Khóa luận tốt nghiệp: Ảnh hưởng của lãi suất, tỷ giá hối đoái và lợi nhuận thị trường đối với lợi nhuận cổ phiếu ngân hàng
4,204
645
87
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Lê Tô Minh Tân
SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Tiên – K43A TCNH Page 32
CHƯƠNG 3: TÌNH HÌNH BIẾN ĐỘNG LÃI SUẤT, TỶ GIÁ VÀ
HOẠT ĐỘNG NIÊM YẾT CỦA CỔ PHIẾU NGÂN HÀNG TRÊN
TTCK VIỆT NAM
Mặc dù lãi suất tăng cao, doanh nghiệp khó tiếp cận nguồn vốn ngân hàng nhưng
nguồn vốn tín dụng vẫn đóng vai trò cung cấp nguồn vốn quan trọng cho doanh
nghiệp và
là nguồn thu nhập chính cho các ngân hàng thương mại. Bên cạnh đó, tỷ giá hối
đoái và
sự biến động của nó, đặc biệt là tỷ giá USD/VND không chỉ là mối quan tâm trực
tiếp của
các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, của cơ quan quản lí mà còn nhân tố quan trọng
ảnh
hưởng lớn đến kết quảkinh doanh của các ngân hàng thương mại. Do đó, để thấy
được sự
biến động của lãi suất và tỷ giá trong giai đoạn kinh tế phục hồi sau khủng
hoảng, tôi sẽ
phân tích tình hình của lãi suất và tỷgiá trong thời gian từ năm 2008-2012.
3.1. Tình hình biến động của lãi suất:
Diễn biến lãi suất trong năm 2008 gồm 2 giai đoạn, đó là: cuộc đua tăng lãi suất
của các NH vào 6 tháng đầu năm 2008, và một cuộc đua với chiều hướng ngược lại –
cuộc đua giảm lãi suất. Sự leo thang của lãi suất qua đêm trên liên ngân hàng
với các
kỷ lục 20%, 25% liên tục bị đánh đổ, và đỉnh điểm là mức lãi suất 27%/năm…. Có
nhiều nguyên nhân khác nhau, đặc biệt mức lạm phát cao 19.39% vào tháng 1 và ảnh
hưởng từ cuộc khủng hoảng tài chính ở Mỹ, khiến NH không muốn đẩy mạnh cho vay
mà chú trọng đảm bảo an toàn hoạt động. Nhưng nhu cầu vốn của DN cho sản xuất,
kinh doanh và đầu tư phát triển thường có kì hạn dài, từ 1 năm trở lên. Bên cạnh
đó, sự
ấm lên của TTCK và thị trường bất động sản cùng với những đợt sóng trên thị
trường
vàng đã thu hút nhiều NĐT tham gia.
Hình 3.4: Lãi suất huy động vốn năm 2008
Đại học Kinh tế HuếĐại học Kinh tế Huế
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Lê Tô Minh Tân
SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Tiên – K43A TCNH Page 33
Bắt đầu từ tháng 7/2008, các ngân hàng bước vào cuộc đua lãi suất với xu
hướng ngược lại với xu hướng 6 tháng đầu năm, do ngân hàng đã giữ được tính
thanh
khoản của dòng tiền, độ an toàn cao, thu được một nguồn vốn lớn từ 6 tháng trước
và
tín hiệu tích cực từ lạm phát cùng với sự can thiệp của NHNN.
Năm 2009, lãi suất huy động tăng dần qua các tháng trong năm, cho thấy sự
căng thẳng nguồn vốn của các ngân hàng. Tháng 12/2009, lãi suất cho vay sản xuất
kinh doanh cao nhất là 12%, nhưng do được hỗ trợ lãi suất nên phần thực trả của
doanh nghiệp chỉ 8%/năm. Nguyên nhân là do áp lực về vốn để thực hiện chính sách
cho vay ưu đãi của chính phủ và nhu cầu đáo hạn các khoản tiền gửi vào cuối năm.
Khi ngân hàng thực hiện chính sách hỗ trợ lãi suất, thì điều kiện là không được
từ chối
cho vay nếu đối tượng đủ điều kiện.
Nguồn: Báo cáo thường niên của NHNN.
Hình 3.5: Lãi suất huy động, cho vay bằng VND của các TCTD năm 2009
Năm 2010, trước những biến động thị trường tiền tệ trong nước cũng như trên
thế giới, Chính phủ và NHNN thực hiện điều hành chính sách tiền tệ thận trọng,
linh
hoạt hơn nhằm tạo điều kiện hỗ trợ tích cực cho thị trường tiền tệ - tín dụng
hoạt động
ổn định. Trước tiên, TT 13 (TT 19 sửa đổi) ban hành ngày 20/5/2010 và có hiệu
lực từ
ngày 1/10/2010 quy định việc tăng tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu CAR từ 8% lên 9%
và
tổng số vốn cho vay không vượt quá 80% tổng số vốn huy động được. Đồng thời,
thông tư cũng nâng hệ số rủi ro của những khoản cho vay kinh doanh chứng khoán
và
BĐS lên 250%. Và 23 NHTM buộc phải tăng vốn điều lệ tối thiểu lên 3000 tỷ đồng
trong năm 2010. Bên cạnh đó, NHNN cũng đã ban hành TT số 03/2010/TT-NHNN;
TT 07/2010/TT-NHNN; TT 12/2010/TT-NHNN cho phép TCTD được thực hiện cho
Đại học Kinh tế HuếĐại học Kinh tế Huế
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Lê Tô Minh Tân
SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Tiên – K43A TCNH Page 34
vay bằng VND theo cơ chế lãi suất thỏa thuận. Trước tình trạng leo thang khó có
điểm
dừng của lãi suất huy động dưới nhiều hình thức, NHNN đã phải trực tiếp yêu cầu
các
ngân hàng giảm mặt bằng lãi suất huy động, bao gồm cả khoản chi khuyến mại dưới
mọi hình thức, sẽ không vượt quá 14%/năm. Như vậy, mặc dù đã cho phép các ngân
hàng được áp dụng lãi suất thỏa thuận nhưng trước việc chạy đua lãi suất, NHNN
đã
phải can thiệp bằng biện pháp hành chính. Lãi suất cho vay trong năm 2010 thể
hiện
hai điểm nóng là trong những tháng đầu năm (trước và sau khi thực hiện lãi suất
thỏa
thuận theo thông tư số 07/2010/TT-NHNN) và hai tháng cuối năm thì lãi suất cho
vay
ở mức khá cao (khoảng 14.5 – 18%).
Bảng 3.2 : Diễn biến lãi suất điều hành năm 2010 của NHNN
Diễn biến lãi suất điều hành năm 2010 của NHNN
Thời gian
Lãi suất
cơ bản
(%)
Lãi suất
tái cấp
vốn (%)
Lãi suất
tái chiết
khấu (%)
Lãi suất cho
vay qua
đêm (%)
1/1 – 4/11/2010
8
8
6
8
5/11 – 12/2010
9
9
7
9
Nguồn: Ngân hàng Nhà nước
Trong thời gian trước tháng 3/2011, nền kinh tế nước ta đang trên đà phục hồi
nên lãi suất không có nhiều biến động. Tuy nhiên, sau tháng 3, lạm phát bắt đầu
tăng
nên NHNN phải thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt, điều này làm tăng lãi suất
tiền
gửi và cho vay ở các NHTM. Nhằm ngăn chặn tính cạnh tranh không lành mạnh giữa
các ngân hàng, NHNN ban hành TT 02/2011/TT-NHNN ngày 3/3/2011 quy định về
mức lãi suất trần huy động tiền gửi là 14% cho các NHTM. Mặc dù NHNN đã có
nhiều biện pháp (ví dụ: sa thải lãnh đạo NH nếu phát hiện thủ thuật gian lận…),
nhưng
với áp lực rủi ro thanh khoản, các NHTM vẫn tìm mọi cách để “lách luật”. Do đó,
NHNN phải bổ sung TT 30/2011/TT-NHNN ngày 28/9/2011, quy định lãi suất tối đa
với tiền gửi bằng đồng Việt Nam của tổ chức, cá nhân tại TCTD, chi nhánh ngân
hàng
nước ngoài, cụ thể: lãi suất tối đa áp dụng với tiền gửi không kì hạn và có kì
hạn dưới
1 tháng là 6%/năm. Lãi suất tối đa áp dụng với tiền gửi có kì hạn từ 1 tháng trở
lên là
Đại học Kinh tế HuếĐại học Kinh tế Huế
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Lê Tô Minh Tân
SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Tiên – K43A TCNH Page 35
14%/năm, riêng Quỹ tín dụng nhân dân là 14.5%. Quy định trần lãi suất 14%/năm
làm
cho các NHTM gặp khó về thanh khoản và phải đi vay trên thị trường liên ngân
hàng
với lãi suất cao. Cá biệt, có những giao dịch lãi suất lên tới mức 30-40%/năm kỳ
hạn 1
tháng.
Hình 3.6: Biến động các loại lãi suất trên thị trường liên ngân hàng
NHNN đã liên tục giảm lãi suất nhằm giúp đỡ các doanh nghiệp đang gặp khó
khăn khi tiếp cận nguồn vốn vay ngân hàng, cụ thể lãi suất huy động đã được giảm
5
lần từ 14% về còn 8% ở thời điểm cuối năm: lần đầu tiên vào ngày 13/3 theo yêu
cầu
của Thủ tướng chính phủ lãi suất từ 14% xuống còn 13%; tiếp đó ngày 11/4 giảm 1%
về còn 12%; và 28/5/2012 giảm về 11%; ngày 11/6 giảm về 9%. Bên cạnh đó, thông
tư 19 NHNN ban hành ngày 8/6/2012 cho phép các NHTM tự quyết định lãi suất kì
hạn dài. Lãi suất cho vay trên thị trường liên ngân hàng giảm mạnh xuống mức
thấp
nhất trong những năm gần đây ở hầu hết các kì hạn, dao động quanh mức 2% với lãi
suất qua đêm so với mức trên 20% vào năm 2011. Lãi suất này giảm và ổn định kể
từ
khi thông tư 21 có hiệu lực, NHNN điều tiết chủ yếu qua nghiệp vụ thị trường mở
và
phát hành tín phiếu. Lãi suất tín phiếu trên thị trường mở (OMO) đang có xu
hướng
giảm dần, tạo điều kiện cho lãi suất trái phiếu chính phủ giảm, từ đó định hướng
giảm
lãi suất chung trên toàn thị trường.
Đại học Kinh tế HuếĐại học Kinh tế Huế
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Lê Tô Minh Tân
SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Tiên – K43A TCNH Page 36
0
2
4
6
8
10
12
14
16
2009010220090226200904162009060320090720200909072009102120091207201103252011052420111202201201182012030920120425201206122012080220120919201211052012122120130207
O IR
Nguồn: NHNN và kết quả xử lí số liệu bằng Eviews
Hình 3.7: Diễn biến lãi suất qua đêm liên ngân hàng năm 2012.
Biểu đồ cho thấy lãi suất qua đêm liên ngân hàng có xu hướng tăng từ năm
2009 đến năm 9/3/2012, sau đó là đợt giảm mạnh, và biến động cho đến thời điểm
12/3/2013.
8
9
10
11
12
13
14
2009010220090226200904162009060320090720200909072009102120091207201103252011052420111202201201182012030920120425201206122012080220120919201211052012122120130207
GS R5
Nguồn: Dữ liệu Bloomberg và kết quả xử lí số liệu bằng Eviews
Hình 3.8: Biến động lãi suất trái phiếu chính phủ 5 năm.
Lãi suất trái phiếu chính phủ 5 năm cũng có xu hướng tăng cho đến tháng 6/2011
rồi giảm dần cho đến thời điểm ngày 12/3/2013.
Đại học Kinh tế HuếĐại học Kinh tế Huế
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Lê Tô Minh Tân
SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Tiên – K43A TCNH Page 37
3.2. Tình hình biến động của tỷ giá hối đoái:
Những năm trước năm 2008, theo Thời báo kinh tế Việt Nam (vneconomy.vn) thì tỷ
giá USD/VND thường khá ổn định, bình quân thời kì 2004 2007 tăng 0.57%. Tuy
nhiên,
bước sang năm 2008 thì biến động tỷ giá có sựbiến động khác so với năm trước.
Sự khác nhau này thể hiện qua 4 giai đoạn:
(1) Giảm liên tục trong 3 tháng đầu (1/1/2008-25/3/2008): Đây là giai đoạn kiều
hối chuyển về nước khá lớn nên đã hình thành hiện tượng cung lớn hơn cầu, đẩy tỷ
giá
USD/VND trên thị trường liên ngân hàng liên tục sụt giảm (từ 16,112đ xuống còn
15,960đ, mức thấp nhất là 15,560đ/USD). Đồng thời, chính phủ và NHNN cũng đẩy
mạnh kiềm chế lạm phát và thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt. Do đó, NHNN
không mua đô la Mỹ nhằm hạn chế bơm tiền vào lưu thông, tăng biên độ tỷ giá từ
0.75% lên 1% trong ngày 10/3/2008.
(2) Tỷ giá tăng mạnh (26/3-16/7/2008) và liên tục, đỉnh điểm vào ngày 18/6 là
19,400đ/USD, chênh lệch 2,600đ so với mức trần và sau đó giảm dần. Ngày 27/6,
NHNN tăng biên độ dao động tỷ giá từ 1% lên 2%.
(3) Tỷ giá giảm mạnh và dần đi vào ổn định (17/7-15/10/2008): Với sự can
thiệp kịp thời của NHNN, tỷ giá đã giảm xuống mức 16,400 đ/USD, và dao động
quanh mức 16,600 từ tháng 8 đến tháng 11. Nhận thấy cơn sốt đô la Mỹ đã ở mức
báo
động, NHNN đã công khai dự trữ ngoại hối quốc gia lên đến 20.7 tỷ đô la Mỹ khi
thông tin trên thị trường cho rằng đô la Mỹ đang khan hiếm. Đồng thời, NHNN cũng
ban hành một loạt chính sách nhằm bình ổn thị trường, như: cấm mua bán ngoại tệ
trên
thị trường tự do, cấm mua bán USD thông qua đồng tiền khác để lách biên độ,…
(4) Tỷ giá tăng đột ngột trở lại, đạt mức 16,998 đ/USD. Sau khi NHNN tăng
biên độ tỷ giá từ 2% lên 3% trong ngày 7/11/2008, tỷ giá đã tăng tới mức
17,440đ/USD.
Năm 2009, tỷ giá USD/VND liên tục tăng mạnh, ở các NHTM tỷ giá niêm yết
mua và bán luôn ở mức sát trần. Do đó, từ ngày 26/11/2009, NHNN đã tiến hành
tăng tỷ
giá bình quân liên ngân hàng lên mức 17,961 đ/USD (quyết định phá giá VND 5.4%,
tỷlệ
phá giá cao nhất từ năm 1998 để chống đầu cơ tiền tệ) và biên độ tỷ giá +/- 3%
sẽ được
thay thế cho biên độ +/- 5% như trước đây. Ngoài ra, Thủ tướng yêu cầu các tập
đoàn,
tổng công ty lớn Nhà nước phải bán ngoại tệ đang nắm giữ cho ngân hàng. Đồng
thời, 8
Đại học Kinh tế HuếĐại học Kinh tế Huế
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Lê Tô Minh Tân
SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Tiên – K43A TCNH Page 38
ngân hàng cam kết sẽ cung cấp đủ USD cho những nhu cầu chính đáng của doanh
nghiệp
và người dân. Kể từ khi các quyết định trên có hiệu lực, tình hình tỷgiá bớt
căng thẳng.
Hình 3.9: Diễn biến tỷ giá USD/VND năm 2008 và năm 2009.
Hình 3.10: Tỷ giá chính thức và tỷ giá thị trường tự do VND/USD năm 2009.
Hình 3.11: Tỷ giá VND/USD và biên độ dao động, năm 2008-2009.
Đại học Kinh tế HuếĐại học Kinh tế Huế
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Lê Tô Minh Tân
SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Tiên – K43A TCNH Page 39
Năm 2010, từ tháng 11/2009 đến 8/2010, NHNN đã phải thực hiện 3 lần điều
chỉnh tỉ giá liên ngân hàng, tăng tổng cộng 11.17% lên mức 18,932VND/USD. Bên
cạnh đó, đồng tiền nước ta ngày càng mất giá so với các nước trong khu vực,
nguyên
nhân là do tài khoản vãng lai của nước ta luôn ở trong tình trạng thâm hụt (nền
kinh tế
nhập siêu với mức thâm hụt 10-12% GDP), lòng tin vào nội tệ suy giảm kèm theo
tình
trạng đô la hóa ngày càng gia tăng (tâm lí đầu cơ ngoại tệ, thanh toán và tín
dụng
ngoại tệ tăng mạnh do chênh lệch lãi suất giữa USD và VND).
Năm 2011 là năm điều chỉnh tỷ giá mạnh nhất của NHNN trên thị trường ngoại
hối. Ngày 11/2, NHNN đã tăng tỷ giá từ 18,932 đồng/USD lên 20,693 đồng, đồng
thời
thu hẹp biên độ giao dịch tỷ giá từ 3% xuống 1%. Chỉ sau 1 đêm giá trị Việt Nam
đồng đã hạ 9,3% so với đô la Mỹ. Sau điều chỉnh tỷ giá của NHNN, tỷ giá đã ổn
định
trong nhiều tháng tiếp theo, do cung cầu ngoại tệ khá cân bằng. Trong tháng 10,
NHNN đã tăng tỷ giá bình quân liên ngân hàng tổng cộng 14 lần, đẩy tỷ giá khỏi
mốc
21,000đ. Để đảm bảo ổn định tỷ giá, NHNN đã đưa ra các biện pháp như: cấm kinh
doanh ngoại tệ trên thị trường tự do, quy định mức trần lãi suất huy động USD là
2%...
Chính phủ ban hành nghị định 95, phạt hành chính tới 500 triệu đồng cho vi phạm
trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng.
16,000
17,000
18,000
19,000
20,000
21,000
2009010220090226200904162009060320090720200909072009102120091207201103252011052420111202201201182012030920120425201206122012080220120919201211052012122120130207
EX
Nguồn: Dữ liệu Ngân hàng nhà nước vàkết quả xử lí số liệu bằng Eviews
Hình 3.12: Tỷ giá USD/VND bình quân liên ngân hàng 2009-2013
Đại học Kinh tế HuếĐại học Kinh tế Huế
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Lê Tô Minh Tân
SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Tiên – K43A TCNH Page 40
Biểu đồ cho thầy tỷ giá bình quân liên ngân hàng USD/VND tăng mạnh vào
năm 2009, cho đến 1/12/2011, với cam kết giữ tỷ giá ổn định được Thống đốc đưa
ra
từ đầu năm, tỷ giá VND/USD đã dần ổn định và neo đậu tại mốc 20,828đ/USD. Đây
được xem là một thành công của NHNN trong khi bối cảnh kinh tế trong và ngoài
nước vẫn còn rất khó khăn. Nguyên nhân là do chính sách định giá đồng Việt Nam
cao
cùng với áp lực giảm lạm phát và nguồn cung ngoài tệ từ nước ngoài đã làm tỷ giá
đi
xuống. Bên cạnh đó, NHNN còn thực hiện các biện pháp hành chính để trấn áp thị
trường tự do và quản lí chặt chẽ thị trường vàng.
3.3. Hoạt động niêm yết của cổ phiếu ngân hàng trên TTCK Việt Nam:
Năng lực tài chính của các NHTMCP ở nước ta còn rất yếu, cách biệt khá xa
với các NHTMCP mức trung bình của các nước trong khu vực. Sự phát triển của khối
NHTMCP Việt Nam trong thời gian qua vẫn chưa đủ sức để cạnh tranh với các ngân
hàng trên thế giới, trong khi đó ngân hàng Việt Nam vẫn còn thua xa về công
nghệ.
Chính áp lực cạnh tranh đó, nên các NHTM cần phải tăng nguồn lực tài chính để
tăng
năng lực cạnh tranh. Chẳng hạn như Navibank đã huy động vốn thành công để nâng
vốn điều lệ lên trên 3,000 tỷ đồng trên sàn năm 2011. Tuy nhiên, công ty khi
niêm yết
phải công khai báo cáo tài chính, minh bạch hoạt đông. Điều này không chỉ có lợi
cho
ngân hàng, cho nhà đầu tư mà còn cho cả người gửi tiền cũng như người vay tiền.
Một
khi sổ sách minh bạch, được kiểm toán độc lập, được quản lý bởi nhiều cơ quan
chức
năng cũng như dư luận sẽ buộc ngân hàng đó phải hoạt động an toàn và hiệu quả
hơn.
Từ khi niêm yết, cổ phiếu ngành ngân hàng đã được ví như “cổ phiếu vua”, thu hút
sự
quan tâm rất lớn từ giới đầu tư. Năm 2006, có 2 ngân hàng đầu tiên niêm yết trên
sàn là
ACB và STB. Đến năm 2009, có thêm 4 ngân hàng niêm yết là: VCB, EIB, CTG và SHB,
ngân hàng MBB niêm yết vào năm 2011.
Trong năm 2012, cổ phiếu CTG giữ vị trí số 1 khi mang lại cho cổ đông tỷ lệ
sinh lời 66%, vượt xa các cổ phiếu khác trong ngành, cũng là tỷ lệ sinh lời ở
mức rất
cao so với cổ phiếu của các ngành khác được giao dịch trên HSX và HNX. Nguyên
nhân khiến CTG giữ vững vị trí số 1 về tỷ lệ sinh lời cho cổ đông là do
VietinBank có
kết quả kinh doanh tốt, tình hình tài chính vững mạnh. Đây là ngân hàng đứng đầu
trong khối NHTMCP về vốn điều lệ; đứng thứ hai về vốn chủ sở hữu (sau VCB) và
Đại học Kinh tế HuếĐại học Kinh tế Huế
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Lê Tô Minh Tân
SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Tiên – K43A TCNH Page 41
tổng tài sản (sau BIDV) với hệ thống mạng lưới lớn nhất gồm 1 sở giao dịch, 151
chi
nhánh, và trên 1000 phòng giao dịch, quỹ tiết kiệm trên 63 tỉnh/thành.
Hình 3.13: Mức độ hoàn thành kế hoạch lợi nhuận năm 2012
Ngày 13/9/2012, Thống đốc NHNN đã ban hành Thông tư số 26/2012/TT-NHNN
hướng dẫn thủ tục chấp thuận của NHNN đối với việc niêm yết cổ phiếu trên TTCK
trong nước và nước ngoài của TCTD cổ phần
10
.
Theo báo cáo triển vọng ngành ngân hàng 2013 của Công ty Chứng khoán BSC,
kết thúc năm 2012, cổ phiếu ngành ngân hàng tăng 18%, trong khi VN-Index tăng
trưởng 10% và HNX-Index âm 10%. Số lượng cổ phiếu EIB được giao dịch trong
tháng 1 nhiều gần gấp đôi so với cùng kỳ năm 2012. Năm 2012 cũng là năm đột biến
về lượng giao dịch của cổ phiếu ngân hàng, tổng khối lượng giao dịch của 8 ngân
hàng
đang niêm yết lên tới hơn 2.4 tỷ cổ phiếu, gấp hơn 2.1 lần so với lượng giao
dịch năm
2011 và hơn 1.85 lần so với năm 2010. Mặc dù giá và khối lượng tăng nhưng kết
quả
hoạt động kinh doanh của các ngân hàng lại cho thấy chiều hướng ngược lại. Tăng
trưởng tín dụng năm 2012 chỉ đạt 8.91%, theo báo cáo của NHNN, thấp hơn so với
con số gần 11% của năm 2011, đồng nghĩa kỳ vọng về thu nhập từ các hoạt động tín
dụng sẽ bị thu hẹp đáng kể, do phần lớn lợi nhuận của các ngân hàng vẫn đến từ
thu
nhập từ lãi thuần. Bên cạnh tăng trưởng tín dụng, nợ xấu và các tác động của nó
đã trở
thành tâm điểm xuyên suốt trong năm 2012.
Bên cạnh giá và thanh khoản, một nguồn lợi nhuận khác mà NĐT dài hạn
thường quan tâm ở cổ phiếu ngân hàng là cổ tức. Chi trả cổ tức năm 2012 cao nhất
là
ngân hàng Quân đội (MBB) với mức tạm ứng cổ tức bằng tiền mặt 10%. Cổ tức kém
10
Nội dung xin mời xem phụ lục 2
Đại học Kinh tế HuếĐại học Kinh tế Huế