Luận văn Thạc sĩ Luật học: Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn quận Long Biên, thành phố Hà Nội

6,108
382
90
66
2.3.2 Những khó khăn vướng mắc về QĐHP đối với tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
Trong những năm vừa qua, đội ngũ Điều tra viên, Kim sát viên, Thm phán
đã rt tích cc hc tp nâng cao trình độ chuyên môn, nghip v; hoàn thành rt tt
nhim v chính tr được Đảng và nhà nước được giao cho. C th tng s Kim sát
viên ca VSKND qun Long Biên hiện nay là 15 người thì có đến 9 người có trình
độ thc sỹ; 7 người có trình độ cao cp lí lun chính tr.
Đội ngũ tiến hành t tng ti qun Long Biên hai quan Viện Kim sát
Tòa án luôn hoàn thành tt công việc được giao đảm bo tt c các v án
được đưa ra xét xử. Tuy nhiên trong thc tiễn QĐHP, đội ngũ tiến hành t tng
Long Biên vn gp phi nhng khó khăn, hn chế xut phát t c t quy định ca
pháp lut, và c t phía nhng cá nhân tham gia tiến hành t tng.
2.3.2.   
- 

th thấy khi quy định v các ti danh nói chung ti c ý gây thương
tích hoc gây tn hi cho sc khe của ngưi khác nói riêng, có khong cách gia
mc thp nht và mc cao nht ca các khung hình pht thưng khá rng. Khung
hình pht ti các khon 1, khon 2, khon 3, khoản 4 Điều 104 BLHS 1999 cho thy
rõ điều đó. Quy định này có ưu điểm là to thun li cho những người tiến hành t
tng, nht Hội đồng xét x th la chọn được mc hình phạt tương xứng vi
tính cht, mức độ nguy him ca tng hành vi phm ti c th. Tuy nhiên, trong
điều kiện trình độ chuyên môn ca những người tiến hành t tng còn có nhng hn
chế nhất định, mt khác, nhn thc ca từng người đối vi các tình tiết ca v án li
s khác nhau, hơn na vn còn mt s bt cp hn chế trong các quy định ca
pháp lut…Tt c những điều đó đã tạo nhiều khó khăn, vướng mắc trong QĐHP,
to ra nhiều trường hp có s  gia lun ti ti phiên tòa ca VKSND
và quyết định của HĐXX, giữa cấp sơ thm và phúc thm khi vn dng các tình tiết
làm căn c quyết đnh hình pht.
66 2.3.2 Những khó khăn vướng mắc về QĐHP đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác Trong những năm vừa qua, đội ngũ Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán đã rất tích cực học tập nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ; hoàn thành rất tốt nhiệm vụ chính trị được Đảng và nhà nước được giao cho. Cụ thể tổng số Kiểm sát viên của VSKND quận Long Biên hiện nay là 15 người thì có đến 9 người có trình độ thạc sỹ; 7 người có trình độ cao cấp lí luận chính trị. Đội ngũ tiến hành tố tụng tại quận Long Biên ở hai cơ quan Viện Kiểm sát và Tòa án luôn hoàn thành tốt công việc được giao và đảm bảo tất cả các vụ án được đưa ra xét xử. Tuy nhiên trong thực tiễn QĐHP, đội ngũ tiến hành tố tụng ở Long Biên vẫn gặp phải những khó khăn, hạn chế xuất phát từ cả từ quy định của pháp luật, và cả từ phía những cá nhân tham gia tiến hành tố tụng. 2.3.2.    -   Có thể thấy khi quy định về các tội danh nói chung và tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nói riêng, có khoảng cách giữa mức thấp nhất và mức cao nhất của các khung hình phạt thường khá rộng. Khung hình phạt tại các khoản 1, khoản 2, khoản 3, khoản 4 Điều 104 BLHS 1999 cho thấy rõ điều đó. Quy định này có ưu điểm là tạo thuận lợi cho những người tiến hành tố tụng, nhất là Hội đồng xét xử có thể lựa chọn được mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của từng hành vi phạm tội cụ thể. Tuy nhiên, trong điều kiện trình độ chuyên môn của những người tiến hành tố tụng còn có những hạn chế nhất định, mặt khác, nhận thức của từng người đối với các tình tiết của vụ án lại có sự khác nhau, hơn nữa vẫn còn một số bất cập hạn chế trong các quy định của pháp luật…Tất cả những điều đó đã tạo nhiều khó khăn, vướng mắc trong QĐHP, tạo ra nhiều trường hợp có sự  giữa luận tội tại phiên tòa của VKSND và quyết định của HĐXX, giữa cấp sơ thẩm và phúc thẩm khi vận dụng các tình tiết làm căn cứ quyết định hình phạt.
67
Ví d: Ngày 14/9/2012, khi đang đi từ ch làm v nhà, Dũng tạt qua quán nước ca
bà Mai để mua thuc lá. Tại đây, Dũng gặp Tùng, khi va nhìn thấy Dũng, Tùng lao
đến tát vào mt và nói i nay mày không tr tao tin mày ch. Dũng tức ti ra
v, và gọi điện cho Hunh và Tun là bn cùng phòng tr. C 3 ngi bàn kế hoch
tr thù Tùng. Sau một lúc nghĩ lại, Tuấn đã quyết định không tham gia nhưng Dũng
nài n nói “mày chỉ cn lái xe ch tao vi thng Hunh thôi, còn li bọn tao lo”.
Tun ly xe máy ch Dũng và Huỳnh đi vòng lại quán nước, không thy Tùng đó,
c bn li vòng lại đi đưng v nhà Tùng, thấy Tùng đang đi bộ t xa, Tun lái xe
áp sát, Dũng và Huỳnh nhy xung, Huỳnh đá vào sau lưng Tùng, lúc này Dũng rút
chiếc dao gt hoa qu ct trong người chém Tùng 2 nhát ri c bn lên xe b đi.
Tùng được người đi đường phát hiện đưa đi cấp cứu. Thương tích 15%. VKS đã
truy t Dũng, Huỳnh, Tun theo khon 2 Điu 104 BLHS vi mc hình phạt như
sau: Dũng và Hunh mi b cáo 3 năm đến 4 năm, Tuấn t 2 đến 3 năm. Ti bn án
50/HSST/2013 ngày 15/3/2013, HĐXX x phạt Dũng 4 năm tù, Huỳnh 3 năm,
Tuấn 2 năm. C 3 b cáo đã làm đơn xin kháng cáo, HĐXX phúc thẩm đã xét xử
theo hướng không chp nhn kháng cáo ca các b cáo và tuyên gi nguyên bn án
sơ thẩm. Tác gi đồng ý với quan điểm ca TAND Q. Long Biên và TAND TP. Hà
Ni, trong v án này, Tuấn ngưi khởi xướng hành vi gây thương tích, vy
Tun phi chu mc hình phạt cao hơn các bị cáo khác là hp lý.
- ng mc trong áp du 47 BLHS 1999
Mt vướng mc na trong vic quyết định hình phạt đó vn còn có nhng
nhn thc cách áp dng khác nhau v quy định của Điều 47 BLHS. Điều 47
BLHS 1999 quy định “khi ít nht 2 tình tit gim nh nh ti khon 1 u
46 ca BLHS này mà không kèm theo quy định “không có tình ting hoc
  thì Tòa án có th quyết định hình
phạt dưới mc thp nht ca khung hình pht…Điu này dẫn đến tng hp nếu b
cáo hai tình tiết gim nh thm chí có ba, bn tình tiết gim nh nhưng lại
nhiu tình tiết tăng nặng và mức độ tăng nặng ca các tình tiết đó đáng kể thì Tòa
67 Ví dụ: Ngày 14/9/2012, khi đang đi từ chỗ làm về nhà, Dũng tạt qua quán nước của bà Mai để mua thuốc lá. Tại đây, Dũng gặp Tùng, khi vừa nhìn thấy Dũng, Tùng lao đến tát vào mặt và nói i nay mày không tr tao tin mày ch. Dũng tức tối ra về, và gọi điện cho Huỳnh và Tuấn là bạn cùng phòng trọ. Cả 3 ngồi bàn kế hoạch trả thù Tùng. Sau một lúc nghĩ lại, Tuấn đã quyết định không tham gia nhưng Dũng nài nỉ và nói “mày chỉ cần lái xe chở tao với thằng Huỳnh thôi, còn lại bọn tao lo”. Tuấn lấy xe máy chở Dũng và Huỳnh đi vòng lại quán nước, không thấy Tùng ở đó, cả bọn lại vòng lại đi đường về nhà Tùng, thấy Tùng đang đi bộ từ xa, Tuấn lái xe áp sát, Dũng và Huỳnh nhảy xuống, Huỳnh đá vào sau lưng Tùng, lúc này Dũng rút chiếc dao gọt hoa quả cất ở trong người chém Tùng 2 nhát rồi cả bọn lên xe bỏ đi. Tùng được người đi đường phát hiện đưa đi cấp cứu. Thương tích 15%. VKS đã truy tố Dũng, Huỳnh, Tuấn theo khoản 2 Điều 104 BLHS với mức hình phạt như sau: Dũng và Huỳnh mỗi bị cáo 3 năm đến 4 năm, Tuấn từ 2 đến 3 năm. Tại bản án 50/HSST/2013 ngày 15/3/2013, HĐXX xử phạt Dũng 4 năm tù, Huỳnh 3 năm, Tuấn 2 năm. Cả 3 bị cáo đã làm đơn xin kháng cáo, HĐXX phúc thẩm đã xét xử theo hướng không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo và tuyên giữ nguyên bản án sơ thẩm. Tác giả đồng ý với quan điểm của TAND Q. Long Biên và TAND TP. Hà Nội, trong vụ án này, Tuấn là người khởi xướng hành vi gây thương tích, vì vậy Tuấn phải chịu mức hình phạt cao hơn các bị cáo khác là hợp lý. - ng mc trong áp du 47 BLHS 1999 Một vướng mắc nữa trong việc quyết định hình phạt đó là vẫn còn có những nhận thức và cách áp dụng khác nhau về quy định của Điều 47 BLHS. Điều 47 BLHS 1999 quy định “khi có ít nht 2 tình tit gim nh nh ti khon 1 u 46 ca BLHS này mà không kèm theo quy định “không có tình ting hoc   thì Tòa án có thể quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt…Điều này dẫn đến trường hợp nếu bị cáo có hai tình tiết giảm nhẹ thậm chí có ba, bốn tình tiết giảm nhẹ nhưng lại có nhiều tình tiết tăng nặng và mức độ tăng nặng của các tình tiết đó là đáng kể thì Tòa
68
án được áp dụng Điều 47 BLHS để quyết định mc hình phạt dưới mc thp
nht ca khung hình pht đi vi b cáo hay không.
Ví d: Ngày 25/7/2014 ti bến xe bus, Hải đánh Sơn thương tích 15%, sau đó
b v nhà, người dân đã đưa Sơn đi cấp cu. Mt lúc sau, Hi đã đến CA quận đầu
thú. Hi đã 01 tiền án v tội cướp tài sản nhưng chưa được xóa án tích. Tuy
nhiên khi xét xử, Tòa đã áp dụng 2 tình tiết gim nh tại Điều 46 BLHS i
phm ti t i phm ti thành kh và vn cho Hi được áp
dụng điều 47 BLHS. Sau khi xét x, Tòa phúc thẩm đã tuyên hy bn án s thm vì
cho rng Hi phạm vào trường hợp “tái phạm” là khung tăng nặng quy định tại Điều
48 BLHS hơn nữa vic Hải đánh Sơn bến xe bus lúc đó rất nhiều ngưi nhìn
thy, nên vic A lên công an t thú không th coi là i phm ti t thú. [52]
2.3.2.2. Hn ch trong hong u tra.
Trong thi gian qua, ti qun Long Biên, nhng v án ti  
tích hoc gây tn hi cho sc khe c b Tòa án ra quyết định tr h
sơ để điều tra b sung chiếm t l không nh. Kết qu thng kê v s v Tòa án tr
để điu tra b sung như sau:
Bng 2.4. Bng thng kê v Tòa án tr điu tra b sung (2011 2015)
Năm
Tng s v tr
ĐTBS (Tòa trả)
S v ti 104 tr
ĐTBS (Tòa trả)
T l %
2011
16
4
25%
2012
14
3
21%
2013
17
4
24%
2014
12
3
25%
2015
18
5
27%
Ngun: Báo cáo thng kê VKSND qun Long Biên
68 án có được áp dụng Điều 47 BLHS để quyết định mức hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt đối với bị cáo hay không. Ví dụ: Ngày 25/7/2014 tại bến xe bus, Hải đánh Sơn thương tích 15%, sau đó bỏ về nhà, người dân đã đưa Sơn đi cấp cứu. Một lúc sau, Hải đã đến CA quận đầu thú. Hải đã có 01 tiền án về tội cướp tài sản nhưng chưa được xóa án tích. Tuy nhiên khi xét xử, Tòa đã áp dụng 2 tình tiết giảm nhẹ tại Điều 46 BLHS là i phm ti t  và i phm ti thành kh và vẫn cho Hải được áp dụng điều 47 BLHS. Sau khi xét xử, Tòa phúc thẩm đã tuyên hủy bản án sở thẩm vì cho rằng Hải phạm vào trường hợp “tái phạm” là khung tăng nặng quy định tại Điều 48 BLHS hơn nữa việc Hải đánh Sơn ở bến xe bus lúc đó có rất nhiều người nhìn thấy, nên việc A lên công an tự thú không thể coi là i phm ti t thú. [52] 2.3.2.2. Hn ch trong hong u tra. Trong thời gian qua, tại quận Long Biên, những vụ án tội   tích hoc gây tn hi cho sc khe c bị Tòa án ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung chiếm tỷ lệ không nhỏ. Kết quả thống kê về số vụ Tòa án trả để điều tra bổ sung như sau: Bảng 2.4. Bảng thống kê vụ Tòa án trả điều tra bổ sung (2011 – 2015) Năm Tổng số vụ trả ĐTBS (Tòa trả) Số vụ tội 104 trả ĐTBS (Tòa trả) Tỷ lệ % 2011 16 4 25% 2012 14 3 21% 2013 17 4 24% 2014 12 3 25% 2015 18 5 27% Nguồn: Báo cáo thống kê VKSND quận Long Biên
69
Bng 2.5. Bng thng kê ni dung v án tr điu tra b sung (2011 2015)
Năm
S v ti 104 tr
ĐTBS (Tòa trả)
Nguyên nhân
Phát sinh tình
tiết mi
Vi phm th
tc t tng
do khác
2011
4
3
0
1
2012
3
3
0
0
2013
4
4
0
0
2014
3
3
0
0
2015
5
4
0
1
Ngun: Báo cáo thng kê VKSND qun Long Biên
Qua bng s liu trên, có th thy s v án “Cố ý gây thương tích hoặc gây tn
hi cho sc khỏe người khác” trả ĐTBS tại tòa tương đối nhiu, chiếm hơn 20%
s vụ, đặc biệt năm 2015 là cao nhất là 27%. Tuy nhiên nguyên nhân tr không xut
phát t th tc t tng,ch yếu là do tình tiết mới như : bị cáo khai thêm đồng
phm, b cáo khai không đúng với lời khai ban đầuĐiu này cho thy hoạt động
điều tra đã có những hn chế nhất định dẫn đến không làm rõ được các tình tiết v
án.Điều y đã ảnh hưởng rt nhiều đến chất lượng hoạt động định ti danh
quyết đnh hình pht ca Tòa án.
Kết luận chƣơng 2
Từ thực tiễn định tội danh và QĐHP về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khoẻ của người khác tại TAND quận Long Biên trong thời gian qua cho
thấy các cơ quan tiến hành tố tụng về cơ bản đã có sự thống nhất trong nhận thức và
áp dụng pháp luật. Đã vận dụng tốt các luận về định tội danh vào thực tiễn,
đặc biệt là các dấu hiệu tả cấu thành tội phạm của tội danh này, cũng như các
tình tiết định tội, định khung của điều luật được áp dụng triệt để, có tính khả thi và
69 Bảng 2.5. Bảng thống kê nội dung vụ án trả điều tra bổ sung (2011 – 2015) Năm Số vụ tội 104 trả ĐTBS (Tòa trả) Nguyên nhân Phát sinh tình tiết mới Vi phạm thủ tục tố tụng Lý do khác 2011 4 3 0 1 2012 3 3 0 0 2013 4 4 0 0 2014 3 3 0 0 2015 5 4 0 1 Nguồn: Báo cáo thống kê VKSND quận Long Biên Qua bảng số liệu trên, có thể thấy số vụ án “Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác” trả ĐTBS tại tòa là tương đối nhiều, chiếm hơn 20% số vụ, đặc biệt năm 2015 là cao nhất là 27%. Tuy nhiên nguyên nhân trả không xuất phát từ thủ tục tố tụng, mà chủ yếu là do tình tiết mới như : bị cáo khai thêm đồng phạm, bị cáo khai không đúng với lời khai ban đầu…Điều này cho thấy hoạt động điều tra đã có những hạn chế nhất định dẫn đến không làm rõ được các tình tiết vụ án.Điều này đã ảnh hưởng rất nhiều đến chất lượng hoạt động định tội danh và quyết định hình phạt của Tòa án. Kết luận chƣơng 2 Từ thực tiễn định tội danh và QĐHP về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác tại TAND quận Long Biên trong thời gian qua cho thấy các cơ quan tiến hành tố tụng về cơ bản đã có sự thống nhất trong nhận thức và áp dụng pháp luật. Đã vận dụng tốt các lý luận về định tội danh vào thực tiễn, mà đặc biệt là các dấu hiệu mô tả cấu thành tội phạm của tội danh này, cũng như các tình tiết định tội, định khung của điều luật được áp dụng triệt để, có tính khả thi và
70
tính thực tiễn cao. Việc QĐHP cũng đảm bảo các nguyên tắc và căn cứ pháp lý khi
tuyên án.
Tuy nhiên, qua quá trình giải quyết các vụ án cho thấy vẫn còn những quy định
chưa rõ ràng, có những vấn đề chưa được quy định dẫn đến việc áp dụng pháp luật
của các quan tiến hành tố tụng hình sự còn nhiều ý kiến, quan điểm khác nhau,
ảnh hưởng lớn đến quá trình định tội danh và QĐHP đối với người phạm tội, tác giả
đã chỉ ra những khó khăn, vướng mắc khi áp dụng điều luật này và đưa ra các giải
pháp để hoàn thiện tại chương 3.
.
70 tính thực tiễn cao. Việc QĐHP cũng đảm bảo các nguyên tắc và căn cứ pháp lý khi tuyên án. Tuy nhiên, qua quá trình giải quyết các vụ án cho thấy vẫn còn những quy định chưa rõ ràng, có những vấn đề chưa được quy định dẫn đến việc áp dụng pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự còn nhiều ý kiến, quan điểm khác nhau, ảnh hưởng lớn đến quá trình định tội danh và QĐHP đối với người phạm tội, tác giả đã chỉ ra những khó khăn, vướng mắc khi áp dụng điều luật này và đưa ra các giải pháp để hoàn thiện tại chương 3. .
71
Chƣơng 3
GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ TỘI CỐ Ý
GÂY THƢƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA
NGƢỜI KHÁC
Từ sau năm 2000, Nhà nước ta thực hiện chủ trương cải cách tư pháp theo
tinh thần của Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ X của Đảng các Nghị quyết
của Bộ Chính trị như: Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị
về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác pháp trong thời gian tới; ghị quyết số
48/NQ-TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện
hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 Nghị
quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách
pháp đến năm 2020. Đây những định hướng quan trọng cho việc nghiên cứu,
hoàn thiện các quy định của BLHS nhằm thể chế hóa quan điểm mới về chính sách
hình sự của Đảng và Nhà nước ta trong tình hình hiện nay.
Sự phát triển, bổ sung đề cao quyền con người, quyền bản của công
dân trong Hiến pháp năm 2013 cũng đặt ra yêu cầu phải tiếp tục hoàn thiện các quy
định của BLHS hiện hành, làm cho các quyền này của người dân được thực hiện
trên thực tế. Theo đó, một mặt, BLHS phải xử nghiêm các hành vi xâm hại các
quyền con người, quyền bản của công dân; đồng thời cũng cần nghiên cứu, đề
xuất sửa đổi hệ thống hình phạt theo hướng đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính
hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội.
Việc hoàn thiện BLHS còn là yêu cầu của hội nhập quốc tế mà Việt Nam đã
tham gia nhiều tổ chức quốc tế, tổ chức khu vực và đã trở thành thành viên của
nhiều điều ước quốc tế đa phương, trong đó có các công ước về phòng chống tội
phạm. Việt Nam đã đàm phán và ký kết nhiều hiệp định tương trợ pháp về hình
sự và hiệp định dẫn độ với các nước trên thế giới. Bên cạnh đó, về mặt kỹ thuật lập
pháp, BLHS hiện hành còn gây khó khăn trong công tác điều tra, truy tố và xét xử
tội phạm. Do vậy, có thể thấy, việc nghiên cứu sửa đổi một cách toàn diện BLHS
thời gian qua một đòi hỏi cấp bách của thực tiễn. BLHS mới thông qua đã phần
71 Chƣơng 3 GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƢƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƢỜI KHÁC Từ sau năm 2000, Nhà nước ta thực hiện chủ trương cải cách tư pháp theo tinh thần của Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ X của Đảng và các Nghị quyết của Bộ Chính trị như: Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới; ghị quyết số 48/NQ-TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 và Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Đây là những định hướng quan trọng cho việc nghiên cứu, hoàn thiện các quy định của BLHS nhằm thể chế hóa quan điểm mới về chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta trong tình hình hiện nay. Sự phát triển, bổ sung và đề cao quyền con người, quyền cơ bản của công dân trong Hiến pháp năm 2013 cũng đặt ra yêu cầu phải tiếp tục hoàn thiện các quy định của BLHS hiện hành, làm cho các quyền này của người dân được thực hiện trên thực tế. Theo đó, một mặt, BLHS phải xử lý nghiêm các hành vi xâm hại các quyền con người, quyền cơ bản của công dân; đồng thời cũng cần nghiên cứu, đề xuất sửa đổi hệ thống hình phạt theo hướng đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội. Việc hoàn thiện BLHS còn là yêu cầu của hội nhập quốc tế mà Việt Nam đã tham gia nhiều tổ chức quốc tế, tổ chức khu vực và đã trở thành thành viên của nhiều điều ước quốc tế đa phương, trong đó có các công ước về phòng chống tội phạm. Việt Nam đã đàm phán và ký kết nhiều hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự và hiệp định dẫn độ với các nước trên thế giới. Bên cạnh đó, về mặt kỹ thuật lập pháp, BLHS hiện hành còn gây khó khăn trong công tác điều tra, truy tố và xét xử tội phạm. Do vậy, có thể thấy, việc nghiên cứu sửa đổi một cách toàn diện BLHS thời gian qua là một đòi hỏi cấp bách của thực tiễn. BLHS mới thông qua đã phần
72
nào khắc phục được một số khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn. Tuy nhiên, để các
quy định sửa đổi, bổ sung trong BLHS mới phát huy tác dụng thì rất cần có các văn
bản hướng dẫn kịp thời, bảo đảm thể áp dụng thuận lợi các quy định này. Sau
đây tác giả xin đưa ra một số biện pháp cụ thể:
3.1. Hoàn thiện quy định v tình tiết định ti c ý gây thƣơng tích hoặc
gây tn hi cho sc khe của ngƣời khác
3.1.1. B quy định “khởi t theo yêu cu của người b hại” đối vi nhng
v án v ti c ý gây thương tích hoặc gây tn hi cho sc khe của người khác
Đối vi hành vi c ý gây thương tích, người phm tội đã xâm phạm khách
th quan trọng đó là sức khỏe con người vi hình thc li c ý. Mt khác, các hành
vi c ý gây thương tích hoặc gây tn hi cho sc khe của người khác thường din
ra công khai, trái vi đạo đức, thun phong m tc ca dân tộc. Điều 104 BLHS quy
định t l thương tật t 11% tr lên là t l cn thiết để truy cu TNHS. Tuy nhiên,
trong thc tế có mt s trưng hp t l thương tật không đến 11% nhưng li thuc
mt trong những trường hợp quy định tại điểm a đến điểm k khoản 1 Điều 104 thì
hành vi đó vẫn b truy cu TNHS. Còn nếu t l thương tật dưới 11% không gây c
tật thì được coi là thương tích nhẹ, chưa phải chu TNHS. Mặt khác, theo quy định
ti khoản 1 Điều 105 BLTTHS năm 2003 thì các cơ quan tiến hành t tng ch được
khi t v án nếu người b hại có đơn yêu cầu, trong đó các v án thuc khon 1
Điều 104 BLHS. Theo chúng tôi, quy định trên của BLTTHS năm 2003 không
hp lý, bi lẽ: Cũng theo quy định ca pháp lut, mt s ti chiếm đoạt tài sn
(công nhiên chiếm đoạt tài sn,trm cp tài sn, lừa đảo chiếm đoạt tài sản…),
người phm ti chiếm đoạt tài sn t 2.000.000đ trở lên thì đã bị khi t, truy t
xét x không cn phi có yêu cu của người b hại, trong khi đó ti c ý gây
thương tích hoặc gây tn hi cho sc khe của người khác có trường hợp, người b
hi phải điều tr hết c chc triệu đồng thì li phải có đơn yêu cầu của người b hi
thì cơ quan có thẩm quyn mi được khi t, truy t và xét x. Chính điểm bt hp
lý này đã làm cho nhiu người sau khi phm tội đã dùng nhiều th đoạn đểm cho
người b hi không yêu cu khi t v án. Điều này đã làm hn chế hiu qu hot
72 nào khắc phục được một số khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn. Tuy nhiên, để các quy định sửa đổi, bổ sung trong BLHS mới phát huy tác dụng thì rất cần có các văn bản hướng dẫn kịp thời, bảo đảm có thể áp dụng thuận lợi các quy định này. Sau đây tác giả xin đưa ra một số biện pháp cụ thể: 3.1. Hoàn thiện quy định về tình tiết định tội cố ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của ngƣời khác 3.1.1. Bỏ quy định “khởi tố theo yêu cầu của người bị hại” đối với những vụ án về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác Đối với hành vi cố ý gây thương tích, người phạm tội đã xâm phạm khách thể quan trọng đó là sức khỏe con người với hình thức lỗi cố ý. Mặt khác, các hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác thường diễn ra công khai, trái với đạo đức, thuần phong mỹ tục của dân tộc. Điều 104 BLHS quy định tỷ lệ thương tật từ 11% trở lên là tỷ lệ cần thiết để truy cứu TNHS. Tuy nhiên, trong thực tế có một số trường hợp tỷ lệ thương tật không đến 11% nhưng lại thuộc một trong những trường hợp quy định tại điểm a đến điểm k khoản 1 Điều 104 thì hành vi đó vẫn bị truy cứu TNHS. Còn nếu tỷ lệ thương tật dưới 11% không gây cố tật thì được coi là thương tích nhẹ, chưa phải chịu TNHS. Mặt khác, theo quy định tại khoản 1 Điều 105 BLTTHS năm 2003 thì các cơ quan tiến hành tố tụng chỉ được khởi tố vụ án nếu người bị hại có đơn yêu cầu, trong đó có các vụ án thuộc khoản 1 Điều 104 BLHS. Theo chúng tôi, quy định trên của BLTTHS năm 2003 là không hợp lý, bởi lẽ: Cũng theo quy định của pháp luật, một số tội chiếm đoạt tài sản (công nhiên chiếm đoạt tài sản,trộm cắp tài sản, lừa đảo chiếm đoạt tài sản…), người phạm tội chiếm đoạt tài sản từ 2.000.000đ trở lên thì đã bị khởi tố, truy tố và xét xử mà không cần phải có yêu cầu của người bị hại, trong khi đó tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác có trường hợp, người bị hại phải điều trị hết cả chục triệu đồng thì lại phải có đơn yêu cầu của người bị hại thì cơ quan có thẩm quyền mới được khởi tố, truy tố và xét xử. Chính điểm bất hợp lý này đã làm cho nhiều người sau khi phạm tội đã dùng nhiều thủ đoạn để làm cho người bị hại không yêu cầu khởi tố vụ án. Điều này đã làm hạn chế hiệu quả hoạt
73
động chng và phòng nga ti phm của các cơ quan bảo v pháp lut, bi do pháp
luật quy định như trên nên khi các vụ   c gây tn hi cho
sc khe c i khác xảy ra thì việc điều tra, thu thp chng c của CQĐT
thường không được tiến hành mt cách kp thời đầy đủ, gây khó khăn cho việc
áp dng các biện pháp ngăn chn, gây tn kém v công sc, tin ca cho công tác
điều tra khi v án b đình chỉ; làm phát sinh tiêu cc trong vic gii quyết dân s
như ngưi b hi yêu cu bồi thường quá cao hoặc đối tượng phm ti gây sc ép
vi gia đình đ rút đơn.
T nhng phân tích trên, chúng tôi đề ngh: ti khoản 1 Điều 105 BLTTHS
2003 nên b quy định khi t theo yêu cu của người b hại đối vi nhng v án v
ti c ý gây thương tích hoc gây tn hi cho sc khe của người khác quy định ti
khoản 1 Điều 104 BLHS nhằm đảm bo tính nghiêm minh ca pháp lut.
3.1.2. Làm các tình tiết định tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác
Thực tiễn việc xác định mặt chủ quan của tội phạm này còn nhiều khó khăn
dẫn đến khó phân biệt với tội giết người theo Điều 93 BLHS, nhất là trong trường
hợp giết người chưa đạt và cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác. vậy, pháp luật hình sự cần phải các quy định cụ thể căn c
mang tính thực tiễn để xác định mặt chủ quan của tội danh này, từ đó giúp cho các
quan tiến hành tố tụng dễ dàng phân biệt giữa tội giết người tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.
3.2. Hoàn thiện quy định v các tình tiết định khung ca ti c ý gây
thƣơng tích hoặc gây tn hi cho sc khe của ngƣời khác:
* 
Từ những khó khăn, vướng mắc nêu trên, tác giả xin đề xuất hoàn thiện
hướng dẫn áp dụng điểm a khoản 1 Điều 104 BLHS 
như sau:
- Hung khí nguy hiểm là vũ khí hoặc phương tiện nguy hiểm được hướng
dẫn tại các tiểu mục 2.1 2.2 mục 2 Phần I Nghị quyết số 02/2003/NQ-HĐTP
73 động chống và phòng ngừa tội phạm của các cơ quan bảo vệ pháp luật, bởi do pháp luật quy định như trên nên khi các vụ   c gây tn hi cho sc khe c i khác” xảy ra thì việc điều tra, thu thập chứng cứ của CQĐT thường không được tiến hành một cách kịp thời và đầy đủ, gây khó khăn cho việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn, gây tốn kém về công sức, tiền của cho công tác điều tra khi vụ án bị đình chỉ; làm phát sinh tiêu cực trong việc giải quyết dân sự như người bị hại yêu cầu bồi thường quá cao hoặc đối tượng phạm tội gây sức ép với gia đình để rút đơn. Từ những phân tích trên, chúng tôi đề nghị: tại khoản 1 Điều 105 BLTTHS 2003 nên bỏ quy định khởi tố theo yêu cầu của người bị hại đối với những vụ án về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác quy định tại khoản 1 Điều 104 BLHS nhằm đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật. 3.1.2. Làm rõ các tình tiết định tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác Thực tiễn việc xác định mặt chủ quan của tội phạm này còn nhiều khó khăn dẫn đến khó phân biệt với tội giết người theo Điều 93 BLHS, nhất là trong trường hợp giết người chưa đạt và cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Vì vậy, pháp luật hình sự cần phải có các quy định cụ thể có căn cứ mang tính thực tiễn để xác định mặt chủ quan của tội danh này, từ đó giúp cho các cơ quan tiến hành tố tụng dễ dàng phân biệt giữa tội giết người và tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. 3.2. Hoàn thiện quy định về các tình tiết định khung của tội cố ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của ngƣời khác: *  Từ những khó khăn, vướng mắc nêu trên, tác giả xin đề xuất hoàn thiện hướng dẫn áp dụng điểm a khoản 1 Điều 104 BLHS  như sau: - Hung khí nguy hiểm là vũ khí hoặc phương tiện nguy hiểm được hướng dẫn tại các tiểu mục 2.1 và 2.2 mục 2 Phần I Nghị quyết số 02/2003/NQ-HĐTP
74
ngày 17/4/2003 của Hội đồng Thẩm phána án nhânn tối cao phải được
định nghĩa cụ th hơn nữa thế nào phương tiện nguy hiểm khái niệm
phương tiện nguy hiểm tại tiểu mục 2.2 có nộim không rõ ràng, chung chung,
hồ dẫn đến các quan tiến hành tố tụng gặp nhiều khó khăn khi đánh giá
một số vật như “chiếc cốc”, “cái thớt” hay cái “mũ bảo hiểm” và một số vật dụng
khác trong thực tiễn có phải là phương tiện nguy hiểm hay không. Do đó cần làm
hơn định nghĩa này như sau:  

cho        
.
* 
Đây tình tiết được xem là tình tiết định tội theo khung bản định
khung khoản 2, khoản 3 của điều luật. Như vậy, theo logic thì đương nhiên tình tiết
gây cố tật nặng, rất nặng với tỷ lệ thương tật từ 11% trở lên cũng phải được áp dụng
tình tiết định khung để truy cứu TNHS theo khoản 2 khoản 3 của Điều 104
BLHS 1999. như vậy mới đảm bảo nguyên tắc mức độ nguy hiểm cao hơn thì
phải chịu hình phạt cao hơn. Điều y sẽ vừa đảm bảo nguyên tắc pháp chế, vừa
đảm bảo tính công bằng và khoa học trong truy cứu TNHS đối với người phạm tội.
Do đó tác giả đề xuất cần phân chia cố tật thành 3 mức độ (tương đương với các
khoản 1, 2 và 3 của điều luật) bao gồm cố tật nhẹ có tỷ lệ thương tật dưới 11%; cố
tật nặng có tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% cố tật rất nặng có tỷ lệ thương tật từ
31% trở lên. Việc phân chia này cũng phù hợp mức phân chia thương tật trong tội
danh này.
        

BLHS 2015 đã khắc phục một số hạn chế, bất cập trong quy định của Điều
104 BLHS 1999. Trong Điều 134 BLHS 2015 đã chia thành 7 khoản với các quy
định cụ thể và logic hơn, tuy nhiên, mức hình phạt giữa các khung vẫn còn sự chồng
lấn. Khoảng cách giữa mức thấp nhất mức cao nhất của khung hình phạt các
74 ngày 17/4/2003 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao và phải được định nghĩa cụ thể hơn nữa thế nào là phương tiện nguy hiểm vì khái niệm phương tiện nguy hiểm tại tiểu mục 2.2 có nội hàm không rõ ràng, chung chung, mơ hồ dẫn đến các cơ quan tiến hành tố tụng gặp nhiều khó khăn khi đánh giá một số vật như “chiếc cốc”, “cái thớt” hay cái “mũ bảo hiểm” và một số vật dụng khác trong thực tiễn có phải là phương tiện nguy hiểm hay không. Do đó cần làm rõ hơn định nghĩa này như sau:    cho         . *  Đây là tình tiết được xem là tình tiết định tội theo khung cơ bản và định khung khoản 2, khoản 3 của điều luật. Như vậy, theo logic thì đương nhiên tình tiết gây cố tật nặng, rất nặng với tỷ lệ thương tật từ 11% trở lên cũng phải được áp dụng là tình tiết định khung để truy cứu TNHS theo khoản 2 và khoản 3 của Điều 104 BLHS 1999. Có như vậy mới đảm bảo nguyên tắc mức độ nguy hiểm cao hơn thì phải chịu hình phạt cao hơn. Điều này sẽ vừa đảm bảo nguyên tắc pháp chế, vừa đảm bảo tính công bằng và khoa học trong truy cứu TNHS đối với người phạm tội. Do đó tác giả đề xuất cần phân chia cố tật thành 3 mức độ (tương đương với các khoản 1, 2 và 3 của điều luật) bao gồm cố tật nhẹ có tỷ lệ thương tật dưới 11%; cố tật nặng có tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% và cố tật rất nặng có tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên. Việc phân chia này cũng phù hợp mức phân chia thương tật trong tội danh này.           BLHS 2015 đã khắc phục một số hạn chế, bất cập trong quy định của Điều 104 BLHS 1999. Trong Điều 134 BLHS 2015 đã chia thành 7 khoản với các quy định cụ thể và logic hơn, tuy nhiên, mức hình phạt giữa các khung vẫn còn sự chồng lấn. Khoảng cách giữa mức thấp nhất và mức cao nhất của khung hình phạt ở các
75
khoản 2 và khoản 3 đã được thu hẹp đáng kể, tuy nhiên khoảng cách này trong các
khoản 4, 5 khoản 6 lại rất rộng, cần tiếp tục nghiên cứu để thu hẹp các khoảng
cách này với những mức hợp lí hơn bảo đảm thuận lợi cho người áp dụng.
3.3. Các giải pháp khác
3.3.1. Công tác hướng dẫn áp dụng pháp luật.
Bộ luật hình sự năm 1999 được Quốc hội nước Cộng hoà hội chủ nghĩa
Việt Nam khóa X thông qua tại kỳ họp thứ 6 ngày 21/12/1999 và có hiệu lực từ
ngày 01/7/2000. Quá trình áp dụng, Quốc hội đã có 02 lần sửa đổi, bổ sung cho phù
hợp tình hình đất nước, đáp ứng tốt hơn yêu cầu công tác đấu tranh phòng, chống
tội phạm. BLHS 1999 công cụ sắc bén trong việc bảo vệ thành quả cách
mạng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã
hội, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, đấu tranh chống phòng ngừa
tội phạm, góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Tuy đã được sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS
1999 (Luật số 37/2009/QH12 ngày 19/6/2009), nhưng quá trình thực thi các điều
khoản trong BLHS cũng đã nảy sinh nhiều vấn đề bất cập, gây vướng mắc cho các
cơ quan tiến hành tố tụng trong đó có Điều, 46, 48, 104 BLHS.
Bộ luật tố tụng hình sự được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam khóa XI, kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 26/11/2003. Bộ luật đã quy định
trình tự, thủ tục tiến hành các hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành
án hình sự. Tuy nhiên, trong thực tế áp dụng, một số điều khoản còn quy định chưa
cụ thể, rõ ràng, trong đó có quy định về giám định thương tích, khởi tố theo yêu cầu
của người bị hại.
Bộ luật hình sự 2015 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 đã khắc phục được
nhiều hạn chế, trong các hạn chế nêu trên. Tuy nhiên để việc áp dụng pháp luật một
cách chính xác thống nhất thì cần bannh các văn bảnớng dẫn áp để thực
hiện. Do đó, công tác hướng dẫn áp dụng pháp luật cần được triển khai kịp thời,
tránh việc xử oan sai, bỏ lọt tội phạm hoặc cùng một điều luật, một tình tiết
nhưng các quan tiến hành tố tụng lại những cách hiểu khác nhau dẫn đến
75 khoản 2 và khoản 3 đã được thu hẹp đáng kể, tuy nhiên khoảng cách này trong các khoản 4, 5 và khoản 6 lại rất rộng, cần tiếp tục nghiên cứu để thu hẹp các khoảng cách này với những mức hợp lí hơn bảo đảm thuận lợi cho người áp dụng. 3.3. Các giải pháp khác 3.3.1. Công tác hướng dẫn áp dụng pháp luật. Bộ luật hình sự năm 1999 được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa X thông qua tại kỳ họp thứ 6 ngày 21/12/1999 và có hiệu lực từ ngày 01/7/2000. Quá trình áp dụng, Quốc hội đã có 02 lần sửa đổi, bổ sung cho phù hợp tình hình đất nước, đáp ứng tốt hơn yêu cầu công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm. BLHS 1999 là công cụ sắc bén trong việc bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm, góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Tuy đã được sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS 1999 (Luật số 37/2009/QH12 ngày 19/6/2009), nhưng quá trình thực thi các điều khoản trong BLHS cũng đã nảy sinh nhiều vấn đề bất cập, gây vướng mắc cho các cơ quan tiến hành tố tụng trong đó có Điều, 46, 48, 104 BLHS. Bộ luật tố tụng hình sự được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI, kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 26/11/2003. Bộ luật đã quy định trình tự, thủ tục tiến hành các hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự. Tuy nhiên, trong thực tế áp dụng, một số điều khoản còn quy định chưa cụ thể, rõ ràng, trong đó có quy định về giám định thương tích, khởi tố theo yêu cầu của người bị hại. Bộ luật hình sự 2015 và Bộ luật tố tụng hình sự 2015 đã khắc phục được nhiều hạn chế, trong các hạn chế nêu trên. Tuy nhiên để việc áp dụng pháp luật một cách chính xác và thống nhất thì cần ban hành các văn bản hướng dẫn áp để thực hiện. Do đó, công tác hướng dẫn áp dụng pháp luật cần được triển khai kịp thời, tránh việc xử lý oan sai, bỏ lọt tội phạm hoặc cùng một điều luật, một tình tiết nhưng các cơ quan tiến hành tố tụng lại có những cách hiểu khác nhau dẫn đến có