Luận văn Thạc sĩ Tâm lý học: Thái độ của sinh viên Đại học Thể dục Thể thao Thành phố Hồ Chí Minh đối với giá trị sống
459
152
113
19
1.2.1.3. Các yếu tố ảnh hưởng tới sự hình thành thái độ
- Thái độ được hình thành bởi các thông tin
Thông tin trên các phương tiện: báo, tạp chí, tivi, radio, trong đời sống hằng
ngày…đều có thể ảnh hưởng đến việc hình thành thái độ của con người. Như vậy khi
thông tin tác động vào chúng ta thì chúng ta thường có thái độ với những thông
tin
đó. Hệ thống thông tin được các chủ thể tiếp nhận ở nhiều góc độ khác nhau, có
thông tin làm cho chủ thể nhận rõ thêm bản chất của vấn đề và sau đó chủ thể dễ
dàng bày tỏ thái độ…
- Thái độ được hình thành trong quá trình thỏa mãn nh u cầu
Con người thường hình thành thái độ tích cực với những gì có lợi và hình thành
thái độ tiêu cực đối với những gì có hại trong tiến trình thỏa mãn nhu cầu của
mình.
Quá trình thỏa mãn nhu cầu là quá trình chủ thể nỗ lực bản thân, tìm kiếm các
phương pháp phù hợp để thỏa mãn các nhu cầu, sau đó cảm xúc sẽ xuất hiện và chủ
thể bày tỏ thái độ một cách cụ thể.
- Thái độ được hình thành qua giao tiếp nhóm
Mỗi cá nhân là thành viên của nhiều nhóm khác nhau, thái độ của một người
thường phản ánh giá trị, chuẩn mực, niềm tin của nhóm mà h ọ là thành viên. Thái
độ
của các nhóm khác nhau là do mục đích, tiêu chuẩn của các nhóm khác nhau. Chẳng
hạn nhóm “học tập” khác với nhóm “hoạt náo viên”.
Giá trị mà c ả nhóm theo đuổi sẽ có ảnh hưởng đến việc hình thành thái độ của
các thành viên trong nhóm đó. Chuẩn mực đó không xác định hành vi nào là đúng
hay sai, hành vi nào là tốt hay xấu mà còn xác định xem thái độ nào là đúng,
thái độ
nào là sai. Thông qua việc thưởng phạt và áp lực nhóm, ép cá nhân phải tuân
theo.
Các nhóm thường đưa ra quy chế thưởng phạt làm động cơ cho các thành viên. Ai có
thái độ, hành vi tốt, đúng thì sẽ được khên thưởng và ngược lại sẽ bị lên án,
trách
phạt. Trong tâm lý học xã hội đề cao vai trò của nhóm, nhất là nhóm gia đình,
bạn bè,
đồng nghiệp…ví vai trò quan trọng trong việc hình thành ý thức cá nhân. Tuy
nhiên
cá nhân tiếp nhận các thái độ trong nhóm một cách có lựa chọn, không tiếp nhận
một
20
cách bị động, mức độ và cách thức tiếp nhận của mỗi thành viên trong nhóm là k
hác
nhau.
- Thái độ được hình thành qua kinh nghiệm sống
Kinh nghiệm trong cuộc sống sẽ hình thành nên thái độ. Người có nhiều kinh
nghiệm sẽ có thái đọ khác so với người có ít kinh nghiệm mặc dù họ cũng gặp vấn
đề
giống nhau
- Nhân c á ch cá nhân và sự hình thành thái độ
Cá nhân có xu hướng tiếp nhận cá thái độ phù hợp với nhân cách của mình,
nhưng nhân cách của con người thì chưa hẳn là một hệ thống hoàn toàn thống nhất.
Chính vì thế mà chúng ta có thể tiếp nhận các thái độ mâu thuẫn nhau bởi sự giáo
dục
khác nhau.
1.2.2. Giá trị và giá trị sống
1.2.2.1. Giá trị
Trong những khái niệm, phạm trù cơ bản có liên quan đến đời sống con người,
thực tiễn xã hội phải kể đến các khái niệm “giá trị”, “thang giá trị”, “giá trị
sống”…
a. Khái niệm giá trị
Theo từ điển Tiếng Việt: Giá trị là cái làm cho một vật có ý nghĩa, có ích, nó
đáng quý về một mặt nào đó
Theo Bách khoa toàn thư Wikipedia, giá trị được coi là những cái mà ta thích, ta
cho là quan trọng, là đáng có. Từ đó, giá trị ảnh hưởng đến hành vi của chúng
ta.
Khái niệm giá trị được nhiều ngành khoa h ọc nghiên cứu như Triết học, kinh tế
học, Xã hội học, Tâm lý học, Văn học… dưới nhiều bình diện, khía cạnh khác nhau
tùy theo sự hình thành, tồn tại, nội dung, cấu trúc cũng như ý nghĩa của nó đối
với cá
nhân và xã hội.
Những hiểu biết đầu tiên về giá trị và giá trị học có từ thời xa xưa, gắn liền
với
triết học. Có nhiều quan điểm khác nhau. Ở đây người viết đề cập theo quan điểm
của
Triết học Mác-Lênin. Giá trị là những hiện tượng xã hội đặc thù, mọi giá trị đều
có
nguồn gốc từ lao động sáng t ạo của con người. Nói đến quan điểm giá trị bao giờ
21
cũng nói đến mối quan hệ giữa khách thể và ch ủ thể. Các giá trị đều được nhận
thức
và kiểm nghiệm bằng thực tiễn.
Trong kinh tế học, phạm trù giá trí gắn liền với giá trị hàng hóa, giá cả và sản
xuất hàng hóa và phía sau nó là sức lao động, giá trị lao động của người làm ra
hàng
hóa. C. Mác viết: “Lao động có một sức sản xuất đặc biệt, hoạt động là một lao
động
được nhân lên cấp số nhân hay là trong một khoảng thời gian như nhau, nó tạo ra
một
giá trị cao hơn so với m ột lao động giá trị trung bình cù ng loại” [7]
Dưới góc độ Xã hội học, giá trị được quan tâm ở nội dung, nguyên nhân, điều
kiện kinh tế - xã hội cụ thể trong quá trình hình thành hệ thống giá trị nhất
định của
một xã hội.
Giá trị trong Đạo đức học luôn g ắn liến với những khái niệm trung tâm như: cái
thiện, cái ác, công bằng, bình đẳng, bác ái. Bởi vì khái niệm giá trị thuộc phạm
vi đời
sống đạo đức của con người, các quan hệ xã hội và quá trình hình thành các chuẩn
mực, quy tắc đạo đức của xã hội.
Dưới góc độ Tâm lý học, khái niệm giá trị được nghiên cứu nhằm mục đích tìm
hiểu hành vi, hoạt động của con người và dự báo sự phát triển của nhân cách, cụ
thể ở
một số chuyên ngành sau:
Tâm lý học hoạt động xác định: Giá tr ị là cái được chủ thể đánh giá, thừa nhận
trên cơ sở mối quan hệ giữa sự vật, hiện tượng đó. Các nhà tâm lý học nghiên cứu
khái niệm giá trị nhằm mục đích tìm hiểu hành vi, hoạt động của con người và dự
báo
phát triển nhân cách. Trong đó chuyên ngành tâm lý học nhân cách đề cập đến giá
trị
như là một bộ phận cấu thà nh nên tâm lý - nhân cách con người.
Tâm lý học xã hội nghiên cứu giá trị trong cộng đồng, đồng thời giải thích vai
trò của chúng trong sự hình thành và phát triển của các hiện tượng tâm lý xã hội
như:
tâm lý dân tộc, nhu cầu, thị hiếu, tập quán, lối sống của các nhóm xã hội này.
Như vậy, giá trị, theo nghĩa chung nhất, chúng ta có th ể hiểu đó là cái đã làm
cho một khách thể nào đó có ích, có nghĩa, đáng quý đối với chủ thể, được mọi
người
thừa nhận.
22
Có thể kể đến một số quan niệm phổ biến về giá trị của các tác giả nước ngoài
như:
Tác giả J.H.Fichter cho rằng: “Tất cả cái gì có ích lợi, đáng ham chuộng, đáng
kính phục đối với cá nhân và xã hội đều có một giá trị”. [16, tr.8]
Tác giả V.P.Tugarinov (Liên Xô) lại cho rằng: “giá trị là những khách thể,
những hiện tượng và những thuộc tính của chúng mà tất cả đều cần thiết cho con
người (lợi ích, hứng thú) của một xã hội hay một giai cấp nào đó cũng như một cá
nhân riêng lẻ với tư cách là phương tiện thỏa mãn những nhu cầu và lợi ích của
họ,
đồng thời cũng là những tư tưởng và ý định với tư cách là chuẩn mực, mục đích
hay
lý tưởng”. [34, tr.56]
L.Dramaliev (Bungari) coi giá trị là: “một thành tố khách quan của xã hội. Nó là
một loại hiện tượng xã hội đặc biệt (một vật, một đối tượng, một liên hệ, một ý
niệm),
thỏa mãn được nh ững nhu cầu nhất định của con người. Giá trị là một phẩm chất
khách quan, một đặc tính, một khả năng thỏa mãn những nhu cầu đã trở thành rõ
rệt
trong quá trình quan hệ qua lại có tính chất xã hội giữa người với người trong
hành vi
thực tế của họ. Với tính cách là một khách thể xã hội, giá trị không thể tách
rời khỏi
những nhu cầu, những mong muốn, thái độ, nh ững quan điểm và những hành động
của con người với tư cách là một chủ thể của các quan hệ xã hội”. [34, tr.57]
Nhà giáo dục học Nhật Bản- J.Makiguchi cho r ằng “giá trị của sự vật là cái được
chủ thể thừa nhận, trên cơ sở mối quan hệ của sự vật đối với chúng ta là có tầm
quan
trọng trong cuộc sống”[27, tr.108].
Theo tài liệu “Giáo dục giá trị” (Bộ văn hóa Thể thao Philippin), khái niệm giá
trị có thể hiểu: “Một vật có giá trị khi nó được thừa nh ận là có ích và mong
muốn có
được những thứ đó đã ảnh hưởng đến thái độ và hành vi của con người. Không chỉ
có
hàng hóa vật chất mà cả lý tưởng và những khái niệm đều có giá trị như: sự thật,
công
lý, lương thiện”. [16, tr.8]
Một số tác gi ả Việt Nam như Trần Trọng Thủy, Trần Văn Giàu, Phạm Minh
Hạc, Nguyễn Văn Huyên, Huỳnh Khái Vinh, Lê Đức Phúc… đều có những nghiên
cứu và đưa ra các quan niệm về giá trị.
23
Tác giả Nguyễn Đức Thạc cho rằng: giá trị là tính có nghĩa tích cực, tốt đẹp,
đáng quý, có ích của các đối tượng với các chủ thể. Chủ thể ở đây có thể là một
nhóm
người, một giai tầng, một dân tộc hoặc một thời đại [25, tr.49].
Theo tác giả Phạm Minh Hạc: “Giá trị là tính có nghĩa tích cực, đáng quý, có ích
của các đối tượng với các chủ thể”. [10]
Tác giả Trần Trọng Thủy khi nghiên cứu về “Giá trị, định hướng giá trị và nhân
cách” cũng xem giá trị là một hiện tượng xã hội điển hình, biểu thị các sự vật,
hiện
tượng, các thuộc tính và quan hệ của hiện thực, các tư tưởng, các chuẩn mực, mục
đích và lý tưởng, các hiện tượng của tự nhiên và xã hội được con người tạo ra
nhưng
đều phục vụ cho sự tiến bộ của xã hội và sự phát triển của cá nhân con người.
Theo tác giả Nguyễn Quang Uẩn, giá trị của một sự vật hay hiện tượng đều được
thừa nhận một cách khách quan dựa vào mối quan hệ giữa chủ thể và nhu cầu đối
với
sự vật hiện tượng đó.[32]
Từ những hiểu biết và kinh nghiệm của mình Chúng tôi cho rằng: Giá trị là cái
cần thiết, quan trọng, có ý nghĩa đối với ch ủ thể (cá nhân hay nhóm)mà họ cố
gắng
dành lấy khi tham gia vào các hoạt động xã hội. Giá trị có khả năng chi phối suy
nghĩ, thái độ và hành vi của con người.
b. Phân loại giá trị
Tùy thuộc vào mục đích tiếp cận mà các tác giả nêu lên các căn cứ phân loại
khác nhau. Tuy nhiên, tóm tắt lại các tác giả phân chia giá trị theo những cách
như
sau:
Cách phân chia mà nhiều người biết nhất là căn cứ trên sự thỏa mãn nhu cầu vật
chất hay nhu cầu tinh thần của con người, giá trị được chia thành giá t rị vật
chất và
giá trị tinh thần. Giá t rị vật chất như giá trị sử dụng, giá trị kinh tế. Giá
trị tinh thần
như giá trị khoa học, chính trị, đạo đức, pháp luật, lối sống, tôn giáo…[26]
Dựa vào các giá trị chi phối hệ thống hành vi lớn của con người giá trị chủ yếu
gồm các giá trị tồn tại sinh học, các giá trị tính cách, các giá trị văn hóa và
các giá trị
xã hội [32].
24
Căn cứ trên lĩnh vực hoạt động của con người Huỳnh Khái Vinh chia thành các
nhóm là giá trị nhân văn, giá trị đạo đức, giá trị văn hóa, giá trị chính trị,
pháp luật,
giá trị kinh tế [36]. Đồng quan điểm v ới Huỳnh Khái Vinh còn có J.H.Fichter, M.
Popon và J.R. William.
Mỗi cách phân loại giá trị thể hiện mỗi khía cạnh khác nhau và không có cách
phân loại nào thể hiện đầy đủ mọi phương diện giá trị vốn dĩ rất phong ph ú
trong
cuộc sống. Điều quan trọng là khi xem xét các giá trị cần xác định chúng trong
một
hệ thống – cấu trúc, đặt chúng theo các thứ bậc và chú ý tính đa dạng trong các
biểu
hiện sinh động của từng giá trị.
Trong đề tài này chúng tôi phân loại giá trị dựa trên mức độ nhu cầu của con
người, theo đó, giá trị sống là một trong những nhóm giá trị tinh thần quan
trọng, chi
phối hành vi và lối sống của con người.
Tóm lại, dưới góc độ của các ngành khoa học hay theo quan điểm của các nhà
khoa học khác nhau, giá trị có chung một số đặc điểm như sau:
- Mức độ của một vật đáp ứng nhu cầu và thỏa mãn được khát vọng của con
người, là cái được chủ thể đánh giá, thừa nhận trên cơ sở mối quan hệ với sự vật
đó.
- Mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân, lợi ích xã hội, với phí tổn cần thiết để tạo
ra
cái lợi đó.
- Mang tính khách quan - nghĩa là sự xuất hiện, tồn tại hay mất đi của giá trị
nào
đó không phụ thuộc vào ý thức của con người.
- Được hiểu theo nhiều góc độ khác nhau, phổ biến là hiều theo hai góc độ: vật
chất và tinh thần. Giá trị vật chất là giá trị đo được bằng tiền bạc dưới góc độ
kinh tế,
còn giá trị tinh thần tạo cho con người khoái cảm, hứng thú và sảng khoái.
- Mọi giá trị đều chứa đựng yếu tố nhận th ức, tình cảm, hành vi của chủ thể
trong mối quan hệ với sự vật mang giá trị.
- Là một phạm trù lịch sử vì giá trị thay đổi theo thời gian, theo sự biến động
của
xã hội, phụ thuộc vào tính dân tộc, tôn giáo và cộng đồng.
c. Hệ giá trị, thang giá trị, chuẩn giá trị
* Hệ giá trị
25
Hệ giá trị (hay còn gọi là hệ thống giá trị) là một tổ hợp giá trị khác nhau
được
sắp xếp, hệ thống lại theo những nguyên tắc nhất định, thành một tập hợp mang
tính
toàn vẹn, hệ thống, thực hiện các chức năng đặc thù trong việc đánh giá của con
người theo những phương thức vận hành nhất định của giá trị. Các hệ giá trị có
vị trí
độc lập tương đối và tương tác với nhau theo những thứ bậc phù hợp với quá trình
thực hiện các chức năng xã hội trong mỗi thời kỳ lịch sử cụ thể. Do vậy, hệ
thống giá
trị luôn mang tính lịch sử xã hội và chịu sự chế ước bởi lịch sử - xã hội. Trong
hệ
thống giá trị có chứa đựng các nhân tố của quá khứ, của hiện tại và có thể cả
những
nhân tố trong tương lai, các giá trị truyền thống, các giá trị thời đại, các giá
trị có t ính
nhân loại, tính dân tộc, tính cộng đồng, tính giai cấp, tính lý tưởng và tính
hiện thực.
* Thang giá trị
Thang giá trị (thước đo giá trị) là một tổ hợp giá trị, một hệ thống giá trị
được
sắp xếp theo một trật tự ưu tiên nhất định.
Thang giá trị biến đổi theo thời gian, theo sự phát triển, biến đổi của xã hội
loài
người, cộng đồng và từng cá nhân. Trong quá trình biến đổi đó, thang giá trị của
xã
hội, của cộng đồng và của nhóm chuyển thành thang giá trị của từng người, cứ thế
qua từng giai đoạn lịch sử của con người.
Thang giá trị là một trong những động lực thôi thúc con người hoạt động. Hoạt
động được tiến hành theo những thang giá trị cụ thể sẽ tạo nên những giá trị
nhất
định, phục vụ cho nhu cầu, lợi ích của con người. Chính trong hoạt động tạo ra
những
giá trị lại góp phần khẳng định, củng cố, phát huy, bổ sung, hoàn thiện hoặc hay
đổi
thang giá trị.
* Chuẩn giá trị
Chuẩn giá trị là những giá trị giữ vị trí cốt lõi, chiếm vị trí ở thứ bậc cao
hoặc vị
trí then chốt và mang tính chuẩn mực chung cho nhiều người. Khi xây dựng các giá
trị th eo những chuẩn mực nhất định về kinh tế, chính trị, đạo đức, xã hội, hay
thẩm
mỹ sẽ tạo ra các chuẩn giá trị. Mọi hoạt động của xã hội, của nhóm cũng như của
từng cá nhân được thực hiện theo những chuẩn giá trị nhất định sẽ bảo đảm định
26
hướng cho các hoạt động và hạn chế khả năng lệch chu ẩn mực xã hội, đồng thời
tạo
ra những giá trị tương ứng đảm bảo sự tồn tại của con người.
1.2.2.2. Giá trị sống
a. Khái niệm giá trị sống
Mặc dù khái niệm giá trị sống mới được nhắc đến những năm gần đây nhưng
thật ra, từ xưa tới nay, loài người luôn quan tâm, đề cao giá trị sống và đề cập
dưới
nhiều góc độ khác nhau.
Trước tiên là quan niệm về Đức trong tư tưởng Nho giáo. Quan niệm về “đức”
của Khổng Tử trong “Luận ngữ” rất sâu sắc và phong phú. Đức không chỉ là thiện
đức mà chủ yếu là hành động, là lời nói đi đôi với việc làm. Khổng Tử quan niệm
đức với tài phải đi đôi với nhau, nhưng đức phải là gốc. Lòng tin mãnh liệt vào
thiện,
đức của con người chính là cơ sở của đường lối đức trị Khổng Tử. Những quan niệm
đó thể hiện lòng tin ở tính thiện của con người và chủ trương bồi dưỡng, phát
huy
thiện đức của con người. Quan niệm về đức của Khổng Tử không chỉ có ý nghĩa đối
với xã hội cổ đại đương thời mà còn có ý nghĩa đối với xã hội ta ngày nay.[17]
Gần tư tưởng của Nho giáo là tư tưởng nhân văn của đạo Phật: con người sống
trên đời quý ở tấm lòng, do đó cần phải tu tâm dưỡng tính. Thực chất là đánh giá
cao
giá trị sống hơn là kỹ năng sống, bởi không có giá trị sống đúng đắn thì con
người có
thể dùng kỹ năng sống để làm điều ác. Tu tập cái tâm chính là tạo dựng cho bản
nhân
những giá trị sống chân chính
Cũng trên tư tưởng lấy đức làm gốc nhưng phải coi trọng cả đức và tài là tư
tưởng của Hồ Chí Minh"Có tài phải có đức, có tài mà không có đức - tham ô, hủ
hoá
thì có hại cho đất nước.Có đức mà không có tài chẳng làm được gì, thì không giúp
ích được cho ai".
Kế thừa, giữ gìn và phát huy các quan điểm trên, các nhà giáo dục đương đại
Việt Nam đã đưa ra một số quan điểm khác nhau về giá trị sống.
Tác giả Phạm Minh Hạc gọi giá trị sống là những “Giá trị bản thân”. Ông coi
đây là một nét mới của “tư duy” trong thời kỳ đất nước phát triển với nền kinh
tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạn h công nghiệp hóa, hiện đại hóa và
hội
nhập quốc tế [10].
27
Tiếp nối ý tưởng đó, tác giả Đặng Quốc Bảo cho rằng “Ph ạm trù giá trị sống
được tạo nên bởi kỹ năng sống thành thạo trên nền tảng quan điểm sống đúng đắn.
Đất nước nào xây dựng và giúp cho thế hệ trẻ thực hiện được hệ giá trị bản thân
đúng
đắn và phù hợp, thì đất nước đó sẽ có c ác giờ học tốt, nhà trường tốt, hệ thống
giáo
dục và nên giáo dục tiên tiến không lạc hậu, lạc điệu với thời đại”. [2, tr.73].
Nếu các
giá trị sống được phát triển bền vững thì nhân cách cũng trưởng thành vững và
ng, có
bản lĩnh, bản sắc riêng.
Hiện nay, có một số quan niệm khác nhau về giá trị sống và các nhà nghiên cứu
đều chưa thống nhất để đưa ra khái niệm chung, có thể tóm tắt một số khái niệm
như:
Theo tác giả Lục Thị Nga “Giá trị sống là tất cả những điều chúng ta cho là quý
giá, là quan trọng, là có ý nghĩa đối với cuộc sống của mỗi con người, khiến mỗi
con
người mong muốn lĩnh hội và thể hiện ra để cuộc sống của mình trở nên tốt đẹp
hơn
và góp phần cải thiện cuộc sống chung”.
Tác giả Nguyễn Công Khanh cho rằng: “Giá trị sống là những thứ được cá nhân
nhận thức là rất quan trọng, rất cần thiết, rất có ý nghĩa, luôn mong đợi, chúng
có khả
năng chi phối thái độ, xúc cảm, tình cảm, hành vi của một cá nhân trong cuộc
sống
hàng ngày”. Không chỉ tài sản, mà cả tri thức, sức khỏe, tình yêu thương, sự
trung
thực, danh dự… cũng được coi là một giá trị sống của cá nhân.[13, tr.93].
Theo Chương trình Giáo dục các giá trị sống của UNESCO thì giá trị sống (hay
còn gọi là “giá trị cuộc sống”, “giá trị của cuộc sống”) là “những điều mà một
con
người cho là tốt, là quan trọng, phải có cho bằng được và vì thế giá trị sống là
cơ sở
của hành động sống, nó chi phối hành vi hướng thiện c ủa con người”.[4]
Nhìn chung, các quan điểm trên cho thấy giá trị sống là một hình thái ý thức xã
hội, là hệ thống các quan niệm về cái thiện, cái ác, lẽ phải, công bằng, văn
minh,
lương tâm, trách nhiệm,… trong các mối quan hệ giữa con người với con người. Giá
trị về bản chất là những quy tắc, những chuẩn mực trong quan hệ xã hội, được
hình
thành và phát triển trong cuộc sống, được cả xã hội thừa nhận. Giá trị là quy
tắc sống,
nó có vị trí to lớn trong đời sống và định hướng cho cuộc sống của mỗi cá nhân,
điều
chỉnh hành vi cho phù hợp với chuẩn mực của xã hội.
28
Tóm lại, từ các khái niệm trên, chúng ta có thể hiểu ngắn gọn rằng: giá trị sống
là những giá trị được cá nhân cho là quan trọng, có ý nghĩa đối với bản thân;
những
giá trị này có kh ả năng chi phối thái độ, tình cảm, hành vi của người đó trong
thế
giới khách quan và đối với bản thân họ.
b. Phân loại
Theo cách phân loại của tác giả Nguyễn Công Khanh, các giá trị sống cần được
nuôi dưỡng và giáo dục cho tuổi trẻ hiện nay là tình yêu thương, trung thực,
biết quan
tâm đến người khác, ham học hỏi, siêng năng, sống tôn trọng pháp luật, yêu hòa
bình,
biết nhận lỗi và biết tha thứ, sống chủ động và tự tin, chấp nhận thử thách và
luôn
vượt khó…[13]
Tác giả Phạm Minh Hạc khi bàn về giá trị sống và giáo dục giá trị sống có nêu
ra 10 giá trị sống cơ bản cần hình thành cho con người Việt Nam, nhất là thanh,
thiếu
niên:[10 ]
- Lòng yêu nước và tinh thần dân tộc
- Trách nhiệm với cộng đồng
- Dân chủ
- Hợp tác
- Chăm học, chăm làm
- Khoa học, tác phong công nghiệp
- Chính trực: Chân thật, đúng đắ
n, liêm
khiết
- Lương thiện
- Gia đình hiếu thảo
- Sáng tạo.
Tác giả Nguyễn Thị Mỹ Lộc, Đinh Thị Kim Thoa phân chia thành các giá trị
truyền thống của nhân cách con người Việt Nam và các giá trị toàn cầu. Những giá
trị
truyền thống như lòng yêu nước, truyền thống đoàn kết, lao động cần cù và sáng
tạo,
lạc quan, vì nghĩa, tinh thần nhân đạo, lòng yêu thương và quý trọng con người…
Các giá trị phổ quát mang tính toàn cầu là hòa bình, tôn trọng, yêu thương, hạnh
phúc, trung thực, khiêm tốn, trách nhiệm, giản dị, khoan dung, hợp tác, tự do,
đoàn
kết.[16,tr18 -20]
Bên cạnh các giá trị mang tính bản sắc, đặc trưng cho mỗi dân tộc, vùng miền,
có những giá trị mang tính nhân loại, không phân biệt màu da, quốc tịch, v ị trí
địa
lý… mọi con người đều cùng hướng về những giá trị đó. Để nghiên cứu xem những