Luận văn: Thị trường chung với các ưu đãi và rào cản hạn chế nhằm đảm bảo quyền lợi nội bộ
7,316
371
176
Lời nói đầu
Trong bối cảnh khu vực hoá, toàn cầu hoá nền kinh tế ngày nay, hợp tác kinh tế
đang
diễn ra theo phương thức song liên kết phương và đa phương giữa những nước và
những nước thuộc các khu vực khác nhau, chính sự hợp tác và liên kết kinh tế sẽ
tạo
điều kiện cho các quốc gia có thể triệt để tận dụng và khai thác triệt để các
nguồn lực
từ bên ngoài và lợi thế so sánh của mình để đạt được những mục tiêu kinh tế xã
hội
của mình. Không thể phủ nhận lợi ích to lớn đạt được do sự hợp tác, liên kết
giữa các
quốc gia mang lại, đặc biệt trong lĩnh vực thương mại, chính vì vậy nhiều tổ
chức cũng
như các khối liên minh khu vực và quốc tế đã, đang và sẽ còn tiếp tục hình
thành. Các
khối liên kết này đã thúc đẩy mạnh mẽ các hoạt động kinh tế thương mại, không
những chỉ trong nội khối mà còn chi phối mạnh mẽ tới các quốc gia, khu vực khác
.
Xu hướng tự do hoá trong lĩnh vực thương mại phát triển nhanh chóng sẽ dẫn tới
hệ
quả là biên giới kinh tế giữa các nước bị phá vỡ vì hàng rào thuế quan sẽ bị bãi
bỏ,
các quan hệ kinh tế tuỳ thuộc vào nhau sẽ phát triển, các thể chế khu vực và
toàn cầu
sẽ hình thành ...Trong điều kiện đó một nền kinh tế muốn độc lập tự chủ, không
muốn
lệ thuộc vào bên ngoài, muốn tự đảm bảo các nhu cầu thiết yếu, chắc chắn không
còn
chỗ đứng. Một nền kinh tế hiệu quả, phát triển phải là một nền kinh tế gồm những
ngành hàng có lợi thế cạnh tranh cao và sự phát triển của nó phải phụ thuộc vào
thị
trường thế giới.
Đẩy mạnh xuất khẩu là chủ trương kinh tế lớn của Đảng và Nhà nước Việt Nam, đã
được khẳng định tại Đại hội VIII và trong nghị quyết 01NQ/TƯcủa Bộ chính trị,
với
mục tiêu chuyển dich cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá hướng về xuất
khẩu.
Để thực hiện được chủ trương này, cùng với việc đẩy mạnh tiến trình CNH, HĐH
chúng ta phải tăng cường mở rộng thị trường xuất khẩu. Đây là viêc làm cấp thiết
hiện
nay.
Liên minh Châu âu (EU)là một tổ chức kinh tế khu vực lớn nhất thế giới hiện nay,
có
sự liên kết tương đối chặt chẽ và thống nhất, được coi là một trong ba “siêu
cường” có
vị thế kinh tế và chính trị ngày càng tăng(đó là Mỹ, Nhật Bản và EU ). Ra đời
năm
1951 với sáu nước thành viên (Pháp, Đức, Italia, Bỉ, Hàlan và Lucxămbua), ngày
nay
EU đã trở thành một tổ chức liên kết khu vực tiêu biểu nhất của khối các nước tư
bản
chủ nghĩa. Sau gần 50 năm phát triển và mở rộng, con số thành viên tới nay của
EU là
15 nước, và trong tương lai sẽ còn có nhiều nước tham gia, nhằm đi đến một Châu
âu
thống nhất. Trong số những nước công nghiệp phát triển, EU có nhiều nước có tiềm
lực kinh tế hùng mạnh vào loại hàng đầu thế giới như Đức, Pháp, Italia,
Anh...Hiện
nay, EU được coi là một tổ chức có tiềm năng to lớn để hợp tác về mọi mặt, đặc
biệt là
trong lĩnh vực thương mại và đầu tư.
Việt nam dã chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao với cộng đồng Châu âu(EC)
vào
ngày 22/10/1990, ký hiệp định buôn bán hàng dệt may với Liên Minh Châu Âu (EU)
vào ngày 15/12/1992 và ký hiệp định hợp tác với EU vào ngày 17/7/1995. Các sự
kiện
quan trọng nay chính là nhân tố thúc đẩy quan hệ kinh tế Việt nam-EU phát triển
mạnh
trên cả ba lĩnh vực (thương mại, đầu tư và viện trợ), đặc biệt là thương mại.
EU là thị trường lớn có vai trò quan trọng trong thương mại thế giới. Một số
mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt nam là những mặt hàng mà thị trường này có
nhu
cầu nhập khẩu hàng năm với khối lượng lớn, như hàng dệt may, thuỷ hải sản, giày
dép,...Kim ngạch xuất khẩu của Việt nam sang EU tăng trung bình 36,6%/năm(1995-
1999). Mặc dù kim ngạch tăng vối tốc độ nhanh, nhưng tất cả các mặt hàng xuất
khẩu
quan trọng của Việt nam đều đang gặp trở ngại nhất định trên thị trường này do
các
quy định về quản lý nhập khẩu của EU gây ra. Nếu EU không quản lý chất lượng và
áp dụng hạn ngạch quá chặt chẽ và khắt khe đối với một số mặt hàng xuất khẩu của
ta
thì tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu Việt nam-EU trong tổng kim ngạch xuất khẩu của
Việt nam không chỉ dừng ở con số 15,1% ( quá nhỏ bé so với tiềm năng ) như hiện
nay. Do vậy, vấn đề đặt ra là chúng ta cần tìm những giải pháp căn bản để mở
rộng
khả năng xuất khẩu, đồng thời khắc phục những khó khăn trở ngại trong quan hệ
thương mại giữa hai bên. Hơn nữa trong điều kiện khủng hoảng tài chính tiền tệ ở
Châu á, thị trường khu vực bị thu hẹp lại, thị trường SNG chưa khôi phục lại
được, thị
trường Mỹ vừa mới hé mở, nên thị trường EU là một sự lựa chọn hợp lý.
Vì vậyđẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường EU không chỉ là vấn đề cần thiết về
lâu dài mà còn là vấn đề cấp bách trước mắt đối với sự phát triển lâu dài của
Việt nam.
EU là thị trường xuất khẩu quan trọng có khả năng đem lại hiệu quả kinh tế không
nhỏ
đối với ta. Tuy nhiên, để làm được việc này chúng ta phải tập trung nghiên cứu
tìm
cách giải quyết những vướng mắc cản trở hoạt động xuất khẩu sang EU và tìm ra
các
giải pháp căn bản để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng hoá vào thị trường EU.
Hiện nay, Việt nam đang thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế hướng về xuất
khẩu, việc mở rộng thị trường xuất khẩu là một đòi hỏi cấp bách .Vì vậy lựa chọn
đề
tài “Tự do hóa trong EU và khả năng thâm nhập thị trường EU của hàng hoá Việt
Nam", với sự hướng dẫn, giúp đỡ của Thầy giáo hướng dẫn em mong muốn được đóng
góp phần nào kiến thức của mình vào mục tiêu chiến lược mà Đảng và nhà nước đã
đề
ra.
Mục tiêu của đề tài: trên cơ sở đánh giá tiềm năng và triển vọng của thị trường
EU đối với hàng hoá của Việt nam,phân tích và đánh giá thực trạng xuất khẩu hàng
hoá sang EU, đề xuất một số giải pháp để nhằm thâm nhập hàng hoá của nước ta vào
thị trường này có hiệu quả.
Đề cương bao gồm bốn nội dung lớn :
Chương I : Lý luận chung về tự do hoá thương mại .
Chương II : Nghiên cứu thị trường EU .
Chương III : Khả năng thâm nhập hàng hoá của Việt nam vào thị trường EU.
Chương IV: Một số giải pháp chủ yếu để hàng hoá của Việt nam thâm nhập vào thị
trường EU.
Chương i: Lý luận chung về tự do hoá thương mại
i. một số lý thuyết về thương mại quốc tế
Có thể nói hoạt động buôn bán nói chung và buôn bán quốc tế nói riêng là hoạt
động
trao đổi hàng hoá, tiền tệ đã có từ lâu đời. Thương mại quốc tế có tính chất
sống còn vì
một lý do đó là ngoại thương mở rộng khả năng sản xuất và tiêu dùng của một quốc
gia. Thương mại quốc tế cho phép một nước tiêu dùng tất cả các mặt hàng với số
lượng nhiều hơn mức có thể tiêu dùng với ranh giới của khả năng sản xuất trong
nước
khi thực hiện một nền kinh tế khép kín, TMQT cũng cho phép khai thác các nguồn
lực
trong nước có hiệu quả, tranh thủ khai thác được mọi tiềm năng và thế mạnh về
hàng
hoá, công nghệ, vốn...của nước ngoài nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế đất
nước.
Như vậy con người đã sớm tìm ra lợi ích của TMQT, thế nhưng trong mỗi một hoàn
cảnh, điều kiện của mỗi quốc gia cũng như từng giai đoạn phát triển của các
phương
thức sản xuất thì hoạt động ngoại thương lại có những cách hiểu và vận dụng rất
linh
hoạt, khác nhau và có cả sự đối lập nhau. Chính vì vậy, đã có rất nhiều tư
tưởng, lý
thuyết được đưa ra để phân tích, giải thích về hoạt động TMQT. Quá trình nghiên
cứu
của các học giả cũng như các trường phái kinh tế khác nhau trong lịch sử phát
triển tư
tưởng về TMQT đã đưa ra những lý thuyết để lý giải vấn đề này, khẳng định những
tác
động của TMQT đối với sự tăng trưởng và phát triển theo trình tự nhận thức từ
thấp
đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ phiến diện đến toàn diện, từ hiện tượng
đến bản
chất. Để hiểu biết thêm về hoạt động TMQT, cũng như cách nhìn nhận về nó trong
những giai đoạn phát triển cụ thể, chúng ta cũng cần xem xét các nhà kinh tế
học, các
học giả trong mỗi thời kỳ đã đề cập và phân tích TMQT để đưa ra những hướng vận
dụng các lý luận về TMQT trong thực tiễn chính sách quốc gia về ngoại thương như
thế nào.
* Trước hết, là tư tưởng của chủ nghĩa trọng thương. Tư tưởng trọng thương xuất
hiện
và phát triển ở Châu Âu từ giữa thế kỷ XV, XVI, thịnh hành suốt thế kỷ XVII, tồn
tại
đến giữa thế kỷ XVIII. Các nhà trọng thương cho rằng chỉ có vàng bạc là thước đo
thể
hiện sự giàu có của một quốc gia và do vậy mỗi nước muốn đạt được sự thịnh vượng
phải làm sao gia tăng được khối lượng vàng bạc tích trữ thông qua việc phát
triển
ngoại thương và mỗi quốc gia chỉ có thể thu được lợi ích từ ngoại thương nếu giá
trị
của xuất khẩu lớn hơn giá trị của nhập khẩu. Được lợi là vì thanựgk dư của xuất
khẩu
so với nhập khẩu được thanh toán bằng vàng, bạc, mà chính nó biểu hiện của sự
giàu
có. Đối với một quốc gia không có mỏ vàng hay mỏ bạc chỉ còn cách duy nhất là
trông
cậy vào phát triển ngoại thương. Như vậy xuất khẩu là có lợi và nhập khẩu là có
hại
cho lợi ích quốc gia. Các nhà trọng thương cho rằng chính phủ phải tham gia trực
tiếp
vào việc trao đổi hàng hoá giữa các nước để đạt được sự gia tăng của cải của mỗi
nước. Việc trực tiếp tham gia này theo hai cách: trực tiếp tổ chức xuất khẩu và
đề ra
các biện pháp khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu. Từ đó đi tới chính sách
là
phải tăng cường xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu.
Đến giai đoạn cuối, trường phái trọng thương có thay đổi và cho rằng có thể tăng
cường mở rộng nhập khẩu nếu như qua đó thúc đẩy xuất khẩu nhiều hơn nữa. Mặc dù
có nội dung rất sơ khai và còn chứa đựng nhiều yếu tố đơn giản, phiến diện về
bản
chất của hoạt động ngoại thương, song đó là tư tưởng đầu tiên của các nhà kinh
tế học
tư sản cổ điển nghiên cứu về hiện tượng và lợi ích của ngoại thương. Lý luận của
trường phái trọng thương là một bước tiến đáng kể trong tư tưởng về kinh tế học.
ý
nghĩa tích cực của tư tưởng này đối lập với tư tưởng phong kiến lúc bấy giờ là
coi
trọng kinh tế tự cấp, tự túc. Ngoài ra nó đã đánh giá được tầm quan trọng của
xuất
khẩu và vai trò của chính phủ trong việc thúc đẩy xuất khẩu, điều tiết hoạt động
XNK
để đạt cán cân thương mại thặng dư thông qua các công cụ thuế quan, bảo hộ mậu
dịch
trong nước... Những tư tưởng này đã góp phần quan trọng vào việc mở rộng hoạt
động
thương mại quốc tế và làm cơ sở lý luận hình thành chính sách thương mại quốc tế
của
nhiều quốc gia.
*Lý thuyết lợi thế tuyệt đối của Adam Smith
Năm 1776, trong tác phẩm "Của cải của các dân tộc", A.Smith đã phê phán quan
niệm
coi vàng đồng nghĩa với của cải. Ông xuất phát từ một chân lý đơn giản là trong
thương mại quốc tế các bên tham gia đều phải có lợi vì nếu chỉ có quốc gia này
có lợi
mà quốc gia gia khác lại bị thiệt thì quan hệ thương mại giữa họ với nhau sẽ
không tồn
tại. Từ đó ông đưa ra lý thuyết cho rằng thương mại giữa hai nước với nhau là
xuất
phát từ lợi ích của cả hai bên dựa trên cơ sở lợi thế tuyệt đối của từng nước .
Theo Adam Smith, sức mạnh làm cho nền kinh tế tăng trưởng là do sự tự do trao
đổi
giữa các quốc gia, do đó mỗi quốc gia cần chuyên môn vào những ngành sản xuất có
lợi thế tuyệt đối. Một hàng hoá được coi là có lợi thế tuyệt đối khi chi phí sản
xuất tính
theo giờ công lao động quy chuẩn để sản xuất ra một đơn vị hàng hoá đó phải thấp
hơn
nước khác. Do vậy các quốc gia, các công ty có thể đạt được lợi ích lớn hơn
thông qua
sự phân công lao động quốc tế nếu quốc gia đó biết tập trung vào việc sản xuất
và xuất
khẩu những hàng hoá có lợi thế tuyệt đối, đồng thời biết tiến hành nhập khẩu
những
hàng hoá kém lợi thế tuyệt đối. Như vậy điều then chốt trong lập luận về lợi thế
tuyệt
đối là sự so sánh chi phí sản xuất của từng mặt hàng giữa các quốc gia.
A.smith và những nhà kinh tế học cổ điển theo trường phái của ông đều tin tưởng
rằng,
tất cả mọi quốc gia đều có lợi ích từ ngoại thương và đã ủng hộ mạnh mẽ tự do
kinh
doanh, hạn chế tối đa sự can thiệp của chính phủ vào hoạt động kinh doanh nói
chung,
trong đó có XNK. Ông cho rằng ngoại thương tự do là nguyên nhân làm cho nguồn
tài
nguyên của thế giới được sử dụng một cách có hiệu quả nhất và phúc lợi quốc tế
nói
chung sẽ đạt được ở mức tối đa. Cũng theo học thuyết của A.Smith, lợi thế tuyệt
đối
được quyết định bởi các điều kiện tự nhiên về địa lý, khí hậu và kỹ năng tay
nghề chỉ
nước đó mới có mà thôi, về tay nghề là nguyên nhân của mậu dịch quốc tế và quyết
định cơ cấu của mậu dịch quốc tế. Tuy vậy khác với tư tưởng trọng thương đã
tuyệt
đối hoá quá mức vai trò của ngoại thương, Adam Smith cho rằng ngoại thương có
vai
trò rất lơn nhưng không phải là nguồn gốc duy nhất của sự giàu có. Sự giàu có là
do
công nghiệp, tức là do hoạt động sản xuất đem lại chứ không phải do hoạt động
lưu
thông. Theo ông, hoạt động kinh tế (bao gồm cả hoạt động sản xuất và lưu thông)
phải
được tiến hành một cách tự do, do quan hệ cung cầu và biến động giá cả thị
trường
quy định. Sản xuất cái gì? sản xuất như thế nào? sản xuất cho ai? Đó là những
câu hỏi
cần được giải quyết ở thị trường.
* Lý thuyết lợi thế tương đối (lợi thế so sánh)
Lý thuyết lợi thế tuyệt đối trên đây của Adam Smith cho thấy một nước có lợi thế
tuyệt đối so với nước khác về một loại hàng hoá, nước đó sẽ thu được lợi ích từ
ngoại
thương, nếu chuyên môn hoá sản xuất theo lợi thế tuyệt đối. Tuy nhiên chỉ dựa
vào lý
thuyết lợi thế tuyệt .ối thì không giải thích được vì sao một nước có lợi thế
tuyệt đối
hơn hẳn so với nước khác, hoặc mọt nước không có mọt lợi thế tuyệt đối nào vẫn
có
thể tham gia và thu lợi trong quá trình hợp tác và phân công lao động quốc tế để
phát
triển mạnh các hoạt động thương mại quốc tế. Để khắc phục những hạn chế của lý
thuyết lợi thế tuyệt đối và cũng để trả lời cho câu hỏi trên, năm 1817, trong
tấc phẩm
nổi tiếng của mình "Những nguyên lý của kinh tế chính trị", nhà kinh tế học cổ
điển
người Anh David Ricardo đã đưa ra lý thuyết lợi thế so sánh nhằm giải thích tổng
quát, chính xác hơn về sự xuất hiện lợi ích trong thương mại quốc tế.
Cơ sở của lý thyết này chính là luận điểm của D.Ricardo về sự khác biệt giữa các
nước
không chỉ về điều kiện tự nhiên và tay nghề mà còn về điều kiện sản xuất nói
chung.
Điều đó có nghĩa là về nguyên tắc, bất kỳ quốc gia nào cũng có thể tìm thấy sự
khác
biệt này và chuyên môn hoá sản xuất những sản phẩm nhất định dù có hay không lợi
thế về tự nhiên, khí hậu, tay nghề. D.Ricardo cho rằng, trên thực tế lợi thế
tuyệt đối
cuả mỗi quốc gia không có nhiều, hơn nữa thực tế cho thấy là phần lớn các quốc
gia
tiến hành buôn bán với nhau không chỉ ở những mặt hàng có lợi thế tuỵệt đối mà
còn
đối với cả những mặt hàng dựa trên lợi thế tương đối. Theo ông mọi nước đều có
lợi
khi tham gia vào phân công lao động quốc tế trên cơ sở khai thác lợi thế tương
đối,
ngoại thương cho phép mở rộng khả năng tiêu dùng của một nước. Nguyên nhân chính
là do chuyên môn hoá sản xuất một số loại sản phẩm nhất định của mình để đổi lấy
hàng nhập khẩu của các nước khác thông qua con đường thương mại quốc tế vì mỗi
nước đó đều có lợi thế so sánh nhất định về một số mặt hàng.
Liên quan đến lợi thế so sánh có một khái niệm rất cơ bản trong kinh tế học đã
được
D.Ricardo đề cập đến đó là chi phí cơ hội. Nó là chi phí bỏ ra để sử dụng cho
một mục
đích nào đó.
Như vậy có thể kết luận rằng, một trong những điểm cốt yếu nhất của lợi thế so
sánh là
những lợi ích do chuyên môn hoá sản xuất, mặt khác thương mại quốc tế phụ thuộc
vào lợi thế so sánh chứ không phải là lợi thế tuyệt đối. Lợi thế so sánh là điều
kiện cần
và đủ đối với lợi ích của thương mại quốc tế. Lợi thế tuyệt đối của A.Smith là
một
trường hợp đặc biệt của lợi thế so sánh. Về cơ bản, lý thuyết của D.Ricardo
không có
gì khác với A.smith, nghĩa là ông ủng hộ tự do hoá XNK, khuyến cáo các chính phủ
tích cực thúc đẩy, khuyến khích tự do hoá thương mại quốc tế.
*.Phát triển lý thuyết lợi thế tương đối-Mô hình Hechscher-Ohlin
Lý thuyết lợi thế tương đối của D.Ricardo sang đầu thế kỷ XX, sau chiến tranh
thế giới
lần thứ nhất đã thể hiện những hạn chế của nó. Lợi thế do đâu mà có? Vì sao các
nước
khác nhau lại có phí cơ hội khác nhau?...Lý thuyết lợi thế tương đối của
D.Ricardo đã
không giải thích được những vấn đề trên. Để khắc phục những hạn chế này, hai nhà
kinh tế học Thuỵ Điển: Eli Hecksher (1879-1852) và B.Ohlin(1899-1979) trong tác
phẩm: “Thương mại liên khu vực và quốc tế”, xuất bản năm 1933 đã phát triển lý
thuyết lợi thế tương đối của D.Ricardo thêm một bước bằng việc đưa ra mô hình
H-O
(tên viết tắt của hai ông) để trình bày lý thuyết ưu đãi về các nguồn lực sản
xuất vốn có
(hay lý thuyết H-O). Lý thuyết này đã giải thích hiện tượng TMQT là do trong một
nền kinh tế mở cửa, mỗi nước đều hướng tới chuyên môn hoá các ngành sản xuất mà
cho phép sử dụng nhiều yếu tố sản xuất đối với nước đó là thuận lợi nhất. Nói
cách
khác, theo lý thuyết H-O, một số nước có lợi thế so sánh hơn trong việc xuất
khẩu một
số sản phẩm hàng hoá của mình là do việc sản xuất những sản phẩm hàng hoá đó đẫ
sử
dụng được những yếu tố sản xuất mà nước đó được ưu đãi hơn so với nước khác.
Chính sự ưu đãi về các lợi thế tự nhiên của các yếu tố sản xuất này (bao gồm:
vốn, lao
động, tài nguyên, đất đai, khí hậu...) đã khiến cho một số nước có chi phí cơ
hội thấp
hơn (so với việc sản xuất các sản phẩm hàng hoá khác) trong sản xuất những sản
phẩm
nhất định.
Như vậy cơ sở lý luận của lý thuyết H-O vẫn chính là dựa vào lý thuyết lợi thế
so sánh
của Ricardo nhưng ở trình độ cao hơn là đã xác định được nguồn gốc của lợi thế
so
sánh chính là sự ưu đãi về các yếu tố sản xuất (các nguồn lực sản xuất ). Và do
vậy, lý
thuyết H-O còn được gọi là “lý thuyết lợi thế so sánh các nguồn lực sản xuất vốn
có”.
Thuyết này đã kế thừa và phát triển một cách logic các yếu tố khoa học trong lý
thuyết
lợi thế so sánh của Ricardo và các lý thuyết cổ điển trước đó về TMQT.
Tuy còn có những khiếm khuyết lý luận trước thực tiễn phát triển phức tạp của
TMQT
ngày nay, song quy luật H-O vẫn là quy luật chi phối động thái phát triển của
TMQT
và được nhiều quốc gia vận dụng trong hoạch định chính sách TMQT. Sự lựa chọn
các
sản phẩm xuất khẩu phù hợp với các lợi thế so sánh về các nguồn lực sản xuất vốn
có
theo thuyết H-O sẽ là điều kiện cần thiết để các nước đang phát triển có thể
nhanh
chóng hội nhập vào sự phân công lao động và hợp tác TMQT, và trên cơ sở lợi ích
thương mại thu được sẽ thúc đẩy nhanh sự tăng trưởng và phát triển kinh tế ở
những
nước này.
*. Thuyết chu kỳ sống sản phẩm
Thuyết chu kỳ sống sản phẩm do K.Verum đề xướng năm 1966, sau đó được nhiều
học giả phát triển và ứng dụng trong nhiều lĩnh vực, trong đó lý thuyết TMQT.
Nội dung cơ bản của học thuyết này như sau: rất nhiều sản phẩm phải trải qua một
chu
kỳ sống bao gồm bốn giai đoạn: giới thiệu; phát triển; chín muồi và suy thoái.
Để kéo