Khóa luận tốt nghiệp: Giải pháp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam trong thời kỳ hội nhập
8,186
110
81
Chương II: Đánh giá thực trạng hoạt động xuất khẩu của DNNVV trong thời kỳ hội
nhập
Nguyễn Thị Huyền Trang Pháp 1-K42-KTNT
40
thuật DNNVV là đơn vị sự nghiệp có chức năng tư vấn cho Cục phát triển
DNNVV, là đầu mối tư vấn về công nghệ và kỹ thuật, cải tiến trang thiết bị,
hướng dẫn quản lý kỹ thuật và bảo dưỡng trang thiết bị, tạo điều kiện tiếp cận
công nghệ trang thiết mới cho các DNNVV.
2.3. Hỗ trợ về quản lý và nhân lực
DNNVV có vai trò quan trọng trong Chiến lược phát triển kinh tế – xã
hội, góp phần thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Tuy nhiên,
hiện tại, năng lực của các DNNVV còn nhiều hạn chế, việc đào tạo bồi dưỡng
nhân lực quản lý cho các DNNVV còn chưa đáp ứng được yêu cầu; trong khi
đó, nhu cầu đào tạo của doanh nhân và các nhà quản lý các DNNVV ngày
càng tăng. Nhận thức được tính cấp thiết của việc trợ giúp các DNNVV trong
đào tạo nguồn nhân lực, ngày 10 tháng 8 năm 2004, Thủ tướng Chính phủ đã
ban hành Quyết định số 143/2004/QĐ-TTg, phê duyệt Chương trình trợ giúp
đào tạo nguồn nhân lực cho các DNNVV giai đoạn 2004-2008.
Mục tiêu tổng thể của chương trình là nhằm thúc đẩy và tạo điều kiện để
các DNNVV tăng khả năng cạnh tranh, đóng góp ngày càng nhiều cho sự nghiệp
phát triển kinh tế xã hội của đất nước; phát triển cả về số lượng và chất lượng
hệ
thống các nhà cung cấp dịch vụ hỗ trợ và phát triển kinh doanh, đăc biệt là dịch
vụ tư vấn và đào tạo nguồn nhân lực quản lý để trợ giúp các DNNVV tăng
trưởng bền vững. Cụ thể, chương trình cung cấp những kiến thức cần thiết cho
chủ doanh nhân, cán bộ quản lý các DNNVV; trợ giúp nhà quản lý các DNNVV
kiến thức và kỹ năng xây dựng chiến lược kinh doanh, mở rộng thị trường trong
và ngoài nước đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.
2.4. Hỗ trợ về thương hiệu và thị trường
* Hỗ trợ về thương hiệu
Nhận thức được tầm quan trọng của thương hiệu trong hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp, ý thức được thực trạng năng lực xây dựng
thương hiệu của các doanh nghiệp Việt Nam còn tương đối yếu, chương
Chương II: Đánh giá thực trạng hoạt động xuất khẩu của DNNVV trong thời kỳ hội
nhập
Nguyễn Thị Huyền Trang Pháp 1-K42-KTNT
41
trình “Thương hiệu quốc gia Việt Nam” với biểu trưng “Vietnam Value
Inside” (Giá trị Việt Nam) đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết
định số 253/QĐ-TTg ngày 25-11-2003 được kéo dài đến năm 2010. Chương
trình “Thương hiệu quốc gia” cho phép các doanh nghiệp được dán biểu trưng
bằng tiếng Anh “Vietnam Value Inside” trên các sản phẩm của mình nếu các
sản phẩm đó đã có thương hiệu riêng và đạt được các tiêu chí về chất lượng
do chương trình quy định. Như vậy, bên cạnh thương hiệu riêng của sản phẩm,
các doanh nghiệp đủ tiêu chuẩn sẽ được dán thêm biểu tượng của thương hiệu
quốc gia Việt Nam. Theo Cục xúc tiến Thương mại, Bộ Công thương thì mục
đích của chương trình là nhằm tăng cường sự nhận biết của các nhà nhập khẩu
trên thế giới đối với các sản phẩm mang nhãn hiệu Việt Nam, làm cho các
nhà nhập khẩu và người tiêu dùng bên ngoài có một thái độ nhìn nhận tích
cực hơn và ưa chuộng hàng Việt Nam hơn.
Nhằm xúc tiến nhanh cho chương trình được đưa vào thực tế, bên cạnh
những hoạt động có tính gợi mở giúp doanh nghiệp làm quen với sự cạnh
tranh trên thị trường thế giới, trong năm nay, Hội đồng tư vấn quốc gia của
chương trình đang xây dựng một “danh sách” các doanh nghiệp đã có thương
hiệu mạnh thuộc một số lĩnh vực xuất khẩu chính của Việt Nam như thuỷ sản,
giầy dép, dệt may, đồ gỗ… bên cạnh đó, chương trình cũng xúc tiến thực hiện
các giải thưởng xuất khẩu của Thủ tướng Chính phủ và các giải thưởng cho
công tác xây dựng và phát triển thương hiệu. Đặc biệt đáng chú ý là một loạt
các hoạt động đã được tổ chức trong năm 2005 như: Bình chọn 10 nhà quản
trị thương hiệu xuất sắc, giải thưởng thiết kế đồ gỗ và nội thất Việt Nam 2005,
giải thưởng thiết kế bao bì nông sản thực phẩm 2005, nhà quảng cáo trong
năm và công ty quảng cáo trong năm, phim quảng cáo, mẫu quảng cáo in,
mẫu quảng cáo ngoài trời hay nhất 2005…
* Hỗ trợ về thị trường
Chương II: Đánh giá thực trạng hoạt động xuất khẩu của DNNVV trong thời kỳ hội
nhập
Nguyễn Thị Huyền Trang Pháp 1-K42-KTNT
42
Ngày 01 tháng 8 năm 2001, Bộ tài chính đã ban hành thông tư số
61/2001/TT-BTC hướng dẫn các khoản chi hỗ trợ từ Quỹ hỗ trợ xuất khẩu
cho hoạt động phát triển thị trường, đẩy mạnh xúc tiến thương mại tại doanh
nghiệp bao gồm: (1) thu nhập thông tin về thị trường, khách hàng và hàng hoá
xuất khẩu; (2) thuê tư vấn kinh tế thương mại; (3) hoạt động tìm kiếm thị
trường xuất khẩu; (4) tổ chức gian hàng hội chợ, triển lãm tại nước ngoài; (5)
đặt trung tâm xúc tiến thương mại Việt Nam ở nước ngoài; (6) đặt văn phòng
đại diện doanh nghiệp và Hiệp hội ngành hàng tại Việt Nam ở nước ngoài.
Đối tượng được hỗ trợ là các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh xuất
khẩu (thuộc mọi thành phần kinh tế) có số thực thu ngoại tệ hàng năm (ngoại trừ
doanh nghiệp hoạt động dịch vụ tổ chức các hoạt động xúc tiến thương mại).
3. Hỗ trợ của các tổ chức nƣớc ngoài
3.1.. Hỗ trợ về vốn và công nghệ
* Hỗ trợ về vốn
Vốn là vấn đề quan trọng hàng đầu trong các DNNVV, đặc biệt là các
DNNVV tham gia vào thị trường toàn cầu. Chính vì thế, hàng loạt các chương
trình hỗ trợ tài chính cho các DNNVV được nhiều tổ chức triển khai. Có thể
kể ra một số chương trình tiêu biểu sau đây:
Quỹ phát triển các DNNVV (SMEDF)
Quỹ phát triển các DNNVV (SMEDF) do Liên minh Châu Âu tài trợ và
được quản lý bởi Quỹ Hỗ trợ phát triển. Mục tiêu của SMEDF là nhằm cung
cấp tín dụng và cải thiện các dịch vụ tài chính cho các DNNVV và do đó góp
phần tạo việc làm và làm tăng thu nhập cho các doanh nghiệp trong nước.
Hoạt động cho vay được thực hiện qua các ngân hàng thương mại như Ngân
hàng Công thương (ICB), Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn,
Ngân hàng Á Châu (ACB), Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam (BIDV).
Chương trình tài trợ cho các DNNVV của JBIC
Chương II: Đánh giá thực trạng hoạt động xuất khẩu của DNNVV trong thời kỳ hội
nhập
Nguyễn Thị Huyền Trang Pháp 1-K42-KTNT
43
Chương trình này do ngân hàng Hợp tác Quốc tế Nhật Bản (JBIC) tài
trợ vốn và được kế hoạch bởi Bộ Kế hoạch và Đầu tư (MPI) và Ngân hàng
Nhà nước (SBV). Mục tiêu của chương trình là cung cấp các khoản vay trung
và dài hạn đến các DNNVV qua các Ngân hàng trung gian bao gồm: Ngân
hàng Công thương, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, Ngân hàng
Đông á và Ngân hàng Á Châu.
Chương trình Phát triển Dự án Mekong (MPDV)
Chương trình phát triển dự án Mekong (MPDF) được thành lập năm 1997
nhằm hỗ trợ phát triển cho các DNNVV tại Việt Nam, Lào và Campuchia; đặc
biệt hỗ trợ phát triển cho các công ty tư nhân tại Việt Nam. Mặc dù MPDF không
cung cấp tài chính, chương trình Hỗ trợ Tư vấn doanh nghiệp (CAA) có thể hỗ
trợ cho các nguồn tài trợ vốn đầu tư thông qua việc giúp đỡ chuẩn bị kế hoạch
kinh doanh và làm đơn xin vay vốn, tìm ngân hàng cho vay hoặc quỹ đầu tư và
hỗ trợ trong việc đàm phán với các tổ chức tài chính, bao gồm các ngân hàng
trong và ngoài nước, các công ty cho thuê tài chính và các quỹ đầu tư tư nh ân.
* Hỗ trợ về công nghệ
Tổ chức Dịch vụ chuyên gia cao cấp (SES) của Đức
SES là một tổ chức phi lợi nhuận, được tài trợ bởi Bộ hợp tác và Phát
triển kinh tế của Cộng hoà Liên bang Đức. SES tạo điều kiện cho các chuyên
gia kỹ thuẫt và các nhà quản lý đã nghỉ hưu người Đức làm công tác tư vấn
cho các doanh nghiệp địa phương trong một thời gian ngắn trên tinh thần tự
nguyện. Chương trình này bắt đầu tại Việt nam năm 2000 và đã đưa nhiều
chuyên gia sang làm việc ở nhiều ngành nghề khác nhau như dệt, nhựa và
nông nghiệp. Tất cả các công ty đều có thể tham gia chương trình trong đó
các DNNVV thuộc khu vực tư nhân được đặc biệt ưu tiên.
Tổ chức cung cấp dịch vụ cố vấn hải ngoại của Vương quốc Anh (BESO)
BESO được sự hỗ trợ từ Bộ phát triển quốc tế của chính phủ Anh,
chuyên cung cấp chuyên gia tư vấn cho các DNNVV tư nhân và các tổ chức
Chương II: Đánh giá thực trạng hoạt động xuất khẩu của DNNVV trong thời kỳ hội
nhập
Nguyễn Thị Huyền Trang Pháp 1-K42-KTNT
44
nhà nước ở các nước kém phát triển. Tuỳ theo yêu cầu trợ giúp nhận được,
BESO sẽ tìm chuyên gia tự nguyện có kinh nghiệm để thực hiện công tác tư
vấn ngắn ngày, từ 2 tuần đến 6 tháng. BESO không yêu cầu tổ chức xin trợ
giúp phải trả chi phí ngoại trừ chi phí ăn, ở, đi lại của các chuyên gia tình
nguyện trong thời gian làm việc. BESO có khoảng 3.500 chuyên gia trong đó
chủ yếu là các nhà chuyên môn đã nghỉ hưu giàu kinh nghiệm và kỹ năng
trong nhiều lĩnh vực như: xây dựng, sản xuất đồ gỗ, thủ công mỹ nghệ,…
3.2. Hỗ trợ dịch vụ phát triển kinh doanh
Hỗ trợ GTZ cho các DNNVV
GTZ là một tổ chức của chính phủ Đức hoạt động dưới hình thức một
công ty dịch vụ hợp tác quốc tế. Tại Việt Nam, GTZ phối hợp làm việc với
Trung tâm xúc tiến Thương mại và Dịch vụ (BPSC), phòng Thương mại và
Công nghiệp Việt Nam (VCCI) và tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường và Chất
lượng (STAMEQ). Website của GTZ tại Việt Nam là www.gtz.de/vietnam.
Các chương trình của GTZ nhằm đạt các mục tiêu sau: Nâng cao năng
lực cạnh tranh của DNNVV; đẩy mạnh các dịch vụ phát triển kinh doanh
trong 1 số lĩnh vực đào tạo và tư vấn quản lý, các dịch vụ thông tin internet,
quản lý chất lượng, quản lý môi trường và lao động.
Chương trình Phát triển Dự án Mekong (MPDP)
Ngoài các dịch vụ trợ giúp liên quan đến tài chính MPDP tập trung vào
các lĩnh vực như: Đào tạo quản lý, cải thiện dịch vụ ngân hàng qua Trung tâm
Đào tạo Ngân hàng, hỗ trợ các hiệp hợp doanh nghiệp và hỗ trợ xây dựng cho
các nhà tư vấn quản lý.
3.3. Hỗ trợ xúc tiến xuất khẩu
Chương trình phát triển Khu vực tư nhân (PSD) của DANIDA
Chương trình PSD được tổ chức Viện trợ Phát triển quốc tế Đan Mạch
(DANIDA) tài trợ. Chương trình PSD tập trung vào việc thiết lập các mối
quan hệ hợp tác lâu dài cùng có lợi giữa các công ty Đan Mạch và các công ty
Chương II: Đánh giá thực trạng hoạt động xuất khẩu của DNNVV trong thời kỳ hội
nhập
Nguyễn Thị Huyền Trang Pháp 1-K42-KTNT
45
địa phương. Các tiêu chuẩn lựa chọn cho các công ty Việt Nam muốn tham
gia chương trình là: (1) Là DNNVV; (2) Các nhà máy sản xuất trong bất kỳ
ngành nào; (3) Các công ty TNHH và cổ phần (trừ các công ty liên doanh với
công ty nước ngoài); (4) Có lợi nhận trong 2-3 năm vừa qua.
Tổ chức Xúc tiến Thương mại của Nhật (JETRO)
JETRO được chính phủ Nhật thành lập nhằm giúp các doanh nghiệp
nước ngoài phát triển thương mại và những cơ hội kinh doanh khác với các
doanh nghiệp Nhật Bản. Mục tiêu của JETRO là: (1) Hỗ trợ các DNNVV
trong các hoạt động thương mại và đầu tư quốc tế; (2) Giúp đỡ các nước đang
phát triển nhằm phát triển mạng lưới cung cấp linh kiện cho các công ty Nhật
Bản; (3) Tạo hội chợ ảo trên mạng của JETRO nhằm giúp đỡ các doanh
nghiệp ở các nước đang phát triển sử dụng internet để trưng bày sản phẩm
một cách có hiệu quả và liên lạc với các khách hàng tiềm năng tại Nhật; (4)
Tổ chức các hội thảo và các lớp đào tạo tại Nhật cho những người cho cả khu
vực tư nhân và nhà nước của các nước đang phát triển.
Chương trình Xúc tiến Nhập khẩu của Thuỵ Sĩ (SIPPO)
Chương trình Xúc tiến Nhập khẩu của Thuỵ Sĩ (SIPPO) nhằm đẩy mạnh
xuất khẩu vào Thuỵ Sĩ và các nước Liên minh Châu âu từ các nước đang phát
triển.
Ngân sách của chương trình cho Việt Nam là 300.000 USD cho mỗi năm.
Chương trình hợp tác với Cục Xúc tiến Thương mại (Vietrade) nhằm hỗ trợ cho
các DNNVV của Việt Nam để có thể vào được thị trường Thuỵ Sĩ và Châu Âu
thông qua các hoạt động như: Tạo điều kiện gặp gỡ giữa các nhà nhập khẩu Thuỵ
Sĩ và xuất khẩu Việt Nam; Cung cấp thông tin về thị trường cho nhiều ngành
nghề kinh doanh; Tổ chức các phái đoàn tiếp cận và mua bán; Dịch vụ tư vấn
cho việc phát triển sản phẩm và tiếp thị; Hợp tác với Vietrade và các hiệp hội
ngành nghề khác trong việc đẩy mạnh xuất khẩu; Xây dựng năng lực cho các
DNNVV trong việc quản lý chất lượng, tiếp thị và quản lý xuất khẩu.
Chương II: Đánh giá thực trạng hoạt động xuất khẩu của DNNVV trong thời kỳ hội
nhập
Nguyễn Thị Huyền Trang Pháp 1-K42-KTNT
46
IV. THỜI CƠ VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI CÁC DNNVV TRONG
XUẤT KHẨU KHI VIỆT NAM GIA NHẬP WTO
1. Thời cơ và vận hội đối với các DNNVV trong xuất khẩu khi Việt Nam
gia nhập WTO
1.1. WTO mở ra cơ hội một cách toàn diện về thị trường hàng hoá, thị
trường dịch vụ, thị trường vốn, thị trường công nghệ cho các DNNVV
* Tạo cơ hội mở rộng thị trường hàng hoá và dịch vụ
Từ lâu nay, thiệt thòi lớn nhất đối với các DNNVV Việt Nam chính
là rất khó khăn trong việc tiếp cận thị trường thế giới. Khó khăn đó một
phần nguyên nhân là do sự cản trở của các cơ chế chính sách trong nước
nhưng nguyên nhân lớn nhất là vì Việt Nam chưa phải là thành viên của
WTO. Nhưng khi chúng ta đã gia nhập tổ chức này thì sẽ mở ra một cánh
cửa rộng lớn với vô số cơ hội cho các DNNVV. Điều đầu tiên mà bất kỳ
doanh nghiệp nào cũng nhận thấy khi gia nhập WTO là Việt Nam sẽ được
tiếp cận với thị trường toàn cầu trên cơ sở cạnh tranh bình đẳng, không bị
rào cản của thuế quan và phi thuế quan, điểm mà doanh nghiệp nào cũng
mong muốn. Trong thị trường rộng lớn đó, các doanh nghiệp mặc sức tung
hoành với những chiến thuật, chiến lược kinh doanh của mình để khuếch
trương qui mô và thu về những nguồn lợi khổng lồ.
Theo qui định của tổ chức thương mại thế giới, các DNNVV Việt Nam
sẽ được hưởng các quyền lợi sau:
Thuế quan và các hàng rào phi thuế quan vào các nước WTO sẽ
được giảm đáng kể .
Không bị phân biệt đối xử thông qua việc được hưởng quy chế tối
huệ quốc (MFN) và quy chế đối xử quốc gia (NT).
Được hưởng ưu đãi, đối xử đặc biệt dành cho các nước đang phát triển.
Các quy định đó sẽ mang lại những lợi ích cụ thể sau:
Chương II: Đánh giá thực trạng hoạt động xuất khẩu của DNNVV trong thời kỳ hội
nhập
Nguyễn Thị Huyền Trang Pháp 1-K42-KTNT
47
a. Tăng cường xuất khẩu thông qua việc giả quyết vấn dề tiếp cận thị
trường của các thành viên WTO
Khi Việt Nam gia nhập WTO, các doanh nghiệp vừa và nhỏ có nhiều cơ
hội hợp tác kinh doanh với nhiều bạn hàng hơn. Bởi lẽ, gia nhập WTO là một
“điểm cộng” đối với các doanh nghiệp và toàn bộ nền kinh tế trong con mắt của
cộng đồng thế giới. Với một môi trường kinh doanh lành mạnh, tuân thủ các quy
tắc chung của luật pháp quốc tế, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ nâng cao được uy
tín, sự tin tưởng và tính hấp dẫn trong việc hợp tác kinh doanh với đối tác nước
ngoài.
Cơ hội mở rộng thị trường xuất khẩu sẽ kéo theo những ảnh hưởng tích
cực với các ngành kinh tế trong nước, sản xuất sẽ được mở rộng và tạo ra
nhiều công ăn việc làm, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
b. Việt Nam sẽ được hưởng một số ưu đãi miễn trừ dành riêng cho các
nước đang phát triển góp phần tạo ra lợi thế cạnh tranh cho các DNNVV
Có nhiều hiệp định của WTO đều dành những khoản ưu đãI riêng cho các
nước đang phát triển, kém phát triển, các nước có nền kinh tế chuyển đổi (tất cả
chiếm 3/4 số thành viên của WTO), chúng gọi là các đối xử đặc biệt và khác biệt.
Những ưu đãi dành riêng cho nhóm các nước này được nêu trong các hiệp định
về thương mại hàng hoá (liên quan đến: (i) thuế quan, (ii) các biện pháp phi
thuế
quan như: hạn chế định lượng; trợ cấp và các biện pháp hỗ trợ xuất khẩu của
chính phủ trong nông nghiệp, công nghiệp; định giá hải quan; hàng rào kỹ thuật,
(iii) các biện pháp tự vệ trong thương mại…), các hiệp định về Thương mại dịch
vụ, các hiệp định về thương mại liên quan đến đầu tư…Chúng thường mang tính
chất giảm nhẹ so với nghĩa vụ và cam kết chung mà WTO đề ra. Ví dụ nh ư: miễn
không phải thực hiện một nghĩa vụ nào đó; mức độ cam kết thấp hơn; các doanh
nghiệp cũng cỏ thể chỉ phải chịu một mức thuế xuất khẩu thấp vào thị trường các
nước phát triển nếu như nước đó cho Việt Nam hưởng ưu đãi phổ cập
Chương II: Đánh giá thực trạng hoạt động xuất khẩu của DNNVV trong thời kỳ hội
nhập
Nguyễn Thị Huyền Trang Pháp 1-K42-KTNT
48
GSP,…Các ưu đãi này sẽ góp phần tạo ra lợi thế cạnh tranh nhất định cho các
DNNVV trước các đối thủ cạnh tranh đến từ các nước phát triển.
Tuy nhiên việc được hưởng các ưu đãi này phụ thuộc rất nhiều vào quá
trình đàm phán với các đối tác và cách thức vận dụng các quy định ưu đãi của
Nhà nước. Và cũng cần phải nhấn mạnh rằng các DNNVV không nên ỷ lại
hay trông chờ quá nhiều vào các ưu đãinày, vì trên thực tế chúng ta đã biết
các nước thành viên đều gây áp lực để các nước gia nhập phải mở cửa nhiều
nhất có thể, hơn nữa các ưu đãi này nếu được hưởng thì cũng có điều kiện, có
thời hạn. Điều quan trọng nhất là các DNNVV phải tận dụng được cơ hôị xâm
nhập, chiếm lĩnh và mở rộng thị trường bằng cách chủ động nâng cao năng
lực cạnh tranh của mình.
* Cơ hội tiếp cận nguồn vốn dồi dào từ bên ngoài
Hầu hết các DNNVV hiện nay hoạt động chủ yếu là vốn tự có hoặc có
chăng chỉ là vay từ bạn bè, người thân quen, bản thân người lao động trong
doanh nghiệp và các tổ chức tài chính phi chính thức. Trong khi đó việc tiếp
cận các nguồn vốn từ các tổ chức tín dụng chính thức của nhà nước, từ các
ngân hàng là rất khó khăn. Các ngân hàng, các tổ chức tín dụng đua nhau tăng
lãi suất huy động khiến mặt bằng lãi suất cho vay rất cao, thêm vào đó là điều
kiện cho vay thường rất chặt chẽ, các DNNVV cũng thường bị phân biệt đối
xử so với các doanh nghiệp nhà nước. Vốn huy động từ các dự án hay nguồn
vốn tài trợ của nước ngoài là rất khan hiếm. Vốn huy động từ thị trường
chứng khoán thì các DNNVV không đủ điều kiện. Có thể nói, đa phần các
DNNVV có quy mô sản xuất kinh doanh nhỏ lại luôn trong tình trạng thiếu
vốn, “khát vốn” cho mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh, đầu tư cải tiến
máy móc, trang thiết bị mới. Đây là một trở ngại rất lớn đối với sự phát triển
của các DNNVV. Việt Nam không thiếu các nhà kinh doanh giỏi, giàu ý
tưởng. Thế nhưng, sự hạn hẹp về nguồn vốn là yếu tố hàng đầu kìm hãm sự
phát triển đó.
Chương II: Đánh giá thực trạng hoạt động xuất khẩu của DNNVV trong thời kỳ hội
nhập
Nguyễn Thị Huyền Trang Pháp 1-K42-KTNT
49
Gia nhập WTO các DNNVV có nhiều cơ hội trong việc tiếp cận các
nguồn vốn để đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh hơn. Mặt khác, khi Việt
Nam gia nhập WTO các doanh nghiệp cũng có thể tiếp cận nhiều chương
trình, dự án hỗ trợ của các nước và các định chế tài chính quốc tế như:
Ngân hàng thế giới (WB), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng phát triển
Châu á (ADB),…
* Cơ hội tiếp cận với kỹ thuật, công nghệ hiện đại, nâng cao trình độ
quản lý và chất lượng nguồn nhân lực
Hội nhập vào WTO cũng đã tạo điều kiện cho các DNNVV Việt Nam
có điều kiện làm quen, tiếp cận và ứng dụng các kỹ thuật công nghệ cao cũng
như các phương thức, tác phong công nghiệp của các nước công nghiệp phát
triển như Hoa kỳ, EU, Nhật Bản. Khoa học, kỹ thuật, công nghệ và cả nguồn
nhân lực đều có cơ hội giao lưu tham gia vào sự phân công lao động toàn cầu.
Cùng với tăng trưởng mạnh hơn trong thương mại, các hoạt động chuỷen giao
công nghệ, di chuyển sức lao động, di chuyển vốn sẽ diễn ra sôi động hơn,
thuận lợi hơn.
Về vấn đề nhân lực, hội nhập kinh tế quốc tế cũng mang lại cơ hội nâng
cao tay nghề cho người lao động và trau dồi kiến thức, nâng cao kinh nghiệm
quản lý cho người điều hành quá trình sản xuất. Sức ép của hội nhạp buộc tự
thân người lao động phải nâng cao trình độ. Mặt khác thị trường lao động
trong những năm tới cũng sẽ phải vận hành lành mạnh hơn, tương thích với
các yêu cầu của hội nhập. Các DNNVV cũng sẽ thuận lợi hơn trong việc thuê
và tuyển dụng lao động trong và ngoài nước có chất lượng cao…
1.2. Gia nhập WTO sẽ đem lại cho các DNNVV Việt Nam tư cách pháp lý
đầy đủ và bình đẳng hơn trong thương mại thế giới
Dù quy mô của nền kinh tế Việt Nam so với các nền kinh tế lớn trên thế
giới hay quy mô của các DNNVV so với các doanh nghiệp trên thế giới có