Khóa luận tốt nghiệp: Đàm phán thương mại bằng phương thức gặp gỡ trực tiếp doanh nghiệp Việt Nam và đối tác Nhật Bản
8,075
787
110
68
tin dạng này. Vì thế mà đã có những trường hợp các doanh nghiệp Việt Nam bị rơi
vào cảnh ký kết với hợp đồng mua bán với những cá nhân không có đủ thẩm quyền
ra quyết định, không được phép đại diện cho công ty, nên đã gây ra nhiều thiệt
hại
không nhỏ về kinh tế.
Bên cạnh việc thu thập thông tin về đối tác, các nhà kinh doanh Việt Nam cũng
rất
quan tâm tới các thông tin về tình hình thị trường và hàng hoá thông qua các cơ
quan đại diện thương mại của Việt Nam tại nước ngoài, các tài liệu, báo cáo của
các
tổ chức quốc tế, báo và tạp chí chuyên ngành. Ngoài ra, hiện nay cũng có nhiều
doanh nghiệp nhà nước đã có đủ khả năng và điều kiện để cử cán bộ trực tiếp
nghiên cứu thị trường tại nước ngoài. Nói chung, các doanh nghiệp Việt Nam hiện
nay đã chủ động hơn trong việc tiếp cận các nguồn thông tin đa dạng để phục vụ
cho hoạt động nghiên cứu thị trường và hàng hoá trước khi bước vào bàn đàm phán
trực tiếp. Tuy nhiên, những năm gần đây số lượng các doanh nghiệp ngoài quốc
doanh tham gia vào hoạt động xuất nhập khẩu trực tiếp tăng lên rất nhanh nhưng
chủ yếu là các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ (dưới 200 người), tiềm lực tài
chính chưa đủ mạnh nên vẫn gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận nguồn thông
tin về thị trường và hàng hoá trên thế giới.
Về việc chuẩn bị nhân sự cho đàm phán, những năm gần đây, các doanh nghiệp
Việt Nam có xu hướng xây dựng các nhóm đàm phán với số lượng vừa phải (chỉ từ
2 đến 5 người) nhằm tiết kiệm chi phí đàm phán, hơn nữa quy mô từ 2 đến 5 người
cũng khá phù hợp và tối ưu bởi phần lớn các giao dịch mua bán đều có giá trị
không
lớn lắm , mặt hàng mua bán không phức tạp, nên cũng không đòi hỏi quá nhiều
nhân sự tham gia nhóm đàm phán. Tuy vậy, cũng giống như các doanh nghiệp Nhật
Bản, các doanh nghiệp Việt Nam hầu như không bao giờ đàm phán trực tiếp với đối
tác nước ngoài chỉ với duy nhất một người bởi họ cho rằng nếu chỉ có 1 người thì
rất bất tiện, 1 cá nhân khó có thể lo liệu hết và phản ứng trước những diễn biến
phức
tạp có thể xảy ra trong quá trình đàm phán trực tiếp. Không giống như các công
ty
Nhật Bản thường chỉ cử các lãnh đạo cấp trung trong công ty tham gia trực tiếp
đàm
phán với đối tác nước ngoài, các doanh nghiệp Việt Nam đều cử giám đốc, tổng
giám đốc hoặc người thứ ba được giám đốc uỷ quyền bằng văn bản làm trưởng
69
đoàn đàm phán, chỉ có một số trường hợp đặc biệt ở các doanh nghiệp nhà nước,
trưởng đoàn đàm phán là trưởng bộ phận kinh doanh xuất nhập khẩu trong công ty
mà thôi. Người Việt Nam cũng giống người Nhật ở chỗ thường lựa chọn cán bộ
tham gia đàm phán trực tiếp dựa vào các tiêu chí chủ yếu sau: năng lực, kinh
nghiệm, hiểu biết chuyên môn, chức danh, địa vị, tuổi tác, giới tính,… Ngoài ra,
tại
các xí nghiệp quốc doanh, cán bộ đàm phán còn phải là người có phẩm chất đạo đức
tốt, có tinh thần trách nhiệm cao, trong nhiều trường hợp, các doanh nghiệp còn
ưu
tiên cán bộ là Đảng viên bởi những người này đều đã thấm nhuần tư tưởng của chủ
nghĩa Mác- Lênin, nắm vững đường lối, chủ trương của Đảng và nhà nước, và đặc
biệt là biết nêu cao lợi ích kinh tế của quốc gia dân tộc kết hợp chặt chẽ với
lợi ích
kinh tế cụ thể của doanh nghiệp mình.
Người Việt Nam có 1 điểm khác so với người Nhật là đa phần cán bộ đàm phán
phía Việt Nam thường thạo ngoại ngữ nên có xu hướng ít dùng đến phiên dịch trong
đàm phán trực tiếp hơn so với người Nhật ngoại trừ các cuộc họp bàn cần được tổ
chức long trọng hoặc phải đàm phán bằng nhiều thứ tiếng khác nhau. Tuy vậy, lý
do
của việc sử dụng phiên dịch trong đàm phán trực tiếp giữa người Việt Nam và
người Nhật lại có sự khác nhau khá rõ, trong khi người Nhật sẵn sàng bỏ chi phí
cao
để thuê được những phiên dịch giỏi trước hết là vì muốn tận dụng thời gian suy
nghĩ
và cân nhắc trước khi nói, sau đó là để có điều kiện quan sát kỹ hơn biểu hiện
của
đối tác trong lúc trình bày và ghi chép cẩn thận các thông tin thu nhận được,
còn
người Việt Nam lại giải thích lý do cho việc sử dụng phiên dịch chủ yếu là vì
không
thông thạo ngôn ngữ của đối tác, sau đó mới đến lý do tranh thủ thời gian suy
nghĩ
trong lúc đàm phán.
Về vấn đề xây dựng kế hoạch đàm phán, đa phần các nhà kinh doanh Việt Nam
hiện nay đã chú trọng nhiều hơn tới việc lập kế hoạch, xây dựng mục tiêu, chiến
lược cho các cuộc thương lượng trực tiếp, thế nhưng những hiểu biết của họ về
việc
lập kế hoạch đàm phán thì vẫn còn rất mơ hồ. Theo kết quả 1 cuộc điều tra về
hoạt
động đàm phán ngoại thương ở các doanh nghiệp Việt Nam do nhóm nghiên cứu
thuộc khoa Kinh tế Ngoại Thương, trường Đại Học Ngoại Thương thực hiện hồi
năm 2001, khi được hỏi “Trước khi đàm phán, công ty có xây dựng chiến lược đàm
70
phán không?”, đã có tới 90,09% số người được hỏi trả lời là có nhưng khi được
hỏi
tiếp “lập chiến lược đàm phán là gì?” thì phần lớn câu trả lời đều là chỉ cần
đưa ra
các mục tiêu chủ yếu cần đạt được như: giá cả, thanh toán, thời hạn giao hàng là
đủ.
Cũng theo kết quả của cuộc điều tra này, phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam được
hỏi đều trả lời không xây dựng trước nhiều phương án dự trù cho đàm phán, điều
này cho thấy các doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn yếu trong khâu lập kế hoạch đàm
phán, nhận thức mơ hồ nên kế hoạch không cụ thể và vì thế rất khó có thể giành
được thế chủ động trong quá trình đàm phán.
Cuối cùng là vấn đề chuẩn bị thời gian và địa điểm cho đàm phán trực tiếp, hiện
nay
phần lớn các cuộc thương lượng trực tiếp đều diễn ra tại Việt Nam nên phía Việt
Nam cũng thường là người chủ động sắp xếp địa điểm và lên lịch cho các cuộc họp
bàn với đối tác nước ngoài. Giống như người Nhật, người Việt Nam cũng ưa những
không gian sạch sẽ, ngăn nắp, trang trọng và lịch sự bởi họ quan niệm điều đó là
biểu hiện của sự tôn trọng tối thiểu mà “chủ nhà” giành cho “khách nước ngoài”.
Các cuộc thương lượng trực tiếp thường diễn ra vào buổi sáng từ thứ hai đến thứ
sáu vì buổi chiều người Việt Nam có hiệu suất làm việc kém hơn, thứ bảy chủ nhật
là ngày nghỉ cuối tuần. Bên cạnh đó, người Việt Nam cũng thường tránh tổ chức
đàm phán vào những ngày liền trước các ngày lễ lớn trong năm (Quốc Khánh 2/9,
Giải phóng Miền Nam 30/4, tết Nguyên Đán mồng 1 đến mồng 3 tháng Giêng ÂM
Lịch…) bởi vào những ngày này các cơ quan, tổ chức và doanh nghiệp đều nghỉ
làm việc.
2.2.2. Đặc trƣng trong giai đoạn đàm phán trực tiếp
- Giai đoạn “làm quen”
Cũng giống như người Nhật, người Việt Nam thường mở đầu các cuộc họp bàn
bằng những câu chuyện ngoài lề nhằm tạo không khí thoải mái, tâm trạng vui vẻ và
tình cảm thân mật giữa các thành viên của đoàn đàm phán mỗi bên. Khi mới ngồi
vào bàn đàm phán, phía Việt Nam thường hỏi đối tác 1 số câu hỏi về gia đình,
tình
hình công việc hiện tại, tình trạng hôn nhân, nếu là người đã lập gia đình, phía
Việt
Nam có thể hỏi một số câu hỏi có phần “riêng tư” đại thể như “bạn được mấy cháu
71
rồi?”,… Điều này dễ khiến cho các bạn hàng nước ngoài, đặc biệt là các thương
nhân phương Tây hiểu nhầm, thậm chí cảm thấy khó chịu vì bị “soi mói đời tư”.
Tuy nhiên, cần hiểu rằng điều này là hết sức bình thường ở Việt Nam bởi nó cũng
chỉ là một sản phẩm từ nền văn minh lúa nước với những mối quan hệ quay xung
quanh gia đình và làng xã của người Việt Nam mà thôi.
Không giống như người Nhật vốn nổi tiếng là những người trọng lễ nghi, phép tắc
trong giao tiếp, người Việt Nam có phần xởi lởi, và xuề xoà hơn, vì thế họ cũng
dễ
dàng bỏ qua một số lỗi giao tiếp mà đối tác nước ngoài mắc phải do vô ý hoặc
chưa
quen với phong tục tập quán ở Việt Nam hơn người Nhật. Là 1 nước nằm trong khu
vực châu Á, người Việt Nam cũng rất coi trọng những mối quan hệ, lấy uy tín và
sự
tin tưởng lẫn nhau làm cơ sở cho thành công lâu dài của những thương vụ mua bán,
hợp tác kinh doanh. Vì thế các thương nhân Việt Nam cũng chịu khó giành rất
nhiều thời gian cho giai đoạn làm quen không những nhằm tìm hiểu thêm về đối tác
mà còn gây dựng lòng tin trong những bước đầu của tiến trình thương lượng, đặc
biệt là với những đối tác quan trọng. Quá trình này thậm chí còn kéo dài trong
suốt
các giai đoạn sau đó của đàm phán bởi qua đó, các bên xây dựng và củng cố được
mối quan hệ hợp tác kinh doanh tốt đẹp, đây chính là điểm mấu chốt có tác động
rất
lớn tới thành công của quá trình thương lượng. Vì thế, quá trình đàm phán trực
tiếp
với người Việt Nam, đặc biệt là khi diễn ra tại Việt Nam, thường ít khi chỉ gói
gọn
trong 1 buổi gặp gỡ duy nhất, và các bản hợp đồng giá trị lớn cũng rất ít khi
được
ký kết ngay chỉ sau vài giờ thương lượng mà thường phải kéo dài ra nhiều cuộc
họp,
xen kẽ với những buổi chiêu đãi, viếng thăm, tặng quà,… và qua đó lòng tin giữa
các bên mới được tạo dựng và củng cố một cách chắc chắn. Vì thế, khi đến Việt
Nam đàm phán, các thương nhân nước ngoài cần chuẩn bị sẵn tinh thần và rèn
luyện cho mình sự kiên nhẫn bởi rất có thể họ sẽ không thể đạt được hợp đồng chỉ
sau có một chuyến đi. Thật vậy, vấn đề uy tín và lòng tin có vai trò rất quan
trọng
đối với nhiều thương nhân Á Đông nói chung, và với các thương nhân Việt Nam
nói riêng, nó lại càng quan trọng hơn. Điều này được chứng minh rất rõ qua thực
tế
hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu và đầu tư quốc tế tại Việt Nam những năm
gần đây, khi mà đã có không ít các vụ lừa đảo trong xuất nhập khẩu gây thiệt hại
72
cho phía Việt Nam, những dự án đầu tư tham vọng nhưng lại không khả thi, thậm
chí không thực hiện được do nhà đầu tư nước ngoài không đủ khả năng tài chính.
Thực trạng này đã tạo nên tâm lý nghi ngờ người nước ngoài rất phổ biến trong
giới
thương nhân Việt Nam hiện nay. Vì thế, đối với các doanh nghiệp Việt Nam, khi đã
có đủ cơ sở để khẳng định đối tác thực sự đáng tin cậy, có uy tín cao, và thực
sự
quan tâm tới việc thực hiện giao dịch mua bán với phía Việt Nam thì quá trình
thương lượng với các doanh nghiệp Việt Nam sẽ trở nên thuận lợi hơn rất nhiều,
khả năng thành công cũng cao hơn.
- Giai đoạn thương lượng trực tiếp ( trao đổi thông tin, thuyết phục, nhượng bộ
và
đi đến thoả thuận)
Ở giai đoạn này, thái độ và cách giải quyết tình huống của người Việt Nam cũng
có
nhiều điểm khá giống với người Nhật. Trước hết là trong giai đoạn trao đổi thông
tin, người Việt Nam giống người Nhật ở chỗ họ cũng coi trọng cách nói lịch
thiệp,
hoà nhã, tránh làm mất lòng đối tác, cũng như cố gắng hạn chế những xung đột gay
gắt trong trường hợp xảy ra mâu thuẫn về lợi ích, lập trường, quan điểm giữa các
bên. Người Việt Nam chuộng cách nói tế nhị nhằm giữ thể diện cho các bên và đôi
khi họ cũng chọn cách nói “ý tại ngôn ngoại” như người Nhật đối với những vấn đề
nhạy cảm. Do không muốn để mất lòng ai nên các nhà đàm phán Việt Nam cũng
thường tránh từ chối thẳng thừng ý kiến của đối tác mà chọn cách nói gián tiếp
như:
“ Tôi cũng muốn lắm nhưng điều đó khó quá”, “ Xin lỗi, tôi không được phép quyết
định vấn đề này”, “ Tôi sẽ suy nghĩ và báo lại cho các ngài sau”,…
Không như người Nhật thường bước vào bàn đàm phán với bộ mặt rất lạnh lùng, cử
chỉ lễ độ, khiêm nhường nhưng bên trong thì ẩn chứa rất nhiều toan tính, người
Việt
Nam thì thẳng thắn hơn, trong quá trình đàm phán, phía Việt Nam thường tỏ thái
độ
vui vẻ và cởi mở hơn người Nhật. Có 1 điểm đáng chú ý là phía Việt Nam rất hay
cười trong lúc thương lượng, tuy vậy không phải nụ cười nào của họ cũng mang
nghĩa đồng tình và hài lòng, bởi nhiều khi phía Việt Nam nở nụ cười lại vì họ
không
hiểu ý đối tác muốn nói gì hoặc muốn che giấu sự căng thẳng, lo âu bên trong.
Điều
này khiến cho nhiều đối tác nước ngoài hiểu nhầm và tưởng rằng đề xuất của họ
đưa ra hoàn toàn hợp lý và giành được sự chấp thuận của phía Việt Nam.
73
Các nhà đàm phán Việt Nam có thể nói là những người rất chịu khó lắng nghe và
thu nhận thông tin từ đối tác một cách cẩn thận. Trong lúc lắng nghe, họ thường
gật
đầu liên tục và kèm theo tiếng đệm “Vâng” (yes). Tuy nhiên, người nước ngoài
không nên dịch từ “vâng” ra nghĩa đen của nó là đồng ý và chấp nhận hoặc tương
đương với một lời cam kết bởi người Việt Nam nói “Vâng” trong lúc nghe chỉ là
nhằm tỏ thiện chí lắng nghe và khuyến khích đối tác tiếp tục trình bày mà thôi.
Có thể nói các nhà kinh doanh Việt Nam rất ngại rủi ro nên cũng hay rụt rè khi
phải
đưa ra 1 quyết định quan trọng nào đó mà họ chưa thể lường trước được hậu quả
của nó. Vì thế để đi đưa ra một nhượng bộ, phía Việt Nam thường phải mất thời
gian nghiên cứu và thảo luận nội bộ khá lâu, trong quá trình đàm phán trực tiếp
cũng vậy, khi đứng trước một đề xuất nào đó, người Việt Nam thường không từ
chối hoặc chấp nhận ngay mà thường hoãn việc đưa ra quyết định sang buổi họp lần
sau, nói theo cách của người Việt Nam thì đây là phong cách “để ngày mai hẵng
hay” (think today, speak tomorrow) vốn vẫn còn rất phổ biến trong giới kinh
doanh
Việt Nam. Điều này khiến cho tiến trình đàm phán trực tiếp rất hay bị kéo dài.
Cũng theo kết quả cuộc điều tra của nhóm nghiên cứu trường Đại Học Ngoại
Thương, một điểm yếu của nhiều nhà đàm phán Việt Nam hiện nay là hay để mất
lợi thế chủ động trong đàm phán. Trả lời cho câu hỏi “Khi bạn giành được thế chủ
động, bạn sẽ chọn cách ứng xử nào trong các cách dưới đây?” thì có tới 42,34%
người được hỏi muốn tận dụng cơ hội để khai thác thêm thông tin, 38,74% người
muốn nắm lấy cơ hội để nhanh chóng kết thúc vấn đề, và vẫn còn tới 20% muốn tỏ
ra lịch sự và nhường quyền quyết định cho đối phương. Thực trạng này cho thấy
các doanh nghiệp Việt Nam chưa thực sự quyết đoán để biến thế chủ động thành
những nhượng bộ có lợi cho mình từ phía đối tác. Còn khi được hỏi “Khi bạn ở thế
bị động, bạn sẽ chọn cách ứng xử nào trong các cách dưới đây?” thì có tới 85,59%
số người được hỏi trả lời lúc đó họ sẽ tìm cách hoãn binh, chỉ có 5,4% từ chối
thẳng
thừng ý kiến của đối tác, và 9% đồng ý với đối phương để đỡ gây căng thẳng.
Trong
đó lý do cho việc lựa chọn cách hoãn binh phần lớn là muốn bàn cách giải quyết
tốt
hơn. Điều này chứng tỏ các nhà đàm phán Việt Nam có cách sử xự có phần khéo
léo và hợp lý hơn. Đặc biệt khi được hỏi “Theo bạn, một cuộc đàm phán được coi
74
là thành công khi chỉ cần công ty mình thu được lợi nhuận hay cả hai cùng đạt
được mục đích” thì 100% số người được hỏi đều trả lời là “chỉ khi cả hai cùng
đạt
được mục đích”. Điều này cho thấy, các nhà đàm phán Việt Nam có quan niệm rất
tích cực và hiện đại về đàm phán thương mại quốc tế, trong đó thành công của đàm
phán phải được dựa trên cơ sở thoả mãn lợi ích tối thiểu cho cả người mua lẫn
người bán, hay đó phải là những cuộc thương lượng “hai bên cùng thắng”, thay vì
lối đàm phán “thắng- thua” như trước kia.
Như vậy, qua quan sát kết quả cuộc điều tra nói trên, có thể thấy đa phần các
thương nhân Việt Nam đều sử dụng chiến lược đàm phán nguyên tắc, tuy cách áp
dụng chiến lược này chưa được hoàn thiện cho lắm nhưng nó cũng là 1 tín hiệu tốt
bởi đàm phán nguyên tắc là một chiến lược đàm phán khá hiện đại và phù hợp với
xu hướng hoạt động đàm phán thương mại quốc tế hiện nay trên thế giới.
2.2.3. Đặc trƣng trong giai đoạn hậu đàm phán
Một điểm đáng chú ý trong hoạt động đàm phán thương mại quốc tế của các doanh
nghiệp Việt Nam ở giai đoạn này là đa phần các nhà kinh doanh Việt Nam có quan
điểm tương đối linh hoạt, mềm dẻo đối với hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế.
Tức là trong quá trình thực hiện hợp đồng, nếu một trong các bên nhận thấy tình
hình thị trường đã có nhiều thay đổi làm cho 1 điều khoản nào đó trong hợp đồng
không còn phù hợp thì có thể yêu cầu các bên thương lượng lại. Ở điểm này, người
Việt Nam khá giống người Nhật. Tuy vậy người Việt Nam lại hay e ngại rủi ro hơn
người Nhật. Nếu như người Nhật coi trọng việc giữ chữ tín trong làm ăn, và lấy
uy
tín, sự tin tưởng lẫn nhau làm cơ sở hàng đầu cho việc thực hiện nghiêm chỉnh
hợp
đồng, thì người Việt Nam còn muốn dựa vào chính bản hợp đồng được làm trên
giấy tờ để làm cơ sở cho việc chấp hành nghiêm chỉnh các cam kết, bên cạnh các
yếu tố uy tín và lòng tin mà họ cũng đánh giá rất cao. Điều này một phần cũng là
do
quy định của pháp luật Việt Nam, theo đó Luật Thương Mại năm 2005 cũng như tất
cả các văn bản luật và dưới luật khác điều chỉnh hoạt động thương mại đều quy
định
hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế bắt buộc phải làm bằng văn bản, các hợp đồng
làm bằng miệng không được thừa nhận.
75
Người Việt Nam thường ưa những bản hợp đồng ngắn gọn, rõ ràng, dễ hiểu, phù
hợp với luật, họ không thích những bản hợp đồng được soạn thảo quá chi tiết, cụ
thể
bởi nó làm cho nội dung hợp đồng trở nên rối rắm, khó nhớ và khó hiểu. Mặt khác,
do bản tính ôn hoà, không thích đối đầu, nên người Việt Nam cũng giống người
Nhật ở chỗ luôn ưu tiên giải quyết tranh chấp trong quá trình thực hiện hợp đồng
bằng thương lượng giữa các bên, sau đó mới đến hoà giải, và chỉ khi tranh chấp
quá
nghiêm trọng, đối tác không có thiện chí hợp tác, mới đem tranh chấp ra toà án
hoặc
trọng tài xét xử. Tuy vậy, trong thực tế hiện nay, điều đáng tiếc là rất nhiều
các vụ
tranh chấp thương mại xảy ra lại là do phía Việt Nam vi phạm hợp đồng. Hiện nay
vẫn còn một bộ phận không nhỏ các doanh nghiệp Việt Nam có lối làm ăn kiểu
chụp giật, thực hiện không nghiêm chỉnh hợp đồng dẫn đến gây tổn hại tới uy tín
doanh nghiệp, trong đó những vi phạm như giao sai hàng, giao hàng trễ hẹn, giao
lẫn hàng kém phẩm chất,… xảy ra khá phổ biến. Điều này có ảnh hưởng không nhỏ
tới uy tín của doanh nghiệp, làm suy giảm năng lực cạnh tranh của hàng hoá Việt
Nam trên thị trường quốc tế và cản trở thành công của những cuộc thương lượng
cho những thương vụ sau này.
2.2. Thực trạng hoạt động đàm phán trực tiếp giữa doanh nghiệp Việt Nam
và đối tác Nhật Bản
Kể từ năm 1990 cho đến nay, với những nỗ lực to lớn của nhân dân hai nước, quan
hệ kinh tế Việt Nam- Nhật Bản nói chung và quan hệ kinh tế thương mại Việt Nam-
Nhật Bản nói riêng đã trải qua một giai đoạn phát triển rất sôi động. Mở đầu cho
thời kỳ phát triển hưng thịnh mối quan hệ kinh tế thương mại Việt Nam- Nhật Bản
chính là sự kiện tháng 11 năm 1992, chính phủ Nhật Bản quyết định viện trợ phát
triển chính thức (ODA) trở lại cho Việt Nam với khoản tín dụng ưu đãi bằng hàng
hoá trị giá 45,5 tỷ Yên. Tiếp đó, đến tháng 10 năm 1993, Tổ chức ngoại thương
Nhật Bản JETRO đã mở văn phòng đại diện tại Hà Nội với mục đích hoạt động là
xúc tiến các hoạt động thương mại và đầu tư của Nhật Bản với Việt Nam. Kể từ khi
có mặt tại Việt Nam, JETRO đã phối hợp với các hiệp hội, ban ngành, tổ chức của
Việt Nam và Nhật Bản để tổ chức các hội chợ triển lãm, hội thảo thương mại và
đầu
76
tư, các diễn đàn giữa doanh nghiệp Việt Nam và doanh nghiệp Nhật Bản, cũng như
tổ chức các chuyến đi khảo sát thị trường Nhật Bản cho doanh nghiệp Việt Nam và
các chuyến đi khảo sát thị trường Việt Nam cho doanh nghiệp Nhật Bản. Kể từ năm
1990 cho đến nay, Nhật Bản đã trở thành một trong những đối tác thương mại lớn
của Việt Nam bên cạnh Mỹ và Tây Âu, đồng thời cũng là nhà đầu tư trực tiếp số
một tại Việt Nam và là nhà tài trợ ODA hàng đầu cho Việt Nam. Xét trong hoạt
động kinh doanh xuất nhập khẩu, tính đến năm 2005, Nhật Bản vẫn ổn định ở vị trí
thị trường số một của Việt Nam trong khu vực Châu Á với tổng kim ngạch mua bán
hai chiều đạt tới 8,5 tỷ USD trong năm 2005, kim ngạch xuất khẩu sang Nhật Bản
chiếm 13,69% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam và kim ngạch nhập khẩu từ
Nhật Bản chiếm 11,10% tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam cũng trong năm
2005 (nguồn:Bộ Thương Mại). Trong giai đoạn từ năm 1996 đến năm 2005, hoạt
động mua bán hai chiều giữa hai nước đã có những biến động tích cực, đặc biệt
tăng
mạnh trong hai năm gần đây nhất là năm 2004 và 2005
QUAN HÖ TH¦¥NG M¹I VIÖT NAM-NHËT B¶N (giai ®o¹n 1996-2005)
3404
5890
7054
2806
3184
2995
8503
4940
4692
4875
0
1000
2000
3000
4000
5000
6000
7000
8000
9000
1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005
n¨m
gi¸ trÞ (triÖu USD))
xuÊt khÈu nhËp khÈu Tæng kim ng¹ch
Nguồn: www.mot.gov.vn
www.gso.gov.vn
77
Có thể nhận thấy mối quan hệ thương mại Việt Nam-Nhật Bản những năm gần đây
mang tính bổ sung cho nhau và phù hợp với khả năng, lợi thế so sánh của mỗi nước
chứ không có tính cạnh tranh nhau. Việt Nam có nguồn nhân lực dồi dào và rẻ cùng
với nguồn tài nguyên phong phú, ta có các mặt hàng xuất khẩu khai thác được các
yếu tố này mà Nhật Bản có nhu cầu cao như: dầu thô, than đá, thuỷ sản, may mặc,
giày dép, hàng nông sản, chè, cà phê, đồ gỗ nội thất, nhựa gia dụng, dây điện,
cáp
điện và hàng cơ khí. Ngược lại, Nhật Bản cung cấp máy móc, thiết bị hiện đại,
đầu
tư công nghệ tiên tiến mà Việt Nam đang rất cần cho quá trình hiện đại hoá đất
nước. Hiện nay các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu từ Nhật Bản của Việt Nam rất đa
dạng về chủng loại như: tân dược, linh kiện máy vi tính, máy móc thiết bị, phụ
tùng,
nguyên phụ liệu dệt may, xăng dầu, than, phân bón, xe máy dạng
CKD_SKD_IKD,…
Do tiềm năng phát triển quan hệ thương mại Việt Nam-Nhật Bản vẫn còn rất lớn
nên các hoạt động giao thương, tiếp xúc, tìm hiểu bạn hàng giữa doanh nghiệp hai
bên vẫn diễn ra rất sôi động. Các nhà kinh doanh xuất nhập khẩu của Nhật Bản rất
chú ý tới thị trường Việt Nam như 1 thị trường tiềm năng về cung cấp sản phẩm
thô
và sơ chế, khai thác các lợi thế so sánh của đất nước nên họ đã thường xuyên tổ
chức rất nhiều các chuyến viếng thăm khảo sát thị trường, tìm kiếm bạn hàng và
nguồn hàng chất lượng cao. Để tạo điều kiện cho hoạt động giao thương của thương
nhân hai nước, hàng năm JETRO đều có tổ chức các hội chợ triển lãm hàng công
nghiệp Nhật Bản tại Hà Nội và Thành Phố Hồ Chí Minh, triển lãm hàng công
nghiệp Việt Nam tại Tokyo. Các hội chợ triển lãm được tổ chức thường xuyên đã
góp phần thúc đẩy hơn nữa hoạt động tiếp xúc trao đổi và thương lượng giữa doanh
nghiệp hai nước cũng như tạo điều kiện xây dựng các mối quan hệ bạn hàng giữa
doanh nghiệp Việt Nam và doanh nghiệp Nhật Bản. Kết quả là trải qua giai đoạn
hơn 10 năm trở lại đây, đã có ngày càng nhiều doanh nghiệp Việt Nam tham gia vào
hoạt động xuất nhập khẩu trực tiếp với thị trường Nhật và số lượng doanh nghiệp
Việt Nam đặt được mối quan hệ mua bán tốt đẹp, ký kết được các hợp đồng dài hạn
và ổn định với đối tác Nhật Bản cũng ngày càng nhiều lên. Tuy quãng thời gian
hơn
10 năm phát triển quan hệ thương mại song phương Việt-Nhật chưa phải là dài