Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Quản lý nhà nước đối với phát triển công nghiệp hỗ trợ tại thành phố Hà Nội
1,691
609
135
73
hút 123 doanh nghiệp với 163 gian hàng tham gia; Tổ chức cho 45 doanh
nghiệp tham gia Triển lãm quốc tế về máy móc thiết bị và công nghiệp hỗ trợ
Manuíactoring Expo tại Thái Lan; Tổ chức cho các doanh nghiệp CNHT Hà
Nội tham gia Hội chợ Triên lãm Metalex Việt Nam hàng năm về máy công cụ
và gia công kim loại ở thành phố Hồ Chí Minh (Mỗi kỳ triển lãm có 8-15
doanh nghiệp Hà Nội tham gia).
- Hợp tác với Viện Nghiên cứu chiến lƣợc, chính sách công nghiệp -
Bộ Công Thƣơng triển khai dự án ―Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam hƣớng tới
thị trƣờng châu Âu‖ tại khu vực Hà Nội và các tỉnh phía Bắc. Phối họp tổ
chức CBI Hà Lan tổ chức các lóp đào tạo, tập huấn cho các doanh nghiệp
CNHT.
- Tổ chức các Hội nghị tập huấn, hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận công
nghệ mới, áp dụng hệ thống quản trị, hệ thống quản lý chất lƣợng sản phẩm
mới; các Hội thảo, Hội nghị quốc tế chuyên đề vệ CNHT; các Hội nghị ứng
dụng khoa học công nghệ cho doanh nghiệp; Hội nghị két nối Doanh nghiệp -
Ngân hàng giới thiệu các gói vay tín dụng ƣu đãi phù hợp cho các doanh
nghiệp CNHT.
2.2.5. Thực hiện việc hỗ trợ các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ
- Tiếp tục cải thiện môi trƣờng đầu tƣ kinh doanh; thúc đẩy khởi
nghiệp, khởi nghiệp sáng tạo, thu hút đầu tƣ; đẩy mạnh tăng trƣờng. Kiên trì
các giải pháp cải thiện chỉ số Năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI), tập trung cải
thiện chỉ số tiếp cận đất đai, đồng thời rà soát, đơn giản hóa thủ tục hành
chính, giảm thời gian và chi phí cho doanh nghiệp. Tiếp tục thực hiện Kế
hoạch phát triển doanh nghiệp trên địa bàn đến năm 2020; khuyến khích các
hộ sản xuất, kinh doanh cá thể chuyển thành doanh nghiệp. Đổi mới cơ chế,
triển khai đồng bộ các hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp
nhỏ và vừa; tiếp tục thực hiện Chƣơng trình kết nối ngân hàng-doanh nghiệp.
74
- Tiếp tục thực hiện các giải pháp tái cơ cấu và phát triển ngành công
nghiệp; tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh; đẩy nhanh tiến độ thành
lập các CCN và đầu tƣ hạ tầng CCN để thu hút các dự án sản xuất, kinh
doanh. Khuyến khích đổi mới công nghệ, chủ động tham gia và tận dụng
thành quả của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 phát triển các ngành công
nghiệp mới có lợi thế; công nghệ hiện đại, sử dụng ít quỹ đất nhƣng mang lại
giá trị cao; tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu; tăng tỷ trọng các
ngành chế biến chế tạo và giảm tỷ trọng gia công, lắp ráp; hỗ trợ kỹ thuật đối
với sản phẩm trong nƣớc, tăng tỷ lệ nội địa hóa. Triển khai thực hiện Nghị
quyết của Bộ Chính trị về một số chủ trƣơng, chính sách chủ động tham gia
cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tƣ; Đề án thúc đẩy mô hình kinh tế chia
sẻ của Thủ tƣớng Chính phủ. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả các Chƣơng
trình, Đề án về phát triển ngành công nghiệp.
- Triển khai đồng bộ các giải pháp thúc đẩy phát triển thƣơng mại -
dịch vụ, đẩy mạnh xuất khẩu, quảng bá và phát triển du lịch. Đẩy mạnh quản
lý nhà nƣớc về an toàn thực phẩm; tăng cƣờng kiểm tra, phòng chống gian lận
thƣơng mại, vi phạm sở hữu trí tuệ, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng kém
chất lƣợng. Xây dựng cơ chế quản lý rủi ro đối với các doanh nghiệp khi
chuyển sang "hậu kiểm"; thực hiện nghiêm chỉ đạo của Chính phủ về cắt giảm
điều kiện kinh doanh và đảm bảo không chồng chéo trong công tác thanh tra,
kiểm tra doanh nghiệp. Thực hiện đồng bộ và triển khai hiệu quả các Hiệp
định thƣơng mại tự do (FTA) đã có hiệu lực, các cam kết trong WTO và Cộng
đồng Kinh tế ASEAN; Tích cực chuẩn bị cho việc thực thi hiệu quả
các FTA thế hệ mới. Xây dựng và triển khai đề án nâng cấp chất lƣợng một số
khu, điểm du lịch trọng điểm; phấn đấu lƣợng khách du lịch năm 2020 tăng
10-10,5%, trong đó, khách quốc tế tăng 16-17%.
- Tiếp tục tái cơ cấu ngành nông nghiệp, nâng cao chất lƣợng, kiểm
soát an toàn thực phẩm và tăng cƣờng liên kết theo chuỗi giá trị. Điều tra,
75
đánh giá các sản phẩm nông sản chủ lực làm cơ sở xây dựng Atlas nông
nghiệp điện tử (WebGIS). Xây dựng các mô hình ứng dụng nông nghiệp công
nghệ cao trong sản xuất (ứng dụng IPM, GAP...); các mô hình ―nông nghiệp
sinh thái‖, ―nông nghiệp đô thị‖; hình thành các trung tâm ―công nghiệp -
dịch vụ nông thôn‖, các cơ sở chế biến nông sản. Theo dõi sát sao dịch tả lợn
Châu Phi không để tái phát dịch và chuẩn bị điều kiện để tổ chức tái đàn khi
có chủ trƣơng. Xây dựng vùng chăn nuôi an toàn dịch bệnh, ứng dụng công
nghệ mới để xử lý vệ sinh trong chăn nuôi, giảm thiểu ô nhiễm môi trƣờng.
Thực hiện tốt chƣơng trình ―Liên kết 4 nhà‖, đẩy mạnh tiêu thụ nông sản
thông qua hợp đồng. Tiếp tục phát triển nông thôn, xây dựng nông thôn mới;
phấn đấu có thêm 4 huyện đạt tiêu chí huyện nông thôn mới và 15 xã đạt
chuẩn nông thôn mới.
- Tiếp tục thực hiện kế hoạch cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu
quả doanh nghiệp nhà nƣớc. Tăng cƣờng quản lý tài chính doanh nghiệp
theo quy định.
- Đẩy mạnh các giải pháp nuôi dƣỡng, phát triển nguồn thu ngân sách
bền vững; Tăng cƣờng kiểm tra, thanh tra tài chính, chống thất thu ngân sách
đối với các khoản thu từ tài sản công, nhất là thu từ đất đai đảm bảo đúng quy
định; có biện pháp quyết liệt trong việc thu hồi nợ đọng ngân sách cũng nhƣ
các giải pháp đảm bảo nguồn thu từ đất theo dự toán để tạo nguồn lực thực
hiện nhiệm vụ chi theo đúng quy định của pháp luật; Thực hiện đồng bộ các
giải pháp quản lý, khai thác nguồn lực tài chính từ đất đai, tài sản nhà nƣớc,
tăng cƣờng huy động các nguồn lực xã hội đảm bảo nguồn vốn thực hiện các
nhiệm vụ chi quan trọng, bức xúc, các dự án trọng điểm, quan trọng của Thủ
đô. Nghiên cứu lựa chọn một số khu đất để tổ chức đấu giá tập trung tạo
nguồn vốn đầu tƣ cho các công trình trọng điểm về kết cấu hạ tầng giao thông
(đƣờng sắt, cầu qua sông Hồng, đƣờng vành đai, trục hƣớng tâm) và các công
trình dân sinh bức xúc; tạo quỹ đất sạch đấu thầu, đấu giá xây dựng các khu,
76
cụm công nghiệp tập trung và phát triển sản xuất kinh doanh theo quy hoạch.
Đôn đốc tiến độ triển khai thực hiện các dự án và công tác giải ngân vốn xây
dựng cơ bản ngay từ những tháng đầu năm. Quản lý, sử dụng, khai thác hiệu
quả tài sản công, đặc biệt là quỹ đất, quỹ nhà chuyên dùng.
- Tiếp tục tái cơ cấu đầu tƣ, khơi thông các nguồn vốn, tạo động lực
mới cho phát triển. Đẩy mạnh công tác đấu giá quyền sử dụng đất; đẩy nhanh
các thủ tục đầu tƣ, khẩn trƣơng đƣa vào giai đoạn thực hiện các dự án đăng ký
đầu tƣ cả vốn trong và ngoài ngân sách, vốn FDI. Đẩy mạnh áp dụng đấu thầu
qua mạng.
- Triển khai thực hiện Nghị quyết số 50-NQ/TW ngày 20/8/2019 của
Bộ Chính trị về định hƣớng hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao chất
lƣợng, hiệu quả hợp tác đầu tƣ nƣớc ngoài; xây dựng chiến lƣợc thu hút đầu
tƣ FDI trọng tâm, trọng điểm hƣớng theo lĩnh vực, thị trƣờng, đối tác ƣu tiên.
Tăng cường quản lý quy hoạch, trật tự và xây dựng đô thị, khai thác tài
nguyên, bảo vệ môi trường.
- Tích cực triển khai thực hiện Luật Quy hoạch. Quyết liệt, đẩy nhanh
tiến độ lập, trình phê duyệt các quy hoạch phân khu đô thị còn lại; quy hoạch
chung không gian xây dựng ngầm đô thị trung tâm;, quy chuẩn kỹ thuật quy
hoạch kiến trúc tại 4 quận trung tâm; các quy chế quản lý quy hoạch, kiến trúc
quận, huyện, thị xã; quy hoạch cải tạo, xây dựng lại các khu chung cƣ cũ;
Chƣơng trình và kế hoạch phát triển đô thị. Thực hiện nghiêm công tác quy
hoạch, nâng cao chất lƣợng lập đồ án quy hoạch xây dựng, quy hoạch đô thị
và công tác đầu tƣ xây dựng. Rà soát, tổng kết Chƣơng trình phát triển nhà ở
thành phố Hà Nội giai đoạn 2016-2020.
- Đôn đốc các nhà đầu tƣ tập trung nguồn lực, đẩy nhanh tiến độ các dự
án phục vụ phát triển CNHT, đồng thời xem xét phê duyệt các dự án mới
- Tăng cƣờng quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trƣờng. Hoàn thành công
tác xây dựng hồ sơ địa chính, cơ sở dữ liệu quản lý đất đai, cấp giấy chứng
77
nhận quyền sử dụng đất cho các doanh nghiệp CNHT là các tổ chức trên địa
bàn. Rà soát, hoàn thành 100% cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên
địa bàn; giải quyết vƣớng mắc và nâng cao tỷ lệ cấp giấy chứng nhận sử dụng
đất cho các cơ sở tôn giáo; hoàn thành cấp đất dịch vụ cho ngƣời dân. Chấn
chỉnh, xử lý nghiêm các sai phạm trong quản lý, sử dụng đất đai và khai thác
tài nguyên;
- Đôn đốc các nhà đầu tƣ xây dựng nhà máy xử lý rác thải theo tiến độ
đã cam kết. Đầu tƣ các trạm xử lý nƣớc thải trong các cụm công nghiệp tập
trung đang hoạt động bằng vốn ngân sách Thành phố, hoàn thành chỉ tiêu
100% cụm công nghiệp có hệ thống xử lý nƣớc thải đạt tiêu chuẩn môi trƣờng.
- Rà soát các cơ sở sản xuất có sử dụng hóa chất, nguy cơ cháy nổ cao,
ô nhiễm môi trƣờng,...chủ động, sẵn sàng phƣơng án khắc phục khi có sự cố.
2.2.6. Quản lý nhà nước về chất lượng sản phẩm công nghiệp hỗ trợ
Thực tế trên cho thấy, chất lƣợng sản phẩm của ngành công nghiệp hỗ
trợ tại Thành phố Hà Nội còn thấp, các sản phẩm CNHT chƣa đáp ứng đƣợc
yêu cầu của các ngành công nghiệp đặc biệt là các ngành công nghiệp có kỹ
thuật cao nhƣ sản xuất ô tô, sản phẩm điện tử…nguyên nhân chính để phát
triển CNHT còn thấp là do qua 3 yếu tố chính đó là vốn, công nghệ, và kinh
nghiệm. Kết quả là chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu chất lƣợng sản phẩm, giá và
tiến độ giao hàng. Hơn nữa, Hà Nội chƣa có đầy đủ hạ tầng cần thiết để phát
triển công nghiệp hỗ trợ, từ đó, gây trở ngại cho các nhà sản xuất sản phẩm
hỗ trợ toàn cầu muốn đầu tƣ hoặc liên kết đầu tƣ. Các yếu tố khác bất lợi cho
công nghiệp hỗ trợ là tình trạng thiếu nguyên liệu, công nghệ khuôn mẫu kém
phát triển...
Thành phố Hà Nội đã ban hành Kế hoạch số 94/KH-UBND ngày
5/5/2020 của UBND Thành phố Hà Nội về chƣơng trình phát triển CNHT
thành phố Hà Nội năm 2020 đã nêu mục tiêu nhƣ sau:
78
- Khuyến khích phát triển công nghiệp hỗ trợ (CNHT), đẩy mạnh sản
xuất công nghiệp theo chuỗi giá trị toàn cầu. Phát triển các doanh nghiệp
CNHT.
- Tập trung phát triển các lĩnh vực CNHT dựa trên nhu cầu và lợi thế
phát triển của Hà Nội, phù hợp với yêu cầu, định hƣớng phát triển công
nghiệp của Hà Nội và cả nƣớc, bao gồm 03 lĩnh vực chủ chốt là: sản xuất linh
kiện phụ tùng, CNHT phục vụ các ngành công nghiệp công nghệ cao và
CNHT cho ngành dệt may - da giày. Đẩy mạnh liên kết cung ứng trong vùng
kinh tế trọng điểm Bắc Bộ.
- Đẩy nhanh tốc độ phát triển các ngành CNHT Hà Nội thông qua việc
nâng cao năng lực doanh nghiệp sản xuất sản phẩm CNHT trên địa bàn.
- Nâng cao hiệu quả các chƣơng trình hỗ trợ doanh nghiệp CNHT tại
Hà Nội nhằm hỗ trợ doanh nghiệp tham gia vào mạng lƣới sản xuất toàn cầu.
- Thu hút đầu tƣ từ mọi thành phần kinh tế vào lĩnh vực CNHT nhằm
gia tăng số lƣợng và chất lƣợng doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực
CNHT.
Cụ thể là:
- Đến hết năm 2020, có khoảng 900 doanh nghiệp hoạt động trong các
lĩnh vực CNHT tại Hà Nội. Trong đó, có khoảng 400 doanh nghiệp có hệ
thống sản xuất và sản phẩm đạt tiêu chuẩn quốc tế, đủ năng lực cung ứng
tham gia vào mạng lƣới sản xuất toàn cầu của các tập đoàn đa quốc gia tại
Việt Nam.
- Đến hết năm 2020, giá trị sản xuất công nghiệp của CNHT chiếm
khoảng 18% giá trị sản xuất công nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo
Hà Nội; chỉ số phát triển công nghiệp lĩnh vực CNHT hàng năm tăng trên
12%, góp phần thúc đẩy tốc độ tăng trƣởng giá trị tăng thêm bình quân ngành
79
công nghiệp 02 năm 2019 - 2020 đạt từ 9,78 - 10,79%/năm để đạt mục tiêu cả
giai đoạn 2016 - 2020 tăng 8,6 - 9%.
Theo kế hoạch, thành phố sẽ tổ chức Hội chợ, triển lãm quốc tế trƣng
bày các sản phẩm công nghiệp hỗ trợ tại Hà Nội trong năm 2020, với quy mô
khoảng 250 gian hàng của các doanh nghiệp công nghiệp Hà Nội và trên khắp
cả nƣớc; ngoài ra, còn có các doanh nghiệp Nhật Bản, Đài Loan (Trung
Quốc), HongKong (Trung Quốc), Thái Lan,...
Thông qua hội chợ sẽ giúp các doanh nghiệp Hà Nội nâng cao năng lực
cạnh tranh, tham gia tích cực hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu trong ngành
công nghiệp chế tạo: linh kiện, phụ kiện, bán thành phẩm; sử dụng tiết kiệm
nguyên liệu, nhiên liệu và năng lƣợng; tăng cƣờng khả năng hội nhập kinh tế
quốc tế; tạo môi trƣờng gặp gỡ, tìm kiếm cơ hội, kết nối giao dịch thƣơng mại
giữa các doanh nghiệp nhằm sản xuất chế tạo cung ứng linh kiện, phụ kiện,
bán thành phẩm đáp ứng yêu cầu của nhà sản xuất công nghiệp chính.
Bên lề sự kiện, UBND thành phố cũng sẽ tổ chức hội thảo quốc tế, dự kiến
thu hút khoảng 200 đại biểu là đại diện các bộ ngành, lãnh đạo quản lý các
doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ, các chuyên gia về công nghệ hỗ trợ ở trong
và ngoài nƣớc.
Thành phố cũng sẽ hỗ trợ doanh nghiệp áp dụng hệ thống quản lý để
đáp ứng yêu cầu của các chuỗi sản xuất toàn cầu trong quản trị doanh nghiệp,
quản trị sản xuất; tổ chức tập huấn cho các cán bộ, lãnh đạo quản lý các doanh
nghiệp công nghệ hỗ trợ ở Hà Nội với các nội dung về quản trị doanh nghiệp;
quản trị sản xuất; phổ biến nhận thức, cung cấp thông tin về các chính sách,
thị trƣờng và năng lực các ngành công nghiệp hỗ trợ Việt Nam và nƣớc
ngoài.
Ngoài ra, thành phố hỗ trợ nghiên cứu phát triển, ứng dụng chuyển giao
và đổi mới công nghệ trong sản xuất thử nghiệm linh kiện, phụ tùng, nguyên
80
liệu và vật liệu. Thuê chuyên gia trong nƣớc hỗ trợ, tƣ vấn trực tiếp cho các
doanh nghiệp trong việc tiếp nhận chuyển giao công nghệ, mua bản quyền,
sáng chế, phần mềm..; hỗ trợ các doanh nghiệp công nghệ hỗ trợ hoàn thiện,
đầu tƣ đổi mới thiết bị, máy móc, ứng dụng công nghệ tiên tiến, hiện đại vào
sản xuất nhằm nâng cao năng suất, chất lƣợng sản phẩm.
Để thực hiện tốt chƣơng trình kế hoạch, thành phố Hà Nội sẽ tổ chức các
đoàn công tác kiểm tra, giám sát tình hình thực hiện hoạt động về phát triển
công nghệ hỗ trợ trên địa bàn thành phố đảm bảo thiết thực, hiệu quả, không
chồng chéo, đúng các quy định pháp luật
2.2.7. Kiểm tra, thanh tra đối với công nghiệp hỗ trợ
Năm 2017, Thủ tƣớng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 20/CT-TTg
ngày 17/5/2017 về việc chấn chỉnh hoạt động thanh tra, kiểm tra đối với
doanh nghiệp. Sau hơn một năm thực hiện, chỉ thị đã có tác động đến nhận
thức của toàn xã hội về công tác thanh tra, kiểm tra, đƣợc cộng đồng doanh
nghiệp ủng hộ.
Trên địa bàn thành phố Hà Nội, các doanh nghiệp về công nghiệp hỗ trợ
đều là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, họ chỉ sản xuất 1 vài sản phẩm trong
chuỗi cung ứng, các doanh nghiệp này trong một năm bị rất nhiều đoàn thanh
tra, tuy nhiên khi có chỉ thị số 20/CT-TTg thì các trong năm họ chỉ phải tiếp
một đoàn thanh tra liên ngành, đây cũng là một bƣớc tiến mới trong thực hiện
quản lý đối với phát triển công nghiệp hỗ trợ từ các cơ quan quản lý nhà nƣớc.
Công tác thanh tra của thành phố Hà Nội, tập trung vào những lĩnh vực
nhƣ sử dụng đất đai, đầu tƣ xây dựng, trốn thuế, bảo vệ môi trƣờng. Nghiêm
túc tổ chức thực hiện các quyết định giải quyết khiếu nại, quyết định xử lý tố
cáo đã có hiệu lực pháp luật.
Kết quả thanh tra các doanh nghiệp CNHT nhƣ sau:
Nhƣ vậy, giai đoạn 2017 - 2019, việc thanh, kiểm tra các doanh nghiệp
CNHT đƣợc các cơ quan chức năng thực hiện đã giảm thiểu số lƣợng các
81
đoàn thanh tra, kiểm tra, tạo điều kiện cho các DN yên tâm tập trung sản xuất
kinh doanh, UBND thành phố chỉ đạo hạn chế thanh tra, kiểm tra chuyên
ngành, thay vào đó chủ yếu thành lập các đoàn kiểm tra liên ngành, tuy nhiên,
số tiền xử phạt vi phạm tăng mạnh chứng tỏ mức độ vi phạm của DN tăng và
việc xử lý vi phạm đƣợc tiến hành nghiêm túc. Cách thức tổ chức thanh, kiểm
tra tại các doanh nghiệp CNHT giai đoạn 2017 - 2019 cũng có sự khác biệt so
với giai đoạn 2013 - 2016, theo hƣớng giảm số lƣợng, tăng cƣờng kiểm tra
liên ngành. Cùng với đó, UBND thành phố đã chỉ rà soát các dự án có sử
dụng đất trên địa bàn các KCN và thành lập Tổ công tác để triển khai. Kết quả
thanh, kiểm tra đến nay cho thấy các DN cơ bản chấp hành tốt các quy định
của pháp luật. Tuy nhiên vẫn còn một số vấn đề cần quan tâm, khắc phục:
- Về đầu tƣ: qua thanh tra, kiểm tra đối các DN tại KCN Thăng Long,
Khu công nghiệp Nam Hà Nội phát hiện một số DN CNHT còn những tồn tại
nhƣ: Triển khai dự án chậm, không thực hiện theo đúng nội dung của GCN
đầu tƣ …
- Về quy hoạch xây dựng: Đa số các DN CNHT đã triển khai xây dựng
các hạng mục công trình theo đúng với quy hoạch tổng mặt bằng. Tuy nhiên,
một số DN thuộc đối tƣợng thanh tra còn có hiện tƣợng vi phạm nhƣ xây
dựng chƣa đúng theo bản vẽ thiết kế.
- Về triển khai xây dựng hạ tầng: Khi trình phê duyệt dự án, chủ đầu tƣ
các KCN đều cam kết thực hiện đầy đủ các hạng mục đầu tƣ hệ thống HTKT,
các dịch vụ tiện ích… nhƣng trên thực tế tình trạng không thực hiện đúng cam
kết vẫn phổ biến, thu hút đầu tƣ đến đâu thì san lấp xây dựng đến đó, không
đầu tƣ hoặc đầu tƣ không đủ công suất các đối với hạng mục khu xử lý nƣớc
thải tập trung làm ảnh hƣởng đến các DN CNHT trong các KCN.
- Về môi trƣờng: một số đơn vị chƣa chấp hành đầy đủ Luật Bảo vệ
môi trƣờng nhƣ: chƣa có hợp đồng thu gom vận chuyển, xử lý rác thải sinh
hoạt, quan trắc không đúng định kỳ… . Việc san lấp xây dựng hạ tầng KCN
82
đã gây ảnh hƣởng đến nguồn tài nguyên, tác động tiêu cực đến các di tích lịch
sử, hệ thống thoát nƣớc và môi trƣờng xung quanh.
- Về lao động: Qua thanh, kiểm tra phát hiện một số DN CNHT vi
phạm các quy định pháp luật về lao động nhƣ: chƣa đăng ký thang bảng
lƣơng, nội quy lao động và thoả ƣớc lao động tập thể…, chƣa tiến hành khám
sức khỏe cho ngƣời lao động định kỳ hàng năm theo quy định, còn hiện tƣợng
nợ BHXH...
Tuy nhiên, vẫn còn tình trạng chƣa thực hiện đúng chỉ đạo của Chính
phủ tại Nghị quyết số 35/NQ-CP ngày 16/5/2016 ―về hỗ trợ và phát triển DN
đến năm 2020‖, tiến hành thanh, kiểm tra quá một lần/năm đối với một dự án,
và tình trạng nhƣợng bộ, nể nang và chƣa công bằng giữa doanh nghiệp
CNHT và các doanh nghiệp FDI, nhất là đối với các DN 100% vốn nƣớc
ngoài. Các biện pháp xử lý vi phạm đối với các trƣờng hợp này thƣờng là hài
hòa, chƣa thật sự có sức răn đe. Số tiền xử phạt vi phạm vẫn còn thấp.
2.3. Đánh giá thực trạng quản lý nhà nƣớc đối với công nghiệp hỗ trợ
2.3.1. Những thành tựu đạt được
- Là trung tâm kinh tế của cả nƣớc, Hà Nội đã tích tụ và tập trung sản
xuất công nghiệp từ khá sớm, thu hút đƣợc nhiều doanh nghiệp nội địa, doanh
nghiệp FDI đầu tƣ sản xuất công nghiệp và CNHT. Công nghiệp hỗ trợ, đặc
biệt là sản xuất linh kiện cơ khí, nhựa, điện - điện tử tại Hà Nội đã hình thành
và phát triển. Một số doanh nghiệp nội địa có bƣớc phát triển mạnh về công
nghệ kỹ thuật, đã áp dụng các quy trình quản lý sản xuất tiên tiến, cung ứng
hiệu quả cho các công ty FDI.
- Với vai trò là trung tâm của vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ - khu vực
phát triển về công nghiệp chế biến, chế tạo của cả nƣớc và hệ thống khu công
nghiệp, khu công nghệ cao đƣợc đầu tƣ đồng bộ, đặc biệt là Khu công nghệ
cao Hòa Lạc và Khu CNHT Nam Hà Nội; Hà Nội có điều kiện thuận lợi để