩn để xác định SOE nào được phép tham gia thị trường M&A. Trước hết, các thương vụ mua lại và sáp nhập phải đựoc thực hiện dần để tránh cú shock cho nền kinh tế. Thứ hai, phải duy trì việc kiểm soát các yếu tố đầu ra có ý nghĩa quan trọng đối với nền kinh tế và an ninh quốc gia. Thứ ba, thị trường M&A cần phải được phát triển trên nền tảng thực nghiệm (các doanh nghiệp gặp khó khăn nhất sẽ được ưu tiên tiến hành M&A), qua đó, chính phủ có thể điều chỉnh các chính sách khi cần thiết. Đồng thời với việc tham gia thị trường M&A của các doanh nghiệp SOE, tham gia vào hoạt động M&A còn có ý nghĩa sốn còn với các công ty tư nhân Trung Quốc. Sau năm 1990, chính phủ Trung Quốc đã cho phép các doanh nghiệp nước ngoài tham gia vào thị trường M&A tại nước này. Cuối năm 1996, 10 trong sô 59 nhà sản xuất lốp ô tô lớn nhất, 12 trong số 13 các công ty dược phẩm lớn nhất, và 70% các nhà sản xuất bia của Trung Quốc đã nằm dưới quyền kiểm soát của công ty nước ngoài. Nhờ có sự tham gia của dòng vốn nước ngoài, hoạt động M&A tại Trung Quốc đã đạt được những bước tiến đáng kể. Từ năm 1985 đến đầu năm 1990, tổng
27
giá tr giao dịch các thương vụ M&A cua Trung Quc ch là 32,1 triệu USD, nhưng
ch trong vòng sáu năm từ 1990 đến 1996, tng giá tr giao dịch M&A đã đạt được
con s đáng kinh ngạc: 5,27 t USD. Hơn na, trong s đó, n 26% trị giá giao
dch M&A trên tng s tr giá giao dch t 1990-1996 lại được thc hiện trong năm
1996. Xu hướng phát trin ca th trưng M&A tiếp tc phát trin cùng vi s phát
trin ca nn kinh tế Trung Quốc. Trong giai đon này, phn lớn các thương vụ
M&A din ra trong khu vc sn xut (50%), tiếp đó là khu vực tài chính (18,9%) và
dch v (17,7%).
Hình 2.1. T trng phân b M&A trên từng lĩnh vực
Ngun: Báo cáo B thương mại Trung Quc.
M&A ti khu vc sn xuất được các nhà đầu như Hoa Kỳ, Singapore, Hng
Kông ưa thích.Cụ th t l phần trăm đầu tư vào khu vực sn xut của các nước trên
như sau: các công ty Hoa Kỳ dành 64,8% trên tng khối lượng giao dch M&A vào
Trung quc khu vc sn xut, công ty Hng Kông dành 31,4% , Singapore dành
58,6% các doanh nghiệp trong nước dành 40%. Trong khi đó, các công ty của
Anh lại ưa thích khu vực dch v (dành 50,5% đầu M&A cho khu vực này)
các công ty ca Singapore dành 41,2% trên tng s khối lượng đầu tư để đầu tư vào
khu vc tài chính.
Như vậy th nói, làn sóng M&A đầu tiên xut hin tai Trung Quốc đã
thc s là mt cú thúc quan trọng đối vi s phát trin ca th trưng M&A sau này
ti Trung Quc nói riêng và nn kinh tế Trung Quc nói chung.
27 giá trị giao dịch các thương vụ M&A cua Trung Quốc chỉ là 32,1 triệu USD, nhưng chỉ trong vòng sáu năm từ 1990 đến 1996, tổng giá trị giao dịch M&A đã đạt được con số đáng kinh ngạc: 5,27 tỷ USD. Hơn nữa, trong số đó, hơn 26% trị giá giao dịch M&A trên tổng số trị giá giao dịch từ 1990-1996 lại được thực hiện trong năm 1996. Xu hướng phát triển của thị trường M&A tiếp tục phát triển cùng với sự phát triển của nền kinh tế Trung Quốc. Trong giai đoạn này, phần lớn các thương vụ M&A diễn ra trong khu vực sản xuất (50%), tiếp đó là khu vực tài chính (18,9%) và dịch vụ (17,7%). Hình 2.1. Tỷ trọng phân bổ M&A trên từng lĩnh vực Nguồn: Báo cáo Bộ thương mại Trung Quốc. M&A tại khu vực sản xuất được các nhà đầu tư như Hoa Kỳ, Singapore, Hồng Kông ưa thích.Cụ thể tỷ lệ phần trăm đầu tư vào khu vực sản xuất của các nước trên như sau: các công ty Hoa Kỳ dành 64,8% trên tổng khối lượng giao dịch M&A vào Trung quốc ở khu vực sản xuất, công ty Hồng Kông dành 31,4% , Singapore dành 58,6% và các doanh nghiệp trong nước dành 40%. Trong khi đó, các công ty của Anh lại ưa thích khu vực dịch vụ (dành 50,5% đầu tư M&A cho khu vực này) và các công ty của Singapore dành 41,2% trên tổng số khối lượng đầu tư để đầu tư vào khu vực tài chính. Như vậy có thể nói, làn sóng M&A đầu tiên xuất hiện tai Trung Quốc đã thực sự là một cú thúc quan trọng đối với sự phát triển của thị trường M&A sau này tại Trung Quốc nói riêng và nền kinh tế Trung Quốc nói chung.
28
1.2.2. Giai đoạn t năm 1997 đến 2000: giai đoạn M&A ca nhng công
ty được niêm yết.
Th trưng chng khoán Trung Quốc hình thành đã tạo một sân chơi mới cho
hoạt động M&A. Tuy nhiên, th trưng chng khoán ti Trung Quc có nhiều điểm
rt khác so vi th trưng chng khoán ti các quc gia khác. K t khi thành lp,
chính ph Trung Quốc đã xây dựng nên mt h thng th trường kép” (dual-track
system) vi nhng c phiếu không th mua bán chuyển nhượng và nhng c phiếu
th mua bán chuyển nhượng trong những công ty đã được niêm yết trên sàn.
Nhng c phiếu không thế mua bán được s hu bởi các quan chính phủ
(government agencies) mt trong nhng c đông ln nm quyn kim soát công
ty. Mt trong những điểm quan trng ca h thng “thị trường kép” chính xu
hướng c phn hóa nhng doanh nghiệp nhà nước trong sut gn chục năm qua trên
th trưng chng khoán.
Năm 1994, tập đoàn Baoan có trụ s ti Thm Quyến đã tiến hành chiến dch
mua c phn ca tập đoàn Yanzhong trụ s chính Thưng Hải, đánh dấu
thương vụ M&A đầu tiên giữa các công ty đại chúng. Nhng hoạt động M&A như
trên có nhiều ý nghĩa kinh tế đối với các công ty đã được niêm yết hơn là đối vi các
công ty chưa đưc niêm yết. So sánh đối với các công ty chưa được niêm yết, đặc bit là
các SOE, các công ty được đã được niêm yết có mt s đặc điểm kinh tế sau:
- Tt c các công ty đã được niêm yết trên sàn đều tuân th nghiêm ngt các
chun mc kế toán được chp nhn chung trên toàn thế gii.
- Phn lớn các công ty đó được tái cu trúc t các SOE và đang cố gng theo
đuổi li nhun bằng cách tuân theo chế th trường, điều này hoàn toàn khác so
vi các SOE.
- Tt c các công ty được niêm yết đều các công ty c phn. H thng ban
qun tr ca các công ty khá hoàn ho và ging nhau. C phiếu được chia thành ba
loi: trái phiêu, c phiếu ưu đãi và cổ phiếu ph thông. Đối vi phn ln các công ty,
trái phiếm chiếm phn ln trong h thng s hu và tr s qun lý tài sản nhà nước
(The State owned Asset Management Institute or The Bureau of State-owned
Asset Management (BSAM)) nm gi phn này. Các doanh nghiệp nhà nước,
28 1.2.2. Giai đoạn từ năm 1997 đến 2000: giai đoạn M&A của những công ty được niêm yết. Thị trường chứng khoán Trung Quốc hình thành đã tạo một sân chơi mới cho hoạt động M&A. Tuy nhiên, thị trường chứng khoán tại Trung Quốc có nhiều điểm rất khác so với thị trường chứng khoán tại các quốc gia khác. Kể từ khi thành lập, chính phủ Trung Quốc đã xây dựng nên một hệ thống thị trường “ kép” (dual-track system) với những cổ phiếu không thể mua bán chuyển nhượng và những cổ phiếu có thể mua bán chuyển nhượng trong những công ty đã được niêm yết trên sàn. Những cổ phiếu không thế mua bán được sở hữu bởi các cơ quan chính phủ (government agencies) – một trong những cổ đông lớn nắm quyền kiểm soát công ty. Một trong những điểm quan trọng của hệ thống “thị trường kép” chính là xu hướng cổ phần hóa những doanh nghiệp nhà nước trong suốt gần chục năm qua trên thị trường chứng khoán. Năm 1994, tập đoàn Baoan có trụ sở tại Thẩm Quyến đã tiến hành chiến dịch mua cổ phần của tập đoàn Yanzhong có trụ sở chính ở Thượng Hải, đánh dấu thương vụ M&A đầu tiên giữa các công ty đại chúng. Những hoạt động M&A như trên có nhiều ý nghĩa kinh tế đối với các công ty đã được niêm yết hơn là đối với các công ty chưa được niêm yết. So sánh đối với các công ty chưa được niêm yết, đặc biệt là các SOE, các công ty được đã được niêm yết có một số đặc điểm kinh tế sau: - Tất cả các công ty đã được niêm yết trên sàn đều tuân thủ nghiêm ngặt các chuẩn mực kế toán được chấp nhận chung trên toàn thế giới. - Phần lớn các công ty đó được tái cấu trúc từ các SOE và đang cố gắng theo đuổi lợi nhuận bằng cách tuân theo cơ chế thị trường, điều này hoàn toàn khác so với các SOE. - Tất cả các công ty được niêm yết đều là các công ty cổ phần. Hệ thống ban quản trị của các công ty khá hoàn hảo và giống nhau. Cổ phiếu được chia thành ba loại: trái phiêu, cổ phiếu ưu đãi và cổ phiếu phổ thông. Đối với phần lớn các công ty, trái phiếm chiếm phần lớn trong hệ thống sở hữu và trụ sở quản lý tài sản nhà nước (The State – owned Asset Management Institute or The Bureau of State-owned Asset Management (BSAM)) nắm giữ phần này. Các doanh nghiệp nhà nước,
29
doanh nghip c phần khác và các nhà đầu tư nhân nước ngoài thường nm gi
c phiếu ưu đãi. Có một điểm đáng chú ý là, cả hai loi trái phiếu và c phiếu ưu đã
thì không được lưu hành trên thị trưng chng khoán. S trao đổi ca nhng loi c
phiếu này ch được thc hin thông qua hình thức thương lượng, ch duy nht c
phiếu ph thông được lưu hành trên thị trưng chng khoán.
- Phn ln các doanh nghip niêm yết đều hoạt động kinh doanh hiu qu
đang những công ty dẫn đầu trong những lĩnh vực ca mình hoc ti nhng
thành ph tr s công ty. Trong giai đoạn này, bi th trưng chng khoán Trung
Quc vẫn đang trong giai đoạn th nghiệm, do đó, việc niêm yết mt công ty trên
sàn là rt khắt khe, thường phi là những công ty đạt được kinh doanh hiu qu, cu
trúc hoạt động tt, tình hình tài chính minh bch.. Nguyên tc niêm yết khắt khe đã
to ra những “vỏ” nguồn vn quý giá (precious resource shell) cho nhng công ty
đang cần ngun vn lớn để tài tr cho hoạt động kinh doanh ca mình.
- Chính ph Trung Quc vn nhng ảnh ng rt ln đến hoạt động ca
nhng công ty này, không ch ảnh hưởng trc tiếp qua chính sách công nghip,
chính sách thuế, và nguyên tc kế toán, mà còn gây ảnh hưởng gián tiếp vi vai trò
mt trong nhng c đông lớn nht trong hu hết công ty đang được niêm yết.
Chính ph Trung Quc coi niêm yết là một phương thc hiu qu đê thành lập nên
một cơ chế doanh nghip mi và gim thiu các khon n ca SOE. T góc nhìn vĩ
mô, chính ph nước này cũng hy vọng rng lực đẩy nn kinh tế th trưng th
trưng chng khoán th giúp cho vic phân ph ngun vn hiu qu hơn. Bời
vậy, cái “bóng” của chính ph Trung Quc bao ph khp mọi nơi trên th trưng
chng khoán.
Bên cạnh đó, đối với các công ty chưa được niêm yết, mt s công ty đã
chn hình thc mua lại các công ty đã được niêm yết để tiếp cn th trưng vn.
Điều này nghĩa là một công ty chưa được niêm yết s tr thành mt công ty đại
chúng khi công ty này mua một công ty khác đã được niêm yết sn trên th trưng
chng khoán.
Mt s kiện cũng đáng chú ý trong thời gian này là s hình thành các công ty
qun lý tài sn (Asset Management Companies AMC) liên kết vi bn ngân hàng
lớn đã mở ra mt hình thc mới để cấu li doanh nghip. Hàng nghìn các SOE
Trung Quốc đã phải da vào s h tr tài chính t chính ph thông qua chính sách
cho vay t bốn ngân hàng nhà nước. Vào cui những năm 80 xuyên sut nhng
29 doanh nghiệp cổ phần khác và các nhà đầu tư tư nhân nước ngoài thường nắm giữ cổ phiếu ưu đãi. Có một điểm đáng chú ý là, cả hai loại trái phiếu và cổ phiếu ưu đã thì không được lưu hành trên thị trường chứng khoán. Sự trao đổi của những loại cổ phiếu này chỉ được thực hiện thông qua hình thức thương lượng, chỉ duy nhất cổ phiếu phổ thông được lưu hành trên thị trường chứng khoán. - Phần lớn các doanh nghiệp niêm yết đều có hoạt động kinh doanh hiệu quả và đang là những công ty dẫn đầu trong những lĩnh vực của mình hoặc tại những thành phố trụ sở công ty. Trong giai đoạn này, bởi thị trường chứng khoán Trung Quốc vẫn đang trong giai đoạn thử nghiệm, do đó, việc niêm yết một công ty trên sàn là rất khắt khe, thường phải là những công ty đạt được kinh doanh hiệu quả, cấu trúc hoạt động tốt, tình hình tài chính minh bạch.. Nguyên tắc niêm yết khắt khe đã tạo ra những “vỏ” nguồn vốn quý giá (precious resource shell) cho những công ty đang cần nguồn vốn lớn để tài trợ cho hoạt động kinh doanh của mình. - Chính phủ Trung Quốc vẫn có những ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của những công ty này, không chỉ ảnh hưởng trực tiếp qua chính sách công nghiệp, chính sách thuế, và nguyên tắc kế toán, mà còn gây ảnh hưởng gián tiếp với vai trò là một trong những cổ đông lớn nhất trong hầu hết công ty đang được niêm yết. Chính phủ Trung Quốc coi niêm yết là một phương thức hiệu quả đê thành lập nên một cơ chế doanh nghiệp mới và giảm thiểu các khoản nợ của SOE. Từ góc nhìn vĩ mô, chính phủ nước này cũng hy vọng rằng lực đẩy nền kinh tế thị trường và thị trường chứng khoán có thể giúp cho việc phân phổ nguồn vốn hiệu quả hơn. Bời vậy, cái “bóng” của chính phủ Trung Quốc bao phủ khắp mọi nơi trên thị trường chứng khoán. Bên cạnh đó, đối với các công ty chưa được niêm yết, một số công ty đã chọn hình thức mua lại các công ty đã được niêm yết để tiếp cận thị trường vốn. Điều này có nghĩa là một công ty chưa được niêm yết sẽ trở thành một công ty đại chúng khi công ty này mua một công ty khác đã được niêm yết sẵn trên thị trường chứng khoán. Một sự kiện cũng đáng chú ý trong thời gian này là sự hình thành các công ty quản lý tài sản (Asset Management Companies – AMC) liên kết với bốn ngân hàng lớn đã mở ra một hình thức mới để cơ cấu lại doanh nghiệp. Hàng nghìn các SOE ở Trung Quốc đã phải dựa vào sự hỗ trợ tài chính từ chính phủ thông qua chính sách cho vay từ bốn ngân hàng nhà nước. Vào cuối những năm 80 và xuyên suốt những
30
năm 90, chính sách cho vay được áp dng nhiều để vc dy các SOE kém cnh
tranh. Các khon tín dng này thậm chí được gia hạn để trang tri cho các khon n ,
thua l ca công ty, tiền lương cho nhân công và các quỹ hưu trí của công ty. Do đó,
vic mt s ng ln các SOE không có kh năng thanh toán được các khon vay
cho các ngân hàng nhà nước dẫn đến s xut hin s ng ln các khon cho vay
xu (non- performed loans-NPLs). Sau này, chính ph Trung Quc nhn ra tình
hình này kéo dài s tác dng xu ti nn kinh tế nói chung th trưng tài chính
nói riêng. Do đó, năm 1999, chính phủ Trung Quốc đã quyết đinh thành lập bn
công ty qun tài sn là: Huarong AMC, Cinda AMC, Great Wall AMC, China
Orient AMC và yêu cu bốn ngân hàng nhà nước trên chuyến các khon n xu cho
bn công ty này. Các công ty AMC bắt đầu hoạt động chính ca h bng vic
chuyển nhượng các khon n sang c phn. Mục đích cuối cùng ca các AMC này
là phc hồi các SOE làm ăn thua lỗ bng mọi cách thông qua các phương thức tái cơ
công ty bao gm c hình thc mua li và sáp nhp và thm chí là bán c phn hoc
cho niêm yết c phiếu ca nhng doanh nghip này.
Như vậy, trong giai đoạn này, chính ph Trung Quc dã có nhng bin pháp
nhất định nhằm thúc đẩy th trưng chứng khoán, giúp tái cơ cấu li các SOE. Điều
này là mt trong nhng dng lực chính để th trường M&A phát trin n r trong thi
gian này. Các s liu thống kê đã cho thy tng s ng tài sản liên quan đến các v sáp
nhp Trung Quc năm 1997 gp 100 ln so với giai đoạn những năm 80.
Hình 2.2. Hoạt động M&A ti Trung Quc t năm 1997-1999
Ngun: Báo cáo B thương mại Trung Quc.
30 năm 90, chính sách cho vay được áp dụng nhiều để vực dậy các SOE kém cạnh tranh. Các khoản tín dụng này thậm chí được gia hạn để trang trải cho các khoản nợ , thua lỗ của công ty, tiền lương cho nhân công và các quỹ hưu trí của công ty. Do đó, việc một số lượng lớn các SOE không có khả năng thanh toán được các khoản vay cho các ngân hàng nhà nước dẫn đến sự xuất hiện số lượng lớn các khoản cho vay xấu (non- performed loans-NPLs). Sau này, chính phủ Trung Quốc nhận ra tình hình này kéo dài sẽ tác dộng xấu tới nền kinh tế nói chung và thị trường tài chính nói riêng. Do đó, năm 1999, chính phủ Trung Quốc đã quyết đinh thành lập bốn công ty quản lý tài sản là: Huarong AMC, Cinda AMC, Great Wall AMC, China Orient AMC và yêu cầu bốn ngân hàng nhà nước trên chuyến các khoản nợ xấu cho bốn công ty này. Các công ty AMC bắt đầu hoạt động chính của họ bằng việc chuyển nhượng các khoản nợ sang cổ phần. Mục đích cuối cùng của các AMC này là phục hồi các SOE làm ăn thua lỗ bằng mọi cách thông qua các phương thức tái cơ công ty bao gồm cả hình thức mua lại và sáp nhập và thậm chí là bán cổ phần hoặc cho niêm yết cổ phiếu của những doanh nghiệp này. Như vậy, trong giai đoạn này, chính phủ Trung Quốc dã có những biện pháp nhất định nhằm thúc đẩy thị trường chứng khoán, giúp tái cơ cấu lại các SOE. Điều này là một trong những dộng lực chính để thị trường M&A phát triển nở rộ trong thời gian này. Các số liệu thống kê đã cho thấy tổng số lượng tài sản liên quan đến các vụ sáp nhập ở Trung Quốc năm 1997 gấp 100 lần so với giai đoạn những năm 80. Hình 2.2. Hoạt động M&A tại Trung Quốc từ năm 1997-1999 Nguồn: Báo cáo Bộ thương mại Trung Quốc.
31
Hình trên đã cho thấy, năm 1997, 210 công ty được niêm yết ti Trung Quốc đã tiến
hành 270 v M&A. Năm 1998, số v M&A đã tăng lên 624 với s góp mt ca 389
công ty niêm yết - mt na trên tng s công ty được niêm yết thi k này. Năm
1999, s v M&A đã tăng tăng lên tới 1012 vụ, tăng 80% so với năm 1998. Có thể
nói, hoạt động mua li sáp nhập đã trở thành một đặc điểm ni bt ca th
trưng chứng khoán đang ni lên ca Trung Quc.
1.2.3. Giai đoạn 2001- 2008: giai đoạn hi nhp ca nn kinh tế Trung
Quc.
Năm 2001, Trung Quốc chính thc gia nhp t chức Thương mi thế gii-
WTO, đánh dấu một bước ngot trong lch s phát trỉển của đất nước này. T đây,
nn kinh tế Trung Quc s là một “sân chơi “ bình đẳng cho c doanh nghip trong
nước các nhà đầu nước ngoài. Trong giai đoạn này,s ợng các thương vụ
M&A ti Trung Quốc đã tăng lên với tc d rt nhanh,Trung Quc tr thành mt
trong nhng quc gia trên thế gii thu hút được nhiu vốn đầu nước ngoài nht
và là mt th trường ha hn cho các v M&A. Hoạt động mua li và sáp nhp ti
Trung Quc trong thi k này có mt s điểm ni bật như sau:
Đặc điểm th nht: Trung Quốc thu hút được lượng FDI ln. K t sau khi
gia nhp WTO, Trung Quốc đã nhận thức được tm quan trọng đặc bit ca vic tn
dng vốn đầu FDI. Do đó, trong kế hoạch 5 năm lần th i (2001-2005) v
vấn đề “kinh tế quc gia và s phát trin xã hi Trung Quốc”, quốc hi Trung Quc
đã quyết định ni lỏng các quy định đối với các nhà đầu nước ngòai, cho phép
các nhà đầu tư tiến hành các thương vụ M&A liên quan đến tài sản, đặc bit khuyến
khích h tham gia mua li sáp nhp với các SOE để góp phn ci t, nâng cao
kh năng cạnh tranh ca nhng doanh nghip này. Cùng vi s m ca nn kinh tế,
khuyến khich thu hút đầu tư nước ngoài, tc d phát trin rt nhanh ca nn kinh tế
s nhn thc ca các doanh nghip Trung Quc v vấn đề nâng cao v thế ca
mình thông qua hoạt động mua li sáp nhp với các công ty trong nước cũng như
công ty nước ngoài, s ợng các thương vụ M&A ti Trung Quốc đã tăng lên đáng
k t năm 2001 đến hiện nay, đặc bit, k t sau năm 2004
31 Hình trên đã cho thấy, năm 1997, 210 công ty được niêm yết tại Trung Quốc đã tiến hành 270 vụ M&A. Năm 1998, số vụ M&A đã tăng lên 624 với sự góp mặt của 389 công ty niêm yết - một nửa trên tổng số công ty được niêm yết thời kỳ này. Năm 1999, số vụ M&A đã tăng tăng lên tới 1012 vụ, tăng 80% so với năm 1998. Có thể nói, hoạt động mua lại và sáp nhập đã trở thành một đặc điểm nổi bật của thị trường chứng khoán đang nổi lên của Trung Quốc. 1.2.3. Giai đoạn 2001- 2008: giai đoạn hội nhập của nền kinh tế Trung Quốc. Năm 2001, Trung Quốc chính thức gia nhập tổ chức Thương mại thế giới- WTO, đánh dấu một bước ngoặt trong lịch sử phát trỉển của đất nước này. Từ đây, nền kinh tế Trung Quốc sẽ là một “sân chơi “ bình đẳng cho cả doanh nghiệp trong nước và các nhà đầu tư nước ngoài. Trong giai đoạn này,số lượng các thương vụ M&A tại Trung Quốc đã tăng lên với tốc dộ rất nhanh,Trung Quốc trở thành một trong những quốc gia trên thế giới thu hút được nhiều vốn đầu tư nước ngoài nhất và là một thị trường hứa hẹn cho các vụ M&A. Hoạt động mua lại và sáp nhập tại Trung Quốc trong thời kỳ này có một số điểm nổi bật như sau: Đặc điểm thứ nhất: Trung Quốc thu hút được lượng FDI lớn. Kể từ sau khi gia nhập WTO, Trung Quốc đã nhận thức được tầm quan trọng đặc biệt của việc tận dụng vốn đầu tư FDI. Do đó, trong kế hoạch 5 năm lần thứ mười (2001-2005) về vấn đề “kinh tế quốc gia và sự phát triển xã hội Trung Quốc”, quốc hội Trung Quốc đã quyết định nới lỏng các quy định đối với các nhà đầu tư nước ngòai, cho phép các nhà đầu tư tiến hành các thương vụ M&A liên quan đến tài sản, đặc biệt khuyến khích họ tham gia mua lại và sáp nhập với các SOE để góp phần cải tổ, nâng cao khả năng cạnh tranh của những doanh nghiệp này. Cùng với sự mở cửa nền kinh tế, khuyến khich thu hút đầu tư nước ngoài, tốc dộ phát triển rất nhanh của nền kinh tế và sự nhận thức của các doanh nghiệp Trung Quốc về vấn đề nâng cao vị thế của mình thông qua hoạt động mua lại sáp nhập với các công ty trong nước cũng như công ty nước ngoài, số lượng các thương vụ M&A tại Trung Quốc đã tăng lên đáng kể từ năm 2001 đến hiện nay, đặc biệt, kể từ sau năm 2004
32
Bng 2.1. Quy mô giao dch M&A ti Trung Quc t năm 2002-2005
Năm
S ợng thƣơng vụ M&A
Tng tr giá (Đv: Tỷ Nhân dân
t)
2002
951
77.78
2003
934
92.31
2004
1541
211.69
2005
1219
132.32
Ngun: Trung Tâm nghiên cu kinh tế Trung Quc-Đại hc Bc Kinh
Tng giá tr giao dch ca M&A ti Trung Quốc năm 2004-2005 chiếm 1%
GDP Trung Quc.
Bng 2.2.Tm quan trng ca hoạt động M&A ti nn kinh tế
(Đv:T Nhân dân t)
2004
2005
Tốc độ tăng
trƣng
Tng giá tr giao
dch M&A
211.69
132.32
-37.5%
GDP
13651.5
18232.1
9.9%
Tng tr giá giao
dch M&A/GDP
1.55
0.73
-52.9%
Ngun:Trung tâm nghiên cu kinh tế Trung Quc-Đại hc Bc Kinh.
Năm 2004, 611 thương vụ M&A được tiến hành vi s tham gia ca 499 công ty,
tng giá tr giao dịch đạt 211 t Nhân dân t, gp dôi so vi tr giá giao dịch năm
2003 và gp ba ln tr giá giao dịch năm 2002. Riêng năm 2005, có tới 578 công ty
tham gia hot dng M&A vi tng s ng 752 v .
Sang giai đoạn những năm gần đây, năm 2006, s v M&A ti Trung Quc gim
đôi chút nhưng đến năm 2007, đặc biệt giai đoạn cuối năm 07, số thương vụ M&A
ca Trung Quốc đã được phc hi và tiếp tục tăng đến năm 2008.
32 Bảng 2.1. Quy mô giao dịch M&A tại Trung Quốc từ năm 2002-2005 Năm Số lƣợng thƣơng vụ M&A Tổng trị giá (Đv: Tỷ Nhân dân tệ) 2002 951 77.78 2003 934 92.31 2004 1541 211.69 2005 1219 132.32 Nguồn: Trung Tâm nghiên cứu kinh tế Trung Quốc-Đại học Bắc Kinh Tổng giá trị giao dịch của M&A tại Trung Quốc năm 2004-2005 chiếm 1% GDP Trung Quốc. Bảng 2.2.Tầm quan trọng của hoạt động M&A tới nền kinh tế (Đv:Tỷ Nhân dân tệ) 2004 2005 Tốc độ tăng trƣởng Tổng giá trị giao dịch M&A 211.69 132.32 -37.5% GDP 13651.5 18232.1 9.9% Tổng trị giá giao dịch M&A/GDP 1.55 0.73 -52.9% Nguồn:Trung tâm nghiên cứu kinh tế Trung Quốc-Đại học Bắc Kinh. Năm 2004, 611 thương vụ M&A được tiến hành với sự tham gia của 499 công ty, tổng giá trị giao dịch đạt 211 tỷ Nhân dân tệ, gấp dôi so với trị giá giao dịch năm 2003 và gấp ba lần trị giá giao dịch năm 2002. Riêng năm 2005, có tới 578 công ty tham gia hoạt dộng M&A với tổng số lượng 752 vụ . Sang giai đoạn những năm gần đây, năm 2006, số vụ M&A tại Trung Quốc có giảm đôi chút nhưng đến năm 2007, đặc biệt giai đoạn cuối năm 07, số thương vụ M&A của Trung Quốc đã được phục hồi và tiếp tục tăng đến năm 2008.