Khóa luận tốt nghiệp: Kinh nghiệm M&A của Trung Quốc và bài học cho Việt Nam
1,247
730
115
23
CHƢƠNG HAI: ĐÁNH GIÁ KINH NGHIỆM HOẠT ĐỘNG
M&A CỦA TRUNG QUỐC.
1. GIỚI THIỆU THỊ TRƢỜNG M&A TẠI TRUNG QUỐC.
1.1. Nguyên nhân hình thành M&A tại Trung Quốc.
Trước năm 1985, Trung Quốc không hề cho phép bất cứ một hình thức
M&A nào. Đến năm 1985, trước tình trạng làm ăn thua lỗ của các SOE, chính
quyền các địa phương đưa ra phương pháp thử nghiệm: sáp nhập các SOE đang rơi
vào tình trạng khó khăn với các SOE đang có hoạt động kinh doanh hiệu quả. Kết
quả là hoạt động kinh doanh của các SOE này đạt được hiệu quả hơn hẳn so với
trước đây. Thành phố Baoding là nơi đầu tiên diễn ra vụ sáp nhập giữa các SOE và
sau đó, làn sóng này đã lan ra nhiều tỉnh và thành phố khác tại Trung Quốc. Đây
chính là những manh nha đầu tiên của hoạt động M&A tại Trung Quốc.
Tuy nhiên,chỉ đến đầu những năm 1990, khi nền kinh tế Trung Quốc bắt đầu
phát triển sang một giai đoạn mới, làn sóng M&A đầu tiên của Trung Quốc mới
thực sự bắt đầu khi các nhà đầu tư nước ngoài dần được cho phép thực hiện các
giao
dịch “tương tự” như M&A, tuy nhiên điều này chỉ áp dụng với những công ty có
vốn đầu tư nước ngoài. Những thương vụ mua bán này được thực hiện thông qua
việc mua bán cổ phiếu trên sàn giao dịch chứng khoán của các công ty đã được
niêm yết trên sàn, hoặc có thể mua từ các nhà đầu tư nước ngoài khác.
Từ nửa những năm sau của những năm 1990 trở đi, chính phủ Trung Quốc
bắt đầu chính thức tạo điều kiện phát triển cho các loại hình công ty phương tây
(western-style) và công ty cổ phần. Rất nhiều các doanh nghiệp nhà nước (SOEs)
được chuyển đổi thành những công ty cổ phần, điều này tạo cơ hội cho các nhà đầu
tư nước ngoài mua trực tiếp cổ phiếu của những doanh nghiêp trên. Thực chất,
hoạt
động mua lại và sáp nhập được chính phủ Trung Quốc bắt đầu cho phép tiến hành là
do chính phủ nước này muốn thông qua M&A để giảm bớt số lượng các SOE làm
ăn thua lỗ. Sau khi công cuộc cải cách được thực hiện, bắt đầu từ năm 1979, một
số
lượng lớn các SOE của nước này rơi vào tình trạng thua lỗ vì không đủ sức cạnh
tranh. Năm 1995, khoảng 45% các SOE có nguy cơ bị phá sản. Trong suốt giai đoạn
24
này, do tình trạng phá sản của các SOE không phải là một sự lựa chọn thích hợp
nên
chính phủ Trung Quốc đã tạo điều kiện cho các SOE có nguy cơ phá sản được sáp
nhập với các doanh nghiệp vững mạnh trong nươc hoặc nước ngoài, Tuy rằng,
những cuộc sáp nhập giữa những cuộc sáp nhập giữa những công ty nước ngoài
đang tìm kiếm một chỗ đứng trong nền kinh tế này và những công ty trong nước
không phải là phổ biến với tất cả các SOE của Trung Quốc, nhưng số vụ sáp nhập
tại Trung Quốc đã tăng đáng kể trong giai đoạn này. Chính sách này dường như đã
đem lại hiệu quả lớn, từ năm 1995-2002, số lượng SOE giảm xuống 46% trong khi
đó tổng lợi nhuận tính bằng Nhân dân tệ tăng 163,6% (số liệu của ủy ban hành
chính và giám sát tài sản Nhà nước TQ năm 2004)
Trước năm 1992, không một doanh nghiệp tư nhân nào của Trung Quốc
được tham gia vào thị trường M&A. Tất cả những vụ chuyển nhượng tải sản đều
phải diễn ra trong khu vực kinh tế thuộc sở hữu Nhà nước. Kể từ sau năm 1992, tư
tưởng xã hội chủ nghĩa ở nước này đã cho phép việc tư nhân hóa các SOE. Cuộc
họp thứ 15 của Quốc hội Trung Quốc diễn ra vào năm 1997 đã coi sở hữu tư nhân là
một thành phần quan trọng của nền kinh tế. Từ đó, đã có rất nhiều các công ty
nhỏ
được hình thành và phát triển thành công trên các lĩnh vực thích hợp. Hơn nữa,
chính sách nắm giữ các SOE lớn và giải phóng các SOE nhỏ - tức là tư nhân hoá
các SOE nhỏ- đã khuyến khích các doanh nghiệp này tham gia vào hoạt động M&A.
Đây là một công cụ kinh tế rất quan trọng của chính phủ Trung Quốc trong việc
chuyển dổi hình thức sở hữu từ SOE sang các loại hình doanh nghiệp tư nhân, cổ
phàn, TNHH…
Như vậy, so với nền thị trưởng Việt Nam, hoạt động M&A tại Trung Quốc
đã diễn ra sớm hơn rất nhiều. Trong những năm cải cách, hoạt động mua lại và sáp
nhập đã nhận được nhiều sự quan tâm của chính phủ Trung Quốc, từ đó hoạt động
mua lại giữa công ty nước ngoài và công ty Trung Quốc cũng như hoạt động sáp
nhập giữa các công ty Trung Quốc mới có nhiều cơ hội phát triển. Năm 2002, cuộc
họp quốc hội lần thứ 15 đã thông qua “các gợi ý cho kế hoạch phát triển kinh tế
xã
hội 5 năm lần thứ 15”, hỗ trợ cho “việc sử dụng hợp lý các khoản đầu tư quốc tế
và
thử nghiệm thành công các hoạt dộng M&A, các quỹ đầu tư, đầu tư chứng khoán và
25
các phương thức khác trong việc sử dụng các khoản đầu tư nước ngoài dài hạn”.
Chính phủ Trung Quốc đã kiên quyết ủng hộ lập trường này.
1.2. Quá trình hình thành và phát triển M&A tại Trung Quốc.
Quá trình hình thành và phát triển M&A tại Trung Quốc có thể chia ra làm 3
giai đoạn như sau: Từ năm 1985-1996, 1996 – 2000, 2001- 2008.
1.2.1. Giai đoạn từ năm 1985 - 1996 : giai đoạn bắt đầu xuất hiện hoạt
động M&A.
Từ 01/01/1985 đến 31/12/1996, tại Trung Quốc đã có 180 thương vụ M&A
với tổng trị giá lên đến trên 5,3 tỷ USD. Vốn đầu tư nước ngoài FDI chiếm 62%
trên tổng trị giá giao dịch trong những năm này.
Thương vụ sáp nhập đầu tiên tại Trung Quốc diễn ra tại Baoding, một thành
phố nhỏ ở phía bắc Trung Quốc vào năm 1985. Trong vụ giao dịch này, chính
quyền Trung Quốc đã khuyến khích bốn SOE đang làm ăn thua lỗ sáp nhập với các
SOE đang kinh doanh có hiệu quả của thành phố. Cuộc thử nghiệm này đã gây một
bước thành công đột phá. Sau đó, đã có rất nhiều thành phố khác cũng đi theo mô
hình này. Kết quả là, vào cuối năm 1988, hơn 1500 SOE được sáp nhập trên khắp
cả nước và dến năm 1989, đã có 2559 thương vụ diễn ra. Theo tạp chí B.Zhang et
al.
(1995), ở thành phố Baoding, lợi nhuận sau sáp nhập của các công ty đã tăng lên
223% so với lợi nhuận trước lúc sáp nhập. Tuy nhiên, nhiều vụ sáp nhập vẫn gặp
phải thất bại do sự thiếu hào hứng của những công ty kinh doanh đang hiệu quả.
Trong suốt giai đoạn những năm 80, hầu hết các vụ sáp nhập của doanh
nghiệp diễn ra trong cùng một lĩnh vực kinh doanh, cùng một địa phương, và cùng
một hình thức sở hữu. Cũng chỉ sau năm 1990, tại Trung Quốc mới diễn ra các vụ
mua lại và sáp nhập của các doanh nghiệp hoạt động trong các ngành công nghiệp,
các địa phương, và các hình thức sở hữu khác nhau. Năm 1995, chính phủ Trung
Quốc đã ban hành một chính sách mới: nắm giữ các doanh nghiệp nhà nước lớn và
giải phóng các doanh nghiệp nhỏ. Chính sách này đã góp phần thúc dẩy quá trình
tư
nhân hóa tại các SOE quy mô nhỏ trong khi đó vẫn giữ lại được các doanh nghiệp
nhà nước chủ chốt dưỡi tầm kiểm soát của chính phủ.
26
Kể từ cuối những năm 80, chính phủ Trung Quốc đã tạo ra một lọat các vụ
M&A trong quá trình cải tổ các SOE. Sau đó, Quyết định của chính phủ năm 1994,
yêu cầu 18 thành phố (sau này mở rộng ra hơn 100 thành phố) tiến hành thử nghiệm
việc tối ưu hóa cơ cấu vốn, đã thúc đẩy nhanh hoạt động sáp nhập.
Hoạt động M&A tại Trung Quốc trong thời kì đầu những năm 80 đều do
chính phủ nước này lãnh đạo và định hướng theo các mục tiêu phi thương mại. Lúc
này, mục đích chính của chính phủ là thoát khỏi các gánh nặng hỗ trợ doanh
nghiệp
kinh doanh thua lỗ bằng cách sáp nhập chúng với các doanh nghiệp kinh doanh hiệu
quả hơn. Nhưng đến giai đoạn sau, cuối những năm 80, hoạt động M&A tại Trung
Quốc đã mang tính chủ động từ phía các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp tự tiến
hành M&A thay vì do chính phủ yêu cầu như trước đây. Mục đích kinh tế thuần túy
của các thương vụ M&A lúc này là: giành quyền sở hữu đất đai, mở rộng sản xuất,
hợp lý hóa các chuỗi sản phẩm, thâm nhập vào các thị trường mới hoặc để tiếp cận
với nguồn cung cấp đầu vào chính. Tuy nhiên, chính phủ Trung Quốc vẫn nắm
quyền kiểm soát và áp dụng một số tiêu chuẩn để xác định SOE nào được phép
tham gia thị trường M&A. Trước hết, các thương vụ mua lại và sáp nhập phải đựoc
thực hiện dần để tránh cú shock cho nền kinh tế. Thứ hai, phải duy trì việc kiểm
soát các yếu tố đầu ra có ý nghĩa quan trọng đối với nền kinh tế và an ninh quốc
gia.
Thứ ba, thị trường M&A cần phải được phát triển trên nền tảng thực nghiệm (các
doanh nghiệp gặp khó khăn nhất sẽ được ưu tiên tiến hành M&A), qua đó, chính
phủ có thể điều chỉnh các chính sách khi cần thiết.
Đồng thời với việc tham gia thị trường M&A của các doanh nghiệp SOE,
tham gia vào hoạt động M&A còn có ý nghĩa sốn còn với các công ty tư nhân Trung
Quốc. Sau năm 1990, chính phủ Trung Quốc đã cho phép các doanh nghiệp nước
ngoài tham gia vào thị trường M&A tại nước này. Cuối năm 1996, 10 trong sô 59
nhà sản xuất lốp ô tô lớn nhất, 12 trong số 13 các công ty dược phẩm lớn nhất,
và
70% các nhà sản xuất bia của Trung Quốc đã nằm dưới quyền kiểm soát của công
ty nước ngoài.
Nhờ có sự tham gia của dòng vốn nước ngoài, hoạt động M&A tại Trung
Quốc đã đạt được những bước tiến đáng kể. Từ năm 1985 đến đầu năm 1990, tổng
27
giá trị giao dịch các thương vụ M&A cua Trung Quốc chỉ là 32,1 triệu USD, nhưng
chỉ trong vòng sáu năm từ 1990 đến 1996, tổng giá trị giao dịch M&A đã đạt được
con số đáng kinh ngạc: 5,27 tỷ USD. Hơn nữa, trong số đó, hơn 26% trị giá giao
dịch M&A trên tổng số trị giá giao dịch từ 1990-1996 lại được thực hiện trong
năm
1996. Xu hướng phát triển của thị trường M&A tiếp tục phát triển cùng với sự
phát
triển của nền kinh tế Trung Quốc. Trong giai đoạn này, phần lớn các thương vụ
M&A diễn ra trong khu vực sản xuất (50%), tiếp đó là khu vực tài chính (18,9%)
và
dịch vụ (17,7%).
Hình 2.1. Tỷ trọng phân bổ M&A trên từng lĩnh vực
Nguồn: Báo cáo Bộ thương mại Trung Quốc.
M&A tại khu vực sản xuất được các nhà đầu tư như Hoa Kỳ, Singapore, Hồng
Kông ưa thích.Cụ thể tỷ lệ phần trăm đầu tư vào khu vực sản xuất của các nước
trên
như sau: các công ty Hoa Kỳ dành 64,8% trên tổng khối lượng giao dịch M&A vào
Trung quốc ở khu vực sản xuất, công ty Hồng Kông dành 31,4% , Singapore dành
58,6% và các doanh nghiệp trong nước dành 40%. Trong khi đó, các công ty của
Anh lại ưa thích khu vực dịch vụ (dành 50,5% đầu tư M&A cho khu vực này) và
các công ty của Singapore dành 41,2% trên tổng số khối lượng đầu tư để đầu tư
vào
khu vực tài chính.
Như vậy có thể nói, làn sóng M&A đầu tiên xuất hiện tai Trung Quốc đã
thực sự là một cú thúc quan trọng đối với sự phát triển của thị trường M&A sau
này
tại Trung Quốc nói riêng và nền kinh tế Trung Quốc nói chung.
28
1.2.2. Giai đoạn từ năm 1997 đến 2000: giai đoạn M&A của những công
ty được niêm yết.
Thị trường chứng khoán Trung Quốc hình thành đã tạo một sân chơi mới cho
hoạt động M&A. Tuy nhiên, thị trường chứng khoán tại Trung Quốc có nhiều điểm
rất khác so với thị trường chứng khoán tại các quốc gia khác. Kể từ khi thành
lập,
chính phủ Trung Quốc đã xây dựng nên một hệ thống thị trường “ kép” (dual-track
system) với những cổ phiếu không thể mua bán chuyển nhượng và những cổ phiếu
có thể mua bán chuyển nhượng trong những công ty đã được niêm yết trên sàn.
Những cổ phiếu không thế mua bán được sở hữu bởi các cơ quan chính phủ
(government agencies) – một trong những cổ đông lớn nắm quyền kiểm soát công
ty. Một trong những điểm quan trọng của hệ thống “thị trường kép” chính là xu
hướng cổ phần hóa những doanh nghiệp nhà nước trong suốt gần chục năm qua trên
thị trường chứng khoán.
Năm 1994, tập đoàn Baoan có trụ sở tại Thẩm Quyến đã tiến hành chiến dịch
mua cổ phần của tập đoàn Yanzhong có trụ sở chính ở Thượng Hải, đánh dấu
thương vụ M&A đầu tiên giữa các công ty đại chúng. Những hoạt động M&A như
trên có nhiều ý nghĩa kinh tế đối với các công ty đã được niêm yết hơn là đối
với các
công ty chưa được niêm yết. So sánh đối với các công ty chưa được niêm yết, đặc
biệt là
các SOE, các công ty được đã được niêm yết có một số đặc điểm kinh tế sau:
- Tất cả các công ty đã được niêm yết trên sàn đều tuân thủ nghiêm ngặt các
chuẩn mực kế toán được chấp nhận chung trên toàn thế giới.
- Phần lớn các công ty đó được tái cấu trúc từ các SOE và đang cố gắng theo
đuổi lợi nhuận bằng cách tuân theo cơ chế thị trường, điều này hoàn toàn khác so
với các SOE.
- Tất cả các công ty được niêm yết đều là các công ty cổ phần. Hệ thống ban
quản trị của các công ty khá hoàn hảo và giống nhau. Cổ phiếu được chia thành ba
loại: trái phiêu, cổ phiếu ưu đãi và cổ phiếu phổ thông. Đối với phần lớn các
công ty,
trái phiếm chiếm phần lớn trong hệ thống sở hữu và trụ sở quản lý tài sản nhà
nước
(The State – owned Asset Management Institute or The Bureau of State-owned
Asset Management (BSAM)) nắm giữ phần này. Các doanh nghiệp nhà nước,
29
doanh nghiệp cổ phần khác và các nhà đầu tư tư nhân nước ngoài thường nắm giữ
cổ phiếu ưu đãi. Có một điểm đáng chú ý là, cả hai loại trái phiếu và cổ phiếu
ưu đã
thì không được lưu hành trên thị trường chứng khoán. Sự trao đổi của những loại
cổ
phiếu này chỉ được thực hiện thông qua hình thức thương lượng, chỉ duy nhất cổ
phiếu phổ thông được lưu hành trên thị trường chứng khoán.
- Phần lớn các doanh nghiệp niêm yết đều có hoạt động kinh doanh hiệu quả
và đang là những công ty dẫn đầu trong những lĩnh vực của mình hoặc tại những
thành phố trụ sở công ty. Trong giai đoạn này, bởi thị trường chứng khoán Trung
Quốc vẫn đang trong giai đoạn thử nghiệm, do đó, việc niêm yết một công ty trên
sàn là rất khắt khe, thường phải là những công ty đạt được kinh doanh hiệu quả,
cấu
trúc hoạt động tốt, tình hình tài chính minh bạch.. Nguyên tắc niêm yết khắt khe
đã
tạo ra những “vỏ” nguồn vốn quý giá (precious resource shell) cho những công ty
đang cần nguồn vốn lớn để tài trợ cho hoạt động kinh doanh của mình.
- Chính phủ Trung Quốc vẫn có những ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của
những công ty này, không chỉ ảnh hưởng trực tiếp qua chính sách công nghiệp,
chính sách thuế, và nguyên tắc kế toán, mà còn gây ảnh hưởng gián tiếp với vai
trò
là một trong những cổ đông lớn nhất trong hầu hết công ty đang được niêm yết.
Chính phủ Trung Quốc coi niêm yết là một phương thức hiệu quả đê thành lập nên
một cơ chế doanh nghiệp mới và giảm thiểu các khoản nợ của SOE. Từ góc nhìn vĩ
mô, chính phủ nước này cũng hy vọng rằng lực đẩy nền kinh tế thị trường và thị
trường chứng khoán có thể giúp cho việc phân phổ nguồn vốn hiệu quả hơn. Bời
vậy, cái “bóng” của chính phủ Trung Quốc bao phủ khắp mọi nơi trên thị trường
chứng khoán.
Bên cạnh đó, đối với các công ty chưa được niêm yết, một số công ty đã
chọn hình thức mua lại các công ty đã được niêm yết để tiếp cận thị trường vốn.
Điều này có nghĩa là một công ty chưa được niêm yết sẽ trở thành một công ty đại
chúng khi công ty này mua một công ty khác đã được niêm yết sẵn trên thị trường
chứng khoán.
Một sự kiện cũng đáng chú ý trong thời gian này là sự hình thành các công ty
quản lý tài sản (Asset Management Companies – AMC) liên kết với bốn ngân hàng
lớn đã mở ra một hình thức mới để cơ cấu lại doanh nghiệp. Hàng nghìn các SOE ở
Trung Quốc đã phải dựa vào sự hỗ trợ tài chính từ chính phủ thông qua chính sách
cho vay từ bốn ngân hàng nhà nước. Vào cuối những năm 80 và xuyên suốt những
30
năm 90, chính sách cho vay được áp dụng nhiều để vực dậy các SOE kém cạnh
tranh. Các khoản tín dụng này thậm chí được gia hạn để trang trải cho các khoản
nợ ,
thua lỗ của công ty, tiền lương cho nhân công và các quỹ hưu trí của công ty. Do
đó,
việc một số lượng lớn các SOE không có khả năng thanh toán được các khoản vay
cho các ngân hàng nhà nước dẫn đến sự xuất hiện số lượng lớn các khoản cho vay
xấu (non- performed loans-NPLs). Sau này, chính phủ Trung Quốc nhận ra tình
hình này kéo dài sẽ tác dộng xấu tới nền kinh tế nói chung và thị trường tài
chính
nói riêng. Do đó, năm 1999, chính phủ Trung Quốc đã quyết đinh thành lập bốn
công ty quản lý tài sản là: Huarong AMC, Cinda AMC, Great Wall AMC, China
Orient AMC và yêu cầu bốn ngân hàng nhà nước trên chuyến các khoản nợ xấu cho
bốn công ty này. Các công ty AMC bắt đầu hoạt động chính của họ bằng việc
chuyển nhượng các khoản nợ sang cổ phần. Mục đích cuối cùng của các AMC này
là phục hồi các SOE làm ăn thua lỗ bằng mọi cách thông qua các phương thức tái
cơ
công ty bao gồm cả hình thức mua lại và sáp nhập và thậm chí là bán cổ phần hoặc
cho niêm yết cổ phiếu của những doanh nghiệp này.
Như vậy, trong giai đoạn này, chính phủ Trung Quốc dã có những biện pháp
nhất định nhằm thúc đẩy thị trường chứng khoán, giúp tái cơ cấu lại các SOE.
Điều
này là một trong những dộng lực chính để thị trường M&A phát triển nở rộ trong
thời
gian này. Các số liệu thống kê đã cho thấy tổng số lượng tài sản liên quan đến
các vụ sáp
nhập ở Trung Quốc năm 1997 gấp 100 lần so với giai đoạn những năm 80.
Hình 2.2. Hoạt động M&A tại Trung Quốc từ năm 1997-1999
Nguồn: Báo cáo Bộ thương mại Trung Quốc.
31
Hình trên đã cho thấy, năm 1997, 210 công ty được niêm yết tại Trung Quốc đã
tiến
hành 270 vụ M&A. Năm 1998, số vụ M&A đã tăng lên 624 với sự góp mặt của 389
công ty niêm yết - một nửa trên tổng số công ty được niêm yết thời kỳ này. Năm
1999, số vụ M&A đã tăng tăng lên tới 1012 vụ, tăng 80% so với năm 1998. Có thể
nói, hoạt động mua lại và sáp nhập đã trở thành một đặc điểm nổi bật của thị
trường chứng khoán đang nổi lên của Trung Quốc.
1.2.3. Giai đoạn 2001- 2008: giai đoạn hội nhập của nền kinh tế Trung
Quốc.
Năm 2001, Trung Quốc chính thức gia nhập tổ chức Thương mại thế giới-
WTO, đánh dấu một bước ngoặt trong lịch sử phát trỉển của đất nước này. Từ đây,
nền kinh tế Trung Quốc sẽ là một “sân chơi “ bình đẳng cho cả doanh nghiệp trong
nước và các nhà đầu tư nước ngoài. Trong giai đoạn này,số lượng các thương vụ
M&A tại Trung Quốc đã tăng lên với tốc dộ rất nhanh,Trung Quốc trở thành một
trong những quốc gia trên thế giới thu hút được nhiều vốn đầu tư nước ngoài nhất
và là một thị trường hứa hẹn cho các vụ M&A. Hoạt động mua lại và sáp nhập tại
Trung Quốc trong thời kỳ này có một số điểm nổi bật như sau:
Đặc điểm thứ nhất: Trung Quốc thu hút được lượng FDI lớn. Kể từ sau khi
gia nhập WTO, Trung Quốc đã nhận thức được tầm quan trọng đặc biệt của việc tận
dụng vốn đầu tư FDI. Do đó, trong kế hoạch 5 năm lần thứ mười (2001-2005) về
vấn đề “kinh tế quốc gia và sự phát triển xã hội Trung Quốc”, quốc hội Trung
Quốc
đã quyết định nới lỏng các quy định đối với các nhà đầu tư nước ngòai, cho phép
các nhà đầu tư tiến hành các thương vụ M&A liên quan đến tài sản, đặc biệt
khuyến
khích họ tham gia mua lại và sáp nhập với các SOE để góp phần cải tổ, nâng cao
khả năng cạnh tranh của những doanh nghiệp này. Cùng với sự mở cửa nền kinh tế,
khuyến khich thu hút đầu tư nước ngoài, tốc dộ phát triển rất nhanh của nền kinh
tế
và sự nhận thức của các doanh nghiệp Trung Quốc về vấn đề nâng cao vị thế của
mình thông qua hoạt động mua lại sáp nhập với các công ty trong nước cũng như
công ty nước ngoài, số lượng các thương vụ M&A tại Trung Quốc đã tăng lên đáng
kể từ năm 2001 đến hiện nay, đặc biệt, kể từ sau năm 2004
32
Bảng 2.1. Quy mô giao dịch M&A tại Trung Quốc từ năm 2002-2005
Năm
Số lƣợng thƣơng vụ M&A
Tổng trị giá (Đv: Tỷ Nhân dân
tệ)
2002
951
77.78
2003
934
92.31
2004
1541
211.69
2005
1219
132.32
Nguồn: Trung Tâm nghiên cứu kinh tế Trung Quốc-Đại học Bắc Kinh
Tổng giá trị giao dịch của M&A tại Trung Quốc năm 2004-2005 chiếm 1%
GDP Trung Quốc.
Bảng 2.2.Tầm quan trọng của hoạt động M&A tới nền kinh tế
(Đv:Tỷ Nhân dân tệ)
2004
2005
Tốc độ tăng
trƣởng
Tổng giá trị giao
dịch M&A
211.69
132.32
-37.5%
GDP
13651.5
18232.1
9.9%
Tổng trị giá giao
dịch M&A/GDP
1.55
0.73
-52.9%
Nguồn:Trung tâm nghiên cứu kinh tế Trung Quốc-Đại học Bắc Kinh.
Năm 2004, 611 thương vụ M&A được tiến hành với sự tham gia của 499 công ty,
tổng giá trị giao dịch đạt 211 tỷ Nhân dân tệ, gấp dôi so với trị giá giao dịch
năm
2003 và gấp ba lần trị giá giao dịch năm 2002. Riêng năm 2005, có tới 578 công
ty
tham gia hoạt dộng M&A với tổng số lượng 752 vụ .
Sang giai đoạn những năm gần đây, năm 2006, số vụ M&A tại Trung Quốc có giảm
đôi chút nhưng đến năm 2007, đặc biệt giai đoạn cuối năm 07, số thương vụ M&A
của Trung Quốc đã được phục hồi và tiếp tục tăng đến năm 2008.