Luận văn Thạc sĩ Quản trị nhân lực: Đào tạo đội ngũ giảng viên tại trường Cao đẳng nghề Cơ điện Hà Nội
9,132
878
126
42
+ Về giới tính:
Bảng 2.2: Cơ cấu giảng viên phân theo giới tính
Khoa SL
Nam Nữ
Số
người
Tỷ lệ
(%)
Số
người
Tỷ lệ
(%)
Khoa Công nghệ Thông tin 15 10
5
Khoa Điện 36 29
7
Khoa Cơ khí 18 16
2
Khoa Động lực 12 12
0
Khoa Khoa học cơ bản 17 3
14
Khoa Kinh tế 29 6
23
Khoa Sư phạm Kỹ thuật 11 2
9
Khoa Chủ nghĩa Mác - Lênin 11 0
11
Tổng cộng 149 78 52 71 48
Như vậy, nhìn bảng trên ta thấy, sự chênh lệch về giới tính của GV
trường Cao đẳng Cơ điện nói chung là không lớn. Tuy nhiên sự chênh lệch về
giới tính lại rất lớn trong các khoa, GV nam chủ yếu ở các khoa Điện, Cơ khí,
Động lực, CNTT, còn GV nữ lại tập trung ở các khoa: SPKT, Chủ nghĩa Mác
– Lenin, kinh tế, khoa học cơ bản. Đây cũng là vấn đề mất cân đối cần được
xem xét và lưu ý trong quá trình phát triển đội ngũ giảng viên của trường.
+ Về độ tuổi
Cơ cấu độ tuổi của GV trường Cao đẳng nghề Cơ điện Hà Nội được
hiện theo bảng sau:
43
Bảng 2.3: Cơ cấu giảng viên phân theo độ tuổi
Đơn vị tính: người
Bộ môn SL
Tuổi đời
< 35 36 - 40
41 - 55
>55
Khoa Công nghệ Thông tin 15 8 4 3 0
Khoa Điện 36 17 14 4 1
Khoa Cơ khí 18 9 5 3 1
Khoa Động lực 12 6 4 1 1
Khoa Khoa học cơ bản 17 8 6 3 0
Khoa Kinh tế 29 17 9 3 0
Khoa Sư phạm Kỹ thuật 11 6 2 3 0
Khoa Chủ nghĩa Mác - LêNin 11 6 2 3
Tổng cộng 149 77 46 23 3
(Nguồn: Phòng TC-HC)
Theo số liệu trên thì GV của trường Cao đẳng nghề Cơ điện khá trẻ,
những GV trong độ tuổi dưới 35 là 77 người chiếm 51,7%, từ 36-40 là 46
người chiếm 30,8%, từ 41-55 tuổi có 23 người chiếm 15,4%, từ 55 tuổi trở lên
chỉ có 3 người chiếm 2,1%.
+ Về trình độ chuyên môn
Cơ cấu về trình độ đào tạo về chuyên môn và về năng lực sư phạm
nghề nghiệp thể hiện tại bảng sau:
Bảng 2.4: Cơ cấu giảng viên phân theo trình độ chuyên môn
Đơn vị tính: người
Năm
Trình độ chuyên môn
Tiến sĩ Thạc sỹ Đại học
Cao
đẳng
TCCN,
CNKT
Thợ bậc
cao, nghệ
nhân
SL TL% SL TL% SL TL% SL TL% SL TL% SL TL%
2012 0 0,0 63 54 51 44 0 0,0 1 0,9 1 0,9
2013 2 1,4 78 55 59 42 0 0,0 1 0,8 1 0,8
2014 5 3,4 92 62 50 33,6 0 0,0 1 0,5 1 0,5
(Nguồn: Báo cáo phòng TC-HC)
44
Nhìn vào kết quả của bảng 2.4 cho ta thấy, số lượng GV có trình độ
tiến sĩ và thạc sỹ đều có chiều hướng tăng lên trong 3 năm từ 2012-2014, cụ thể
là: năm 2012 chưa có GV nào có trình độ tiến sĩ, đến năm 2013 số GV là tiến sĩ
là 2 người, chiếm 1,4% và năm 2014 là 5 người chiếm 3,4% trong tổng số GV
của toàn trường. Đồng thời năm 2012 GV có trình độ thạc sĩ là 63 người chiếm
54% và tăng lên 78 người chiếm 55% vào năm 2013; và năm 2014 số GV có
trình độ thạc sĩ là 92 người chiếm 62% tổng số GV của toàn trường; hằng năm
đều có số lượng GV tham gia các chương trình đào tạo thạc sỹ hoặc GV vào
giảng dạy tại trường có trình độ thạc sỹ. Tuy nhiên, số giảng viên mới vào
trường giảng dạy có trình độ thạc sỹ thường là các sinh viên mới ra trường,
chưa có kỹ năng nghề cao và còn thiếu kinh nghiệm trong giảng dạy.
Số lượng GV có trình độ TCCN và CĐ rất ít chỉ có 01 người. Cả
trường chỉ có 01 nghệ nhân, đã có thời gian công tác tại trường rất nhiều năm
và có rất nhiều kinh nghiệm trong thực hành nghề.
ĐNGV Nhà trường có số lượng lớn GV có trình độ cao là do Lãnh đạo
Nhà trường nhận thức được tầm quan trọng của công tác đào tạo và bồi dưỡng
cho GV của Nhà trường và đạt được nhiều kết quả cao. Tuy nhiên, hiện nay
đứng trước những yêu cầu phải đổi mới giáo dục và phát triển đội ngũ GV
trong thời đại mới, nhu cầu GV đạt chuẩn và trên chuẩn đối với đội ngũ GV
dạy nghề rất quan trọng để đáp ứng chiến lược phát triển giáo dục của đất
nước cũng như phấn đấu trở thành một trong 40 trường nghề chất lượng cao
giai đoạn này thì công tác đào tạo và bồi dưỡng của Nhà trường vẫn còn chậm
tiến độ và còn nhiều khó khăn và bất cập.
2.1.2.3. Mục tiêu, chiến lược phát triển của nhà trường
Chiến lược dài hạn của Trường Cao đẳng nghề cơ điện Hà Nội đã chỉ rõ
mục tiêu phát triển của Trường là "nâng cao chất lượng đào tạo, xây dựng
Trường Cao đẳng nghề Cơ điện Hà Nội thành một trong những trường hàng đầu
trong việc đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao các nghề kỹ thuật, kinh tế,
kinh doanh, dịch vụ, sư phạm dạy nghề trong nước, nhằm đáp ứng nhu cầu của
45
thị trường lao động của Việt Nam, khu vực và tiếp cận trình độ thế giới phát
triển; nâng cao khả năng nghiên cứu để trở thành một địa chỉ đào tạo gắn liền
với
nghiên cứu ứng dụng, trường đào tạo có uy tín, một trường Cao đẳng chuẩn quốc
gia từng bước nâng chuẩn khu vực và quốc tế có danh tiếng trong toàn quốc".
Với những mục tiêu đó, Trường Cao đẳng nghề Cơ điện Hà Nội ngày
nay đang trên bước đường đổi mới toàn diện. Bên cạnh, đầu tư và hiện đại
hóa cơ sở vật chất phục vụ đào tạo, nhà trường luôn quan tâm, đầu tư phát
triển đội ngũ giảng viên, chú trọng thu hút nhân tài, đặc biệt là quan tâm đào
tạo để không ngừng nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên, coi đó là điều
kiện tiên quyết thúc đẩy đổi mới toàn diện và nâng cao chất lượng đào tạo,
yếu tố then chốt của thành công.
2.1.2.4. Quan điểm của lãnh đạo nhà trường
Quan điểm phát triển: “Cùng nhau kiến tạo cơ hội”.
Triết lí cùng nhau kiến tạo cơ hội để phát triển năng lực, tri thức, kĩ
năng hay các phẩm chất khác luôn là sợi chỉ đỏ xuyên suốt các hoạt động của
nhà trường. Mọi cán bộ, giáo viên, nhân viên và học sinh – sinh viên Trường
Cao đẳng nghề Cơ điện Hà Nội đều có trách nhiệm cùng nhau tạo cơ hội để
cùng phát triển.
Trường Cao đẳng nghề Cơ điện Hà Nội xác định các lĩnh vực hoạt
động chủ yếu của Trường là đào tạo đa ngành nghề, đa cấp trình độ. Trường
hiện đang tổ chức đào tạo liên thông các cấp trình độ đến Đại học hệ chính
qui. Đào tạo sư phạm dạy nghề cũng là một lợi thế của nhà trường để áp dụng
các phương pháp dạy học tích cực, hiện đại vào hoạt động đào tạo của trường.
Với quan điểm tạo mọi điều kiện cơ hội để phát triển đội ngũ giảng
viên, Ban giám hiệu và lãnh đạo chủ chốt của nhà trường luôn quan tâm và
tạo mọi điều kiện về thời gian, tài chính, các nguồn hỗ trợ, động viên, khuyến
khích mọi người học tập nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Đây chính
là môi trường và động lực thúc đẩy công tác đào tạo giảng viên của nhà
trường những năm gần đây phát triển một cách nhanh chóng.
46
2.1.2.5. Đặc điểm về tài chính
Trường Cao đẳng nghề Cơ điện Hà Nội thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn được nâng cấp từ trường Trung học Cơ điện Nông nghiệp
và PTNT theo Quyết định số 1190/QĐ-BLĐTBXH ngày 29/12/2006 của Bộ
Lao động Thương binh và Xã hội. Là một trong những đơn vị sự nghiệp đầu
tiện được Bộ Nông nghiệp và PTNT giao cho thực hiện Nghị định
10/2002/NĐ-CP, được trao quyền tự chủ về tài chính. Trường đã xây dựng
Qui chế chi tiêu nội bộ làm căn cứ để điều hành và quản lý mọi hoạt động tài
chính theo các qui định của Nghị định số10/2002/NĐ-CP. Nhà trường đã chủ
động trong việc lập kế hoạch và thực hiện chi tiêu, mua sắm vật tư, trang thiết
bị để kịp thời phục vụ cho công tác giảng dạy và học tập – nhiệm vụ chính
của trường, đồng thời chủ động tiết kiệm chi phí về quản lý hành chính tạo cơ
sở để cải thiện thu nhập cho giáo viên và cán bộ công nhân viên chức, góp
phần nâng cao chất lượng đào tạo và hiệu quả công tác.
Tuy nhiên, việc thực hiện tự chủ quản lý tài chính trong những năm
qua đã bộc lộ một số nhược điểm như nhận thức của cán bộ, giáo viên chưa
đầy đủ, chưa chuẩn mực về công tác tài chính của nhà trường. Kế hoạch thu
chi chưa thật sự chủ động, chưa phát huy hết hiệu lực, hiệu quả của công tác
tài chính đối với các hoạt động của nhà trường. Tiền lương và thu nhập
chưa thực sự khích thích và động viên được đội ngũ cán bộ, viên chức và giáo
viên của trường, các định mức khoán chi chưa được điều chỉnh kịp thời theo
sự thay đổi của giá cả trên thị trường.
2.1.3. Một số thành tích đào tạo của nhà trường
Là trường cao đẳng nghề đa ngành, đa cấp với lưu lượng tuyển sinh và
đào tạo trên 2000 sinh viên/ năm. Nhà trường luôn quan tâm nâng cao chất
lượng đào tạo, gắn đào tạo với thực hành và nhu cầu xã hội. Qua số liệu của
nhà trường những năm gần đây cho thấy quy mô và chất lượng đào tạo không
ngừng tăng lên cụ thể xem Bảng 2.5 và Bảng 2.6 dưới đây:
47
Bảng 2.5. Thống kê kết quả tuyển sinh, đào tạo từ năm 2012-2014
Năm
Hệ CĐN Hệ TCN
Hệ SCN và DNTX
dưới 3 tháng
Tổng
Số
lượng
tuyển
sinh
HS
đủ đk
thi
TN
Số
HS
TN
Số
lượng
tuyển
sinh
HS
đủ đk
thi
TN
Số
HS
TN
Số
lượng
tuyển
sinh
HS đủ
đk thi
TN
Số
HS
TN
2012
1537
1535
1535
504
501
501
414
411
411
2455
2013 1490 1490 1490
553 551 551 407 404 404 2450
2014 1569 1569 1569
607 604 604 501 501 501 2677
(Nguồn: Phòng TC-HC)
Nhìn vào bảng số liệu 2.5 ta thấy số lượng tuyển sinh, đào tạo của
nhà trường có xu hướng tăng nhẹ qua các năm. Hệ đào tạo chủ yếu vẫn là
hệ CĐN, hệ TCN, hệ SCN và DNTX dưới 3 tháng chiếm tỉ lệ tương đối
sấp xỉ nhau trong các năm. Đồng th ời số lượng HS tốt nghiệp cũng chiếm
tỉ lệ cao đạt 99%.
Bảng 2.6. Chất lượng tốt nghiệp của học sinh qua các năm 2012 – 2014
Năm học
T
ổ
ng s
ố
HS đăng ký
thi tốt
nghiệp
Tổng số học
sinh tốt
nghiệp
T
ỷ
l
ệ
(%)
Giỏi Khá
Trung
bình
2012 2.450 2.447 292 1.212 943
2013 2.448 2.445 398 1.268 779
2014 2677 2674 412 1479 783
(Nguồn: Phòng TC-HC)
Chất lượng tốt nghiệp của học sinh hàng năm cao, số lượng học sinh tốt
nghiệp đạt lại khá, giỏi đều tăng qua các năm và số lượng học sinh tốt nghiệp
trung bình giảm đi. Như vậy, chất lượng đào tạo được nâng cao hơn do Nhà
trường có biện pháp phát triển chất lượng đào tạo cao hơn.
48
2.2. Phân tích thực trạng đào tạo đội ngũ giảng viên tại Trường
Cao đẳng nghề Cơ điện Hà Nội
Là trường cao đẳng nghề, đào tạo đa ngành, đa cấp, mới chuyển từ đào
tạo trung cấp lên, vì vậy nhu cầu phát triển giảng viên nói chung và đào tạo
giảng viên nói riêng là hết sức cần thiết. Qua khảo sát thực tế tại Trường Cao
đẳng nghề Cơ điện Hà Nội cho thấy: Ba năm gần đây từ 2012 đến 2014, ngoài
việc thu hút, tuyển dụng giảng viên để tăng cường quy mô lực lượng giảng
viên, Nhà trường đã tăng cường đẩy mạnh công tác đào tạo giảng viên. Ban
giám hiệu đã trực tiếp phân công cho phòng Hành chính - Tổ chức nhà trường
phối hợp cùng với các bộ phận chức năng, đặc biệt là các khoa, bộ môn hoàn
thành quy chế đào tạo giảng viên của Nhà trường, trong đó quy định cụ thể
mục đích, nguyên tắc, yêu cầu đào tạo giảng viên, quy trình, thủ tục xác định
đối tượng đào tạo, cũng như những bước tiến hành, đánh giá và các chế độ,
chính sách khuyến khích trong đào tạo giảng viên. Nhìn chung, công tác đào
tạo giảng viên tại trường Cao đẳng nghề Cơ điện Hà Nội được thực hiện một
cách khá bài bản và chuyên nghiệp, cụ thể được thể hiện qua từng nội dung
như sau:
2.2.1. Xác định nhu cầu đào tạo
Để xác định nhu cầu đào tạo một cách chính xác, hàng năm nhà trường
đã dựa trên các căn cứ sau:
- Căn cứ vào kế hoạch tuyển sinh, đào tạo: Quy mô tuyển sinh là căn cứ
để xác định số lượng giảng viên cơ hữu của Nhà trường, với lưu lượng tuyển
hàng năm tăng, kết hợp với số lượng giảng viên thiếu tích tụ qua các năm cộng
dồn, buộc nhà trường hàng năm phải gấp rút tuyển giảng viên mới. Hầu hết
giảng viên này sau khi kiểm tra, giảng thử, đều có thời gian tập sự ít nhất là
06
tháng đến 01 năm, đây là thời gian Hợp đồng thử việc, cũng là thời gian mà nhà
trường phải phân công các giảng viên có kinh nghiệm, thạo nghề để hướng dẫn
và đào tạo. Giảng viên mới sẽ phải dự giờ, đi thực tế, soạn giáo án, bài giảng,
chuẩn bị các điều kiện để thông qua trước khoa, bộ môn và Hội đồng Nhà
49
trường. Vì vậy, giai đoạn này là giai đoạn khó khăn, vất vả nhất đối với giảng
viên mới và những giảng viên được phân công hướng dẫn, đào tạo, huấn luyện
kèm cặp giảng viên mới. Trách nhiệm của khoa, bộ môn là phải lập kế hoạch
phân công giảng viên kèm cặp và giúp đỡ, các giảng viên trẻ phải thông qua kế
hoạch và chương trình cụ thể với Khoa, giảng viên kèm cặp và Nhà trường về
tiến độ thực hiện. Cách xác định nhu cầu đào tạo ở đây khá đơn giản và rất bài
bản, dựa trên số giảng viên tuyển mới trong năm theo ngành, các học phần dự
kiến được phân công giảng dạy vời sự phối hợp giữa các khoa, bộ môn và phòng
tổ chức để thực hiện theo kế hoạch dự kiến. Trên cơ sở kế hoạch tuyển sinh, đào
tạo hàng năm với các chỉ tiêu về số lượng, chất lượng tuyển sinh, nhà trường
tiến
hành xác định về số lượng, cơ cấu đội ngũ giảng viên đối với từng khoa, bộ môn,
đánh giá khả năng đảm trách công việc của đội ngũ giảng viên hiện tại từ đó cân
đối đội ngũ này, xác định nhu cầu thực tế nguồn nhân lực của nhà trường, đồng
thời dự kiến tuyển mới bổ sung vào số giảng viên thâm hụt ở từng vị trí, công
việc cũng như xác định nhu cầu đào tạo cho giảng viên mới nếu có.
- Căn cứ vào sự thay đổi máy móc, trang thiết bị dạy học: Là trường dạy
nghề vì vậy việc đổi mới các trang thiết bị, máy móc và cập nhật công nghệ mới
là vấn đề đặt ra hàng đầu và mang tính thường xuyên. Có như vậy mới nâng cao
được chất lượng đào tạo, cập nhật kiến thức, kỹ năng và công nghệ mới, nhất là
trong lĩnh vực cơ khí và điện. Qua tổng hợp tại phòng hành chính và tổ chức,
những năm gần đây, mặc dù nguồn tài chính eo hẹp nhưng nhà trường vẫn phải
đầu tư hàng tỷ đồng để mua sắm mới các trang thiết bị day học, máy móc dụng
cụ, đo lường thực hành để theo kịp với nhu cầu xã hội và phục vụ công tác giảng
dạy, Chính vì vậy nhu cầu huấn luyện, hướng dẫn, thực hành mới, cũng như chủ
động tiếp nhận sự chuyển giao công nghệ mới từ nhà sản xuất được nhà trường
chú trọng. Cách làm thông thường là: Khi có sự đầu tư đổi mới trang thiết bị,
máy móc, kỹ thuật, công nghệ nhà trường tiến hành đánh giá sự tác động, cũng
như mức độ ảnh hưởng, từ đó xác định số giảng viên cần phải bổ túc về kiến
thức, trình độ chuyên môn, kỹ năng cần thiết thích ứng với sự đổi mới trên,
50
ngoài việc mời chuyên gia, thợ lành nghề, đi thực tế, hội thảo và cả hình thức
gửi
đi đào tạo theo hợp đồng chuyển giao công nghệ hoặc liên kết đào tạo với đối
tác, phần lớn là các máy móc trang thiết bị tiên tiến của nước ngoài. Đây là nhu
cầu khá lớn, có tính ổn định mà theo Nhà trường khi hội nhập thành cộng đồng
ASEAN tới đây thì nó càng trở nên cấp thiết, nếu không nước ta sẽ không theo
kịp hoặc sẽ tụt hậu. Qua khảo sát tại Trường Cao đẳng nghề Cơ điện Hà Nội cho
thấy: mấy năm gần đây, nhất là từ khi nhà trường trở thành 1 trong 40 trường
nghề chất lượng cao, nhà trường đã chú trọng đầu tư đổi mới trang thiết bị, máy
móc phục vụ cho giảng dạy và học tập. Hàng loạt các máy móc tiên tiến và hiện
đại của các nước đã được nhà trường nhập về bổ sung và thay thế các máy móc,
trang thiết bị dạy học lạc hậu và cũ kỹ trước kia. Song song với việc bổ sung
các
máy móc này đã xuất hiện nhu cầu đào tạo và huấn luyện đội ngũ giảng viên để
họ có thể: vận hành, điểu khiển, sửa chữa, phục vụ các máy móc …chỉ khi nào
đội ngũ giảng viên làm chủ được các máy móc, thiết bị này thì chất lượng bài
giảng của họ đến với học viên mới có hiệu quả. Việc xác định nhu cầu này nhà
trường dựa vào cơ cấu, trình độ đội ngũ giảng viên giảng dạy các bộ môn liên
quan đến các máy móc, trang thiết bị này.
- Căn cứ vào kết quả đánh giá thực hiện công việc: Định kỳ 6 tháng, 1
năm hay cuối kỳ học, nhà trường tiến hành đánh giá kết quả thực hiện công việc
của từng giảng viên trong nhà trường, đồng thời, bình bầu, phân loại lọc ra
những giảng viên có chuyên môn yếu, không đáp ứng yêu cầu công việc hoặc
không đạt chuẩn để tiến hành xem xét đưa vào diện đào tạo bắt buộc. Cũng qua
đánh giá phân loại, Nhà trường chọn ra những giảng viên tiên tiến, liên tục đạt
thành tích cao trong giảng dạy, có tố chất, năng lực và có triển vọng phát triển
đưa vào diện quy hoạch để đào tạo, bồi dưỡng thành những giảng viên đào tạo
có thể kèm cặp, hướng dẫn cho giảng viên trẻ, giảng viên mới được tuyển của
Nhà trường. Tuy nhiên qua theo dõi tại Trường cho thấy, việc đánh giá thực hiện
công việc định kỳ để từ đó rút ra những khiếm khuyết, yếu kém về mặt chuyên
môn và đặc biệt là chỉ ra những giảng viên không đạt chuẩn, yếu kém về chuyên
51
môn, không đảm bảo năng lực để đưa vào diện đào tạo bắt buộc vẫn còn nhiều
hạn chế, nguyên nhân là nể nang, ngại đánh giá phê bình, sợ mất lòng nhau, công
tác tự phê vẫn còn là hình thức, ít khi có trường hợp “tự vạch áo cho người xem
lưng” hoặc vẫn còn nặng về thành tích , bao che vì thế nên gần như 100% giảng
viên hàng năm đều đạt yêu cầu, mặc dù trên thực tế thì vẫn còn nhiều giảng viên
trình độ chuyên môn, năng lực hạn chế cần phải bắt buộc đào tạo nhưng vẫn
không đưa vào danh sách và tổ chức tiến hành đào tạo đối với họ trong khi đó
các quy định của nhà trường đã đưa ra là khá rõ ràng, cụ thể.
- Căn cứ vào hồ sơ của giảng viên: Trên cơ sở những dữ liệu từ hồ sơ
lưu trữ tại phòng tổ chức kết hợp với việc quy hoạch, biến động và luân
chuyển cán bộ hàng năm được phê duyệt, trong đó phần nhiều là các giảng
viên chuẩn bị chuyển bậc, ngạch giảng viên, các giảng viên thuộc diện quy
hoạch thành cán bộ quản lý, nhà trường rà soát, sàng lọc tìm ra người còn
thiếu hay không đủ các tiêu chuẩn, điều kiện của giảng viên để bố trí đào tạo.
- Dựa vào đề nghị của các bộ môn, khoa: Hàng năm nhà trường yêu
cầu các khoa, bộ môn căn cứ vào kế hoạch giảng dạy, sự biến động biên chế,
nhu cầu số lượng, chất lượng đội ngũ giảng viên để xây dựng kế hoạch đào
tạo cho đơn vị mình và gửi cho phòng tổ chức. Căn cứ vào nhu cầu đào tạo
các khoa, phòng tổ chức sẽ tổng hợp và xây dựng kế hoạch đào tạo chung của
nhà trường để gửi lãnh đạo nhà trường phê duyệt. Theo đó Phòng Hành chính
– Tổ chức nhà trường sẽ gửi mẫu
- Căn cứ vào đơn đề nghị của giảng viên: Khi có đủ điều kiện tổ chức
đào tạo nhà trường thông báo rộng rãi đến từng đơn vị nếu giảng viên nào
thấy đủ tiêu chuẩn điều kiện sẽ viết đơn đề nghị gửi Phòng tổ chức tập hợp
báo cáo Lãnh đạo nhà trường xét duyệt cho đi đào tạo. Thông thường, các
giảng viên có nhu cầu, nguyện vọng học tập để nâng cao trình độ chuyên môn
ở các bậc học cao hơn hay những kiến thức, kỹ năng mềm, bổ cứu về ngoại
ngữ, tin học, phương pháp giảng dạy đại học, phương pháp giảng dạy tích
cực, tham gia các chương trình đào tạo theo hợp đồng liên kết đào tạo để