Luận văn Thạc sĩ Văn học: Thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn Đoàn Lê
4,018
283
122
68
nhầm lẫn đó, Đoàn Lê đã tái hiện cả một thế giới cõi âm sinh động như muôn
mặt của cuộc sống cõi người. Ở đó những người chết, những hồn ma vẫn sống
trong thế giới riêng song song với thế giới của người sống, họ vẫn nhìn nghe
ngóng và phê phán chuyện của người sống y hệt như khi còn sinh thời. Họ cũng
giỏi hóng chuyện, hiều kỳ trước những sự việc lạ. Cuộc sống của cõi ma nơi
nghĩa địa giống hệt cuộc sống của cõi người nơi trần thế, vẫn là chuyện “ma cũ
bắt nạt ma mới”, chuyện hối lộ, đút lót... Thông thường con ma mới đến sẽ bị
làm tình làm tội vài đêm đầu, họ bị lục tra lý lịch, ra mắt thổ thần, thổ địa,
số của
nả mang theo phải biếu các chức sắc, khao đãi lân bang hàng xóm. Nghĩa là
ngay cả khi đã chết con người ta vẫn không thoát khỏi cảnh phân thứ bậc, đẳng
cấp. Ở khu lăng mộ ấy, đứng đầu gồm có ba ông: ông Quản trị hành chính, ông
Cán bộ tổ chức, ông Cán bộ hộ khẩu. Đi theo họ là cả đàn, cả đống ma lặng lẽ
bám sát thành một khối đông nghịt, óng ánh phát sáng. Họ đều lầm tưởng ma
mới là một thiếu tướng thật nên ngay cả ông Quản lý hành chính thường ngày
hống hách là thế mà nay cũng dở giọng uốn éo, khúm núm, hạ giọng tha thiết
mời ma mới lên gặp mặt. Sự thật ma mới là một tay thợ điện bậc ba mới về hưu
khi đi lĩnh tiền ở quỹ tiết kiệm đã bị chen ngã đến chết rồi bị đưa vào nhà xác
bệnh viện Việt Xô, cạnh xác ông thiếu tướng. Vì sự tắc trách vô tình của thân
nhân vị tướng khi phó thác việc nhập quan cho người coi nhà xác nên mới gây
ra sự nhầm lẫn đáng tiếc ấy. Đáng ra anh ta phải trực tiếp làm cái việc hiếu
nghĩa cho cha theo đúng phong tục cổ truyền, tự tay chăm sóc hình hài ruột thịt
thì anh lại giao phó cho một kẻ tối mắt vì tiền. Cũng vì anh quên đưa cái khoản
“lót tay tiêu cực phí” cho gã nhà xác nên gã đã cố tình gây ra vụ tráo đổi xác
đầy
tính bi hài này. Và câu chuyện nhầm lẫn hết sức phi lí ấy chẳng biết sẽ đi đến
đâu nếu anh con trai người thợ điện không đi lùng sục khắp các đám tang quanh
vùng để tìm cha. Khi biết cha mình bị người ta nhầm là thiếu tướng và cử hành
tang lễ rất long trọng, anh đã kiên quyết đòi cha về và không cho kẻ nào đụng
đến linh cữu của cha để lấy lại quan tài kính và các thứ phụ trang của thiếu
tướng. Vì vậy ông “thiếu tướng rởm” mới được đưa đến chôn ở khu nghĩa địa
này và gây sự hiếu kỳ cho tất thảy đám ma trong khu nghĩa địa.
Câu chuyện cứ đan xen thực- ảo, cõi người- cõi ma lẫn lộn. Cõi người
chính là hiện thực nực cười chua chát của việc nhầm lẫn thân nhân vị tướng.
Một người quyền cao chức trọng là thế, một vị quan chức nhà nước tai to mặt
69
lớn được trọng vọng như vậy mà thực chất khi chết lại hết sức cô đơn, cô độc.
Ông ta đã bị lãng quên ngay từ giây phút nằm lại nơi nhà xác lạnh lẽo. Đến
nghĩa cử cuối cùng là được người thân chăm chút hình hài cho sạch sẽ, thơm tho
trước khi sang thế giới bên kia ông cũng không được hưởng. Về nghi thức, tang
lễ của ông được tổ chức cực kỳ long trọng, linh đình, có cả một ban bệ đến vài
chục người lo tổ chức đám tang, có cả một vị trung tướng lên đọc điếu văn bằng
giọng nghẹn ngào đến rơi nước mắt, có hàng đoàn người quân phục uy nghiêm
đến viếng, có lính uy nghi bồng súng, chung quanh đèn nến tựa sao sa, cờ quạt
buông rủ. Đăc biệt ông thiếu tướng có một gia quyến đuề huề: hai bà vợ và một
lũ con cháu vài chục người khăn xô mũ mấn trắng lóa sắp hàng một dãy bên
quan tài. Nghiã là đây là một đám tang cấp nhà nước cực kỳ to tát. Nhưng
dường như cả thân quyến lẫn bạn bè thân bằng cố hữu đều quá chú trọng đến
hình thức lễ nghi với nhau mà không một ai thực tâm để ý đến người quá cố.
Bởi vậy từ khâu măc quần áo cho ông thiếu tướng đến khâu chuyển linh cữu đến
hội trường, rồi viếng thăm không một ai nhìn đến dung nhan người quá cố lấy
một lần. Và vì vậy không một ai thắc mắc về sự thay đổi dung nhan người quá
cố, không một ai biết sự nhầm lẫn đã xảy ra. Ai cũng cố tỏ ra thương tiếc thành
thực, hai bà vợ và đám con cái “đang mải nhìn vào nỗi đau trong lòng, hay mải
giữ lễ với ông cả bà lớn đến viếng nên chưa một lần liếc mắt đến tôi? Hay tôi
không phải tôi nữa?”. Cứ lũ lượt những đoàn người sang trọng với những bộ
mặt buồn bã diễu hành, những cặp mắt âu sầu lơ đãng lướt qua linh cữu tưởng
chừng bất tận mà tịnh không một ai nhận ra sự nhầm lẫn nực cười ấy. Người
chết nằm trong quan tài chắc hẳn thấy tuyệt vọng, bất mãn, chua chát, đau đớn
và cô đơn lắm khi ở giữa đám đông, khi mình là chủ nhân của buổi lễ mà không
một ai thực tâm để ý đến mình. “Họ chỉ bận lo kê cho chắc, đặt hoa cho đẹp,
hương đốt cho đượm, tịnh không ai nghi ngờ chút gì”. Đến nỗi người bị nhầm
lẫn thấy ngán ngẩm, bất bình thay cho ông thiếu tướng: “Ông thiếu tướng kia ơi,
nếu ông hóa ra cái xác vô thừa nhận cũng đừng tiếc rẻ oán trách tôi. Ở đây
không ai cần ông, không ai thực sự tha thiết đến ông. Không phải tôi tranh mất
vinh hạnh mà chính thực tôi gánh chịu nỗi bất hạnh cho ông đó”. Thái độ của
người đóng vai nhầm lẫn cũng chính là thái độ của nhà văn trước những vấn đề
của hiện thực xã hội đương thời. Hiện thực này phải chăng cũng là sản phẩm của
nền kinh tế mở khi mà tình người ngày một ít đi. Người ta thích quan tâm đến vẻ
70
bề ngoài, trọng hình thức hơn là nội dung bên trong. Người ta thích thể hiện cái
vẻ hào nhoáng để người khác nhìn vào hơn là phải sống thực với lòng mình.
Đấy cũng là hiện thực xô bồ của tiền tài danh vọng, chức tước đầy chua chát
trong xã hội hiện đại.
Còn thế giới ảo trong truyện chính là cõi ma. Nơi đó những hồn ma cũng
đi lại nói năng, kháo chuyện như khi họ còn sống. Cõi ma cũng có luật lệ, lề
lối,
đẳng cấp, thứ bậc. Họ cũng sống và sinh hoạt theo họ hàng, làng xóm…Nghĩa là
mọi thứ của họ giống hệt như cõi người. Nói cách khác thế giới nhân vật ảo
trong cõi ma thực ra là để nói cõi người nhằm tô đậm thêm hiện thực cuộc sống,
hiện thực xã hội mà nhà văn hướng đến. Đó là hiện thực về tình thân, tình làng
nghĩa xóm, cả những vấn đề muôn thủa “ma cũ bắt nạt ma mới”, hiện thực về
thứ hạng, cấp bậc trong xã hội, cả hiện thực nóng bỏng về chuyện tham nhũng,
đút lót và đủ các khoản phí… Tất cả những vấn đề hiện thực mà Đoàn Lê phản
ánh trong tác phẩm đều là những vấn đề nóng hổi đang tồn tại trong xã hội hiện
đại gây nhức nhối lòng người. Những vấn đề ấy được nhà văn thể hiện dưới thủ
pháp lạ hóa-cõi âm khiến câu chuyện trở nên lôi cuốn, hấp dẫn hơn. Nói như lời
nhận xét của nhà văn Nguyễn Thị Ngọc Tú thì “Đoàn Lê nghi có mầm bệnh ung
thư trong người, người ốm mới dám viết những chuyện ma quái khủng khiếp
như vậy”.
Khi xây dựng nhân vật, Đoàn Lê rất chú trọng đến yếu tố kỳ ảo, dù đó là
nhân vật hiện thực hay nhân vật ảo. Với nhân vật hiện thực, yếu tố kỳ ảo xuất
hiện dưới dạng những giấc mơ hoặc những niềm tin tâm linh. Nhân vật của
Đoàn Lê thường đeo đẳng những giấc mơ về hạnh phúc với niềm tin tâm linh sẽ
có điều kỳ diệu xuất hiện. “Chờ nhật thực” là truyện như thế. Bằng trí tưởng
tượng phong phú, nhà văn đã sâu chuỗi một câu chuyện tình qua nhiều kiếp ở
hai phương trời khác nhau. Câu chuyện được bắt đầu bằng một đêm nhân vật
“tôi” “Chờ nhật thực”. Anh thắp hương trên bàn thờ người trinh nữ đoản mệnh
của anh và tin tưởng chắc chắn rằng nàng sẽ về cùng anh đón nhật thực. Rồi
trong không gian đượm mùi hương mơ màng, anh tưởng tượng kiếp trước của
anh và nàng. Nàng chính là một nữ tướng con một vị võ quan đã quên mình cứu
công chúa.. Trước khi quên thân nàng không khỏi day dứt về tấm tình mà chàng
đã dành cho mình, nàng cầu xin trời đất kiếp sau cho mình được đền đáp chàng.
Cảm động về sự thủy chung đó, trời đất đã cho họ gặp lại nhau dưới hình hài
71
hôm nay. “Em cũng là Hoa như ngày xưa, em chỉ được hưởng dương đến năm
19 tuổi, xin chàng đừng thương tiếc một kiếp trinh nữ bạc phận…Duyên số của
em với chàng là thế. Chúng ta khao khát mãi trong vòng luân hồi nhân gian.”
Niềm tin tâm linh giống như một cứu cánh tinh thần giúp con người vượt qua
nỗi cô đơn và tiếp tục hy vọng vào cuộc sống, vào tình yêu. Yếu tố huyền ảo
được sử dụng giúp nhà văn đi sâu khám phá thế giới tinh thần hết sức trừu tượng
của con người đồng thời cũng tô đậm những yếu tố hiện thực và lịch sử của tác
phẩm.
Thế giới nhân vật ảo của Đoàn Lê còn một kiểu nhân vật đặc biệt gần như
là nhân vật dị hình. Khi xây dựng kiểu nhân vật này, Đoàn Lê đã có sự gặp gỡ
với truyện cổ dân gian (mô típ xấu xí dị dạng ở Sọ Dừa, Chàng Cóc, Trương
Chi). Đặc điểm của loại nhân vật này là ngoại hình xấu xí. Đó là những con
người bị biến dạng về hình hài do sức ép của hoàn cảnh. “Lên ruồi” là truyện
ngắn tiêu biểu cho kiểu nhân vật này. Truyện kể về một nghệ sỹ nhào lộn có tuổi
ly dị vợ, muốn xin cấp một căn hộ nhưng không được giải quyết và bị biến
thành ruồi. Từ đó anh ta sống kiếp ruồi, nhưng trong cả kiếp sống này anh vẫn
không thoát được mối lo về chỗ ở, phụ nữ và vấn đề sinh tồn. Bằng trí tưởng
tượng phong phú, Đoàn Lê đã tạo ra một thế giới những nhân vật tưởng tượng
sinh động. Ở đó toàn bộ thế giới người, dường như được nhà văn bê y nguyên
sang thế giới ruồi để phản ánh nhiều vấn đề nhức nhối của hiện thực xã hội: vấn
đề nhà đất và rộng hơn là vấn đề cư trú của con người hiện đại. Trong thời buổi
đất chật, người đông, kiếm được một chỗ chui ra chui vào không phải dễ. Thậm
chí đến hơn 40 năm trong nghề diễn viên xiếc, già nửa đời người đã phấn đấu và
cống hiến cho nhà nước, nay vì li thân vợ không có chỗ ở người nghệ sỹ muốn
xin cấp nhà ở mà dăm lần bảy lượt không xong, ông đề đơn lên tận Bộ trưởng
cũng không được giải quyết còn bị biến thành ruồi. Trong khi đó biết bao nhiêu
kẻ lợi dụng chức quyền được cấp đến ba lần nhà ở. Trong kiếp sống Ruồi, người
nghệ sỹ ấy tưởng sẽ thoát khỏi vòng thống khổ của đơn từ nhà đất, cùng hàng
loạt những mối dây giàng buộc phức tạp khác của kiếp nhân sinh nhọc nhằn. Ai
dè, trong kiếp ruồi ông vẫn phải tham gia các đại hội – Đại hội khối ruồi nhà
đất
– nơi tụ họp những người trong giới văn nghệ sỹ nghèo kiết của ông, nơi ấy tất
cả mọi người đều không có nổi một chỗ chui ra chui vào, đâm đơn xin xỏ khắp
nơi và rồi đều bị biến thành ruồi tuốt. Trong kiếp ruồi tất thảy họ đều bất bình
và
72
tìm cách trả thù theo cách của họ những kẻ “sâu mọt” chuyên lợi dụng chức
quyền để trục lợi trong khi biết bao người đã cống hiến cả cuộc đời mình cho
nhà nước mà vẫn không có nổi một chỗ dung thân. “Ruồi nhào lộn” ban đầu
tưởng rằng không còn một nhu cầu vật chất nào đè nặng tâm tư, cũng không có
chuyện lừa lọc phụ bạc, ngoại tình ly hôn, oán trách, do vậy sẽ không có tòa án,
nhà tù ruồi, không có chiến tranh trận mạc, chỉ còn mỗi việc sống vui vẻ. Nhưng
rồi khi nghĩ đến quy luật sinh tồn trong tự nhiên con nọ ăn thịt con kia, với họ
nhà ruồi ban ngày tránh các loài chim chóc trên cao, cóc nhái, thằn lằn ở dưới
đất, bụi cỏ, ban đêm dơi nhện thạch sùng thì anh ta lại ớn lạnh cả xương sống.
Rốt cục ngay cả khi sống trong kiếp ruồi anh ta vẫn cần một nơi trú ẩn an toàn.
Và vẫn cần có đàn bà bên cạnh. Thật là một cái vòng lẩn quẩn. Trong kiếp ruồi
anh còn gặp Ruồi thứ trưởng, Ruồi trưởng phòng, Ruồi giám đốc, Ruồi Bộ
trưởng.. “không chóng thì chày ruồi ra chật đất. Chật đất ruồi, rồi chính anh
lại
phải chuyển sang kiếp khác”.
Viết về thế giới ruồi, Đoàn Lê đã bê nguyên xi cõi người lên cõi ruồi. Bởi
vậy tất cả những rắc rối mà người nghệ sỹ nhào lộn gặp phải trong cõi người thì
khi lên cõi ruồi anh lại phải đối mặt với chính những vấn đề ấy: đó là vấn đề
nhà
ở, vấn đề phụ nữ, vấn đề mưu sinh. Cõi người anh từng thấy rất nhiều những
chuyện tiêu cực, chuyện tham nhũng của những kẻ lạm dụng chức quyền thì lên
cõi ruồi anh lại gặp họ cũng tham lam vô lý như thế.
Thông qua hệ thống nhân vật dị hình Đoàn Lê đã đặt ra và giải quyết
được rất nhiều vấn đề hiện thực đời sống, hiện thực xã hội làm nhức nhối lòng
người. Rất nhiều nhân vật trong tác phẩm khiến nhiều kẻ giật mình, tái mặt khi
nhìn thấy bóng dáng của mình trong đó. Ở phương diện này tác phẩm của Đoàn
Lê có ý nghĩa như một hồi chuông cảnh tỉnh với những kẻ bàng quan vô trách
nhiệm trước lời kêu cứu của con dân, đặc biệt là những kẻ chuyên lợi dụng chức
quan để tham nhũng, thao túng đất đai trục lợi. Đồng thời cũng thể hiện sự đồng
cảm sẻ chia chân thành với cuộc sống còn bộn bề những khó khăn, thiếu thốn
của giới văn nghệ sỹ đương thời.
Xây dựng nhân vật ảo, nhà văn đã sử dụng các thủ pháp huyền ảo. Thủ
pháp này được nhà văn “mượn” từ hình thức nghệ thuật của văn học dân gian.
Những yếu tố flolklore được nhà văn sử dụng khá đậm đặc và hiệu quả, trong đó
môtíp biến hóa được nhà văn sử dụng thành công. Đó chính là sự chuyển kiếp
73
của nhân vật: từ kiếp người chuyển sang kiếp ruồi. Sự chuyển kiếp này giống
với những truyện cổ tích về các con vật (Sự tích con muỗi). Nhưng khác với
những truyện cổ, sự chuyển kiếp này là sự giải thoát khỏi những rắc rối, khổ sở
đời thường của nhân vật hay đậm thêm một hiện thực nào đó chứ không phải để
giải thích nguồn gốc một loài vật như trong truyện cổ tích.
Tóm lại khi khắc họa nhân vật ảo với thủ pháp ảo, nhà văn đã làm cho ý
nghĩa cuả tác phẩm nâng lên nhiều lần. Vì vậy cùng viết về một hiện thực như
thế nhưng truyện của Đoàn Lê bao giờ cũng có sức cuốn hút lay động lòng
người. Cái không khí hư hư thực thực vừa thể hiện sinh động hiện thực lại vừa
giúp nhà văn mở rộng, khắc sâu những tầng ý nghĩa của tác phẩm.
74
CHƢƠNG III.
MỘT SỐ PHƢƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT TRONG TRUYỆN NGẮN ĐOÀN LÊ
1. Cốt truyện
Cốt truyện là cái lõi diễn biến của hành động truyện từ lúc xảy ra đến khi
kết thúc, là cái tóm tắt những điểm chủ yếu làm thành một câu chuyện ngắn hơn
nhiều lần so với toàn tác phẩm. Cốt truyện giúp nhà văn tổ chức, sắp xếp các sự
kiện biến cố theo một trình tự hợp lý để thể hiện chủ đề và tư tưởng của tác
phẩm. Nhờ cốt truyện mà truyện có khả năng chứa đựng một nội dung khá lớn
mà không bị rơi vào tình trạng rối rắm. Cốt truyện còn là một hệ thống những
biến cố, sự kiện được hình thành từ các hành động nhân vật, từ sự vận động của
không gian thời gian của cái được nhà văn miêu tả. Cốt truyện được tạo nên là
do hành động của các nhân vật. Có hành động bên ngoài và cũng có hành động
bên trong nên cũng có cốt truyện sự kiện và cốt truyện tâm lý. Trong tác phẩm,
cốt truyện thực hiện một vai trò đặc biệt: liên kết các mối quan hệ giữa các
nhân
vật, tổ chức sắp xếp các sự việc xảy ra trong truyện. Ở dạng này hay dạng khác
bao giờ cốt truyện cũng là cái “cốt lõi của văn tự sự”. Cốt truyện của truyện
ngắn có nhiều điểm khác biệt so với cốt truyện của tiểu thuyết. Truyện ngắn gần
với tiểu thuyết ở hình thức tự sự tái hiện cuộc sống đương thời nhưng điểm khác
biệt giữa hai thể loại này là ở “cách nắm bắt cuộc sống của thể loại, tác giả
truyện ngắn thường hướng tới sự khắc họa một hiện tượng, phát hiện một nét
bản chất trong quan hệ nhân sinh hay đời sống tâm hồn con người”[59, 240].
Truyện ngắn tự nó đã hàm chứa những điều thú vị, sâu sắc trong hình thức nhỏ
xinh, gọn ghẽ. Đây là thể loại văn học có nội khí “một lời mà thiên cổ, một gợi
mà trăm suy”. Đó là một “thể loại có đẳng cấp tinh vi và toàn bích” của văn học.
Cốt truyện của truyện ngắn cũng phụ thuộc khá nhiều vào hình thức thể loại. Vì
ngắn nên cốt truyện phải đảm bảo tính trọn vẹn của nội dung lẫn hình thức.
Muốn vậy, cốt truyện của truyện ngắn ngoài đặc điểm nổi bật là hấp dẫn, nó còn
có chức năng “nhận ra cái gì đó”[59, 240]. Từ những năm 1986, thực tiễn văn
học đã chứng minh cái gây nên sự hấp dẫn lôi cuốn ở truyện ngắn không phải là
tình huống ly kỳ, độ căng của những cảnh ngộ éo le mà ở chỗ truyện ngắn đã
hướng đến những tình huống đời thường, đi vào chiều sâu tâm hồn con người.
Chính những bước ngoặt của trạng thái tâm linh, những xung đột cá nhân đã trở
thành yếu tố thúc đẩy cốt truyện. Truyện ngắn từ sau đổi mới có khuynh hướng
75
tự nới rộng, tự vượt thoát khỏi khung thể loại. Nó phong phú hơn trong hình
thức diễn đạt, đa dạng hơn ở nội dung phản ánh, tự do hơn ở cách thức dựng
truyện. Có những cốt truyện đầy kịch tính. Cũng có những cốt truyện nghèo sự
kiện nhưng giầu tâm trạng. Có những cốt truyện rõ ràng, có mở đầu, có kết thúc.
Cũng có những cốt truyện có cấu trúc lỏng lẻo, lắp ghép, kết thúc mở. Có những
truyện phản ánh hiện thực cuộc sống hôm nay, cũng có những truyện có cốt
truyện huyền ảo, cổ tích…Tất cả những dạng thức ấy đều nhằm phân tích lý giải
những vấn đề phức tạp của con người và của cuộc sống hiện đại.
Cốt truyện trong truyện ngắn của Đoàn Lê không nằm ngoài những đặc
điểm của cốt truyện trong truyện ngắn hiện đại. Truyện của bà đa số là những
truyện hiện đại nên bên cạnh những yếu tố truyền thống, cách xây dựng cốt
truyện của nhà văn còn có những yếu tố mới mẻ, cách tân. Càng về sau bà càng
xây dựng những truyện ngắn theo mạch suy ngẫm tình cảm của con người theo
kiểu cốt truyện tâm lý, cốt truyện triết lý nhân sinh. Khảo sát toàn bộ truyện
ngắn của Đoàn Lê thấy có hai kiểu cốt truyện cơ bản nhà văn thường sử dụng:
truyện có cốt truyện và cốt truyện dòng ý thức.
1.1. Truyện có cốt truyện (cốt truyện truyền thống)
Cốt truyện có vai trò vô cùng quan trọng trong sáng tác của nhà văn. Cốt
truyện thể hiện tài năng, phong cách, quan niệm nghệ thuật của mỗi nhà văn.
Cốt truyện góp phần tạo nên sức mạnh thuyết phục của chủ đề và tư tưởng tác
phẩm. Nếu cốt truyện sơ lược nhàm chán , nhạt nhẽo thì sự hoạt động của tính
cách cũng trở nên buồn tẻ, chủ đề tưởng của tác phẩm sẽ trở thành một thứ lý
thuyết suông, hoàn toàn áp đặt với người đọc. Bởi thế sức hấp dẫn chủ yếu của
tác phẩm chính là ở cốt truyện: ở các sự kiện, biến cố, tình tiết của truyện.
Trong
tác phẩm, hệ thống sự kiện được xây dựng theo yêu cầu của việc khẳng định rõ
nét các tính cách qua một quá trình diễn biến của cuộc sống. Những diễn biến đó
có thể yên ả, bình lặng, là sự đấu tranh giữa các mặt đối lập của cuộc sống: cái
xấu và cái tốt, cái cũ và cái mới, sự sống và cái chết, tích cực và tiêu
cực…Cuộc
đấu tranh đó diễn ra trong từng con người, từng sự vật, hiện tượng, có khi giữa
các nhóm người, giai cấp dân tộc. Đó chính là các xung đột xã hội. Miêu tả một
cách nghệ thuật sự vận động của những tính cách qua những xung đột xã hội ấy
để nêu bật chủ đề- tư tưởng của tác phẩm. Đối với những truyện có cốt truyện
thì việc chỉ ra được cốt truyện để làm nổi bật chủ đề tư tưởng, những điều mà
76
nhà văn gửi gắm qua mỗi trang viết của mình lại càng cần thiết hơn. Nói như
nhà văn Nga A. Tônxtôi thì “Cần tìm cho được cốt truyện. Đôi khi xảy ra trong
chốc lát vài giây thôi nhưng giống như một thứ thuốc thử đậm đặc, những cốt
truyện hay có khả năng khiến cho những tư tưởng, những quan sát và hiểu biết
chồng chất, hỗn loạn hiện ra thành lớp lang rành mạch” [67, 103]. Đa số truyện
ngắn của Đoàn Lê là truyện có cốt truyện. Đây là kiểu truyện truyền thống rất
phổ biến trong văn học của ta. Tuy nhiên kiểu cốt truyện này khi đi vào sáng tác
của Đoàn Lê không còn cứng nhắc, nghiêm ngặt kiểu có đầu cuối rõ ràng nữa
mà đã biến đổi hết sức sinh động, linh hoạt nhằm phát huy tối ta vai trò của nó
trong việc bộc lộ tính cách, tái hiện các xung đột xã hội, thể hiện tư tưởng
nghệ
thuật của nhà văn. Bởi thế trong những cốt truyện này, nhà văn thường tạo ra
được hệ thống các sự kiện, biến cố có kịch tính, diễn biến theo trình tự của sự
kiện để tâm lý tính cách nhân vật được bộc lộ. Truyện ngắn Đoàn Lê hấp dẫn
người đọc không phải ở những tình huống gay cấn, ly kỳ mà ở chính những vấn
đề nảy sinh trong cuộc sống con người thời đổi mới. Đó là sự thay đổi nếp cảm,
nếp nghĩ, thói quen, lối sống của con người do sự hiện đại hóa của đồ vật, vấn
đề sốt đất do mở đường cao tốc, phá hang làm khu du lịch, cơn sốt lấy chồng
ngoại, vấn đề tình yêu, hạnh phúc, vấn đề mưu sinh...( Xóm Chùa Ông, Đất xóm
Chùa, Trinh tiết xóm Chùa, A Tourism xóm Chùa, Thành hoàng làng xố số, Tình
Guột, Dấu hỏi gửi thượng đế…)
Truyện ngắn Xóm Chùa Ông được xây dựng dựa trên một chuỗi những sự
kiện làm biến đổi nếp cảm, nếp nghĩ, tâm lý thói quen của người dân nơi một
xóm nhỏ ở ngoại ô thành phố cũng như ở tất cả những vùng quê nghèo dưới sự
tác động của nền kinh tế mở. Sự kiện đầu tiên gây trấn động tâm lý người dân
xóm Chùa là sự xuất hiện của chiếc cát-sét của ông Sĩ Duệ nơi xóm Chùa Ông.
Chiếc cát-sét tham dự vào nhiều hoạt động của đời sống, trước hết là trong đám
cưới, tiếp đến là đám ma với đủ các băng khóc cha khóc mẹ, băng dành cho con
rể, con dâu, con nuôi, cả những băng chuông mõ, tụng kinh niệm phật dành cho
đối tượng đang thập tử nhất sinh... Tiếp đến là sự xuất hiện chiếc ti vi đầu
tiên
nơi doanh trại bộ đội bên kia sông mang về. Dù cách xa đến ba cây số nhưng
dân thôn cả xóm không đêm nào không lũ lượt kéo nhau đi xem khiến xóm
Chùa Ông vắng ngắt vắng ngơ. Sự kiện đặc biệt làm xôn xao cả làng trên xóm
dưới là sự kiện bà Chiu bán rượu nếp trên phố bị người tây móc vào và được đền
77
bù tới 400 đô la khiến nhiều người ao ước được như bà. Câu chuyện khép lại
bằng hình ảnh lão Bạch mù- người duy nhất của xóm Chùa không bị cuốn vào
cơn lốc của sự đổi thay mang cây đàn bầu ra gẩy khúc nhạc quê hương. Cốt
truyện là một chuỗi những sự kiện được kể bằng giọng văn ngỡ như bình thản,
lạnh lùng mà đằng sau chứa bao bùi ngùi tiếc nuối của nhà văn. Còn đâu xóm
Chùa ngày xưa nữa, Xóm Chùa giờ đã thay đổi từ cội rễ, không còn cảnh sống
bình yên thủa trước nữa. Kết thúc mở của tác phẩm gợi cho người đọc biết bao
suy tư, trăn trở.
Trong truyện Đất xóm Chùa, cốt truyện lại xoay quanh việc tái hiện cơn
“sốt đất” của xóm Chùa do việc mở đường cao tốc qua làng. Câu chuyện bắt đầu
bằng sự kiện cô gái lai tây tên Mừng chuyên hủ hóa với trai làng rồi quy đổi ra
gạo. Đó là kết quả của nền kinh tế thị trường với liên doanh thương mại, mọi thứ
phải được trả giá sòng phẳng, không có tiền thì quy đổi ra gạo. Rồi tác giả quay
ngược thời gian về trước ba năm để kể về cơn sốt đất của xóm Chùa. Nó được
bắt đầu bằng việc hai anh chàng trên tỉnh về đo đạc cắm cột mốc nói rằng đường
cao tốc sẽ đi qua làng, thế là cả làng rộ lên. Cả làng ngã ngửa người ra khi
thằng
Hà bán đầm mực của làng với giá cắt cổ. Chỉ trong vòng nửa tháng cả làng mắc
dịch “sốt đất”: bố con, vợ chồng, anh em, hàng xóm láng giềng đánh cãi chửi
nhau tranh chấp vài tấc đất. Không ai thiết làm ăn gì nữa, chỉ nháo nhác chuyện
mua bán đất. Nhà nào cũng cố co lại cho thật bé, thật hẹp để dư tí đất bán.
Trong
chuỗi những sự kiện đó nhà văn chọn một sự kiện tiêu biểu lấy làm điểm nhấn
để làm nổi bật chủ đề-tư tưởng của thiên truyện. Đó là câu chuyện cuộc đời lão
Hớn- người chuyên sản xuất tiền vàng đô la âm phủ. Lão nghèo nhưng có hẳn
bốn bà vợ và mười hai người con. Trong cơn sốt đất lão “gom cư dân” lên hết
nhà trên để cắt nhà ngang cùng nửa khoảnh sân bán cho gã buôn ngoài tỉnh với
giá ba cây, định dùng tiền để mua chỗ khác “giãn dân”. Nhưng trong cơn sốt đất,
lão chẳng tìm đâu được mảnh đất với giá tiền ấy. Lão buột miệng ao ước “Để có
rẻo mặt đường dưới âm, cần phải chết sớm tôi xin chết ngay”. Sau khi biết
chuyện mất ba cây vàng lão đã treo cổ tự vẫn, kết thúc cuộc đời khổ cực tăm tối
của mình. Kết thúc tác phẩm của Đoàn lê thật buồn thảm bi ai như chính hiện
thực cuộc sống mà nhà văn chứng kiến. Sau kết thúc này nhà văn như muốn
gieo vào lòng người đọc những ám ảnh về hiện thực cuộc sống ở những vùng
nông thôn trước tốc độ đô thị hóa của nền kinh tế thị trường. Không biết nông