Luận văn Thạc sĩ Luật học: Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn quận Long Biên, thành phố Hà Nội
6,130
382
90
46
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, chỉ khác về mức độ hậu quả xảy ra cho
người
khác có thương tật từ 61% trở lên hoặc từ 31% đến 60% nhưng phải thuộc một trong
các trường hợp được quy định từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều 104 BLHS.
Về cơ bản, các cơ quan tiến hành tố tụng của quận Long Biên đã áp dụng
đúng các quy định của pháp luật hình sự trong việc xác định các yếu tố cấu thành
tội phạm. Khung hình phạt này đã được áp dụng với 26 vụ trong tổng số 102 vụ đã
xét xử về tội danh này chiếm 25,7%. Phần lớn các vụ án đã được giải quyết đều
vận
dụng đúng các quy định của pháp luật nên các bản án đã tuyên đa số đều có cơ sở.
Tuy nhiên, trong quá trình giải quyết, vẫn còn trường hợp việc áp dụng pháp luật
chưa bảo đảm đúng tinh thần của các quy định:
Ví dụ vụ án: Ngày 14/8/2012, Thành và Đức đi xe máy lưu thông trên
đường, đến đoạn dừng đèn đỏ, Thành và Đức vượt đèn đỏ, tạt đầu và làm xước xe ô
tô của anh Tùng đang đỗ đèn đỏ cùng chiều. Lúc sau, Tùng phóng lên đi ngang
hàng với Thành, kéo kính xuống, lúc này ngồi ghế phụ là anh Tuấn đã quay ra chửi
: y th t d. Sau đó 2 bên đôi co, đến đoạn đường vắng,
Thành và Đức đỗ xe trước ô tô của Tùng. Hai bên to tiếng 1 hồi, sau đó Thành rút
chiếc dao bấm trong người ra chém trượt Tùng. Tùng với Tuấn quay đầu chạy ra
sau xe ô tô định núp, nhưng Đức đã nhanh tay nhặt khúc gỗ dưới đất vòng ra sau
và
đập 01 nhát vào đầu Tuấn. Không dừng lại ở đó, Tùng đập thêm nhiều nhát vào
người Tuấn, Thành thấy Tuấn nằm ngất dưới đất nên kêu Đức dừng lại và bỏ đi. Tại
kết luận giám định thương tích, kết luận Tuấn thương tích tỷ lệ 35% chấn thương
sọ
não. Tại phiên tòa sơ thẩm, Tòa án đã tuyên: Đức phạm tội Cố ý gây thương tích
xử
phạt 6 năm tù giam; Thành phạm tội gây rối trật tự công cộng xử phạt 12 tháng 23
ngày tù giam. Bản án sau đó bị Tòa phúc thẩm tuyên hủy để điều tra lại, do còn
nhiều tình tiết chưa được làm rõ, lời khai các thời kỳ của bị cáo mâu thuẫn
nhau.[44]
-
m: Qua nghiên cứu các
vụ án đã xét xử cho thấy, khi hành vi đã thỏa mãn tất cả các dấu hiệu khác của
CTTP tội cố ý gây thương tích và hậu quả (tỷ lệ thương tật của người bị hại) từ
31%
47
đến 60%, và các bị cáo đã sử dụng công cụ phương tiện phạm tội là mã tấu, dao,
rựa, xà beng, gạch, đá…là những thì Tòa án sẽ áp dụng
tình tiết định khung là để áp dụng khoản 3, Điều 104
BLHS trong dự dẫn chiếu đến điểm a khoản 1 Điều 104 là đúng theo quy định của
pháp luật.
Ví dụ vụ án: Ngày 17/1/2014, Vân, Tuấn, Công, Phương và Thành rủ nhau
mua thức ăn về ăn cơm và uống ruợu tại phòng trọ của chị Vân. Khi cả nhóm đang
uống rượu thì có Phương Anh (là bạn gái của Thành) đến. Thành đưa Phương Anh
về phòng của mình và không cho Phương Anh ăn cơm cùng mọi người. Thấy vậy,
anh Phương và Tuấn có nhắc nhở Thành, các bên lời qua tiếng lại với nhau, Thành
bỏ về phòng trọ của mình. Khoảng 5-10 phút sau Thành lấy 01 con dao gấp dài
khoảng 10cm có chuôi bằng kim loại, lưỡi dao dài khoảng 5cm cầm ở tay phải và đi
vào phòng của chị Vân. Thành dùng dao đâm vào má phải của anh Tuấn, sau đó tiếp
tục đâm nhiều nhát vào người anh Tuấn làm anh Tuấn bị thương. Tại bản kết luận
giám định thương tích kết luận tỷ lệ thương tật của anh Tuấn là 38%. TAND quận
Long Biên nhận định Thành đã dùng dao nhọn là loại hung khí nguy hiểm gây
thương tích cho người khác tuy với tỉ lệ dưới 61% nhưng thuộc trường hợp dùng
” (Điểm a khoản 1 Điều 104 BLHS) nên đã áp dụng khoản 3,
Điều 104 BLHS tuyên xử phạt Thành 5 năm tù là có căn cứ [45].
Nghiên cứu các vụ án đã xét xử cho thấy, khi hành vi cố ý gây thương tích
thỏa mãn tất cả các dấu hiệu khác của CTTP và hậu quả tỷ lệ thương tật của người
bị hại từ 31% đến 60%, người thực hiện hành vi vô cớ hoặc vì nguyên cớ nhỏ nhặt
đã có hành vi gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe cho người bị hại thì
Tòa án áp dụng tình tiết để định tội danh theo
khoản
3 Điều 104 BLHS là đúng pháp luật trong sự dẫn chiếu đến điểm “i” khoản 1 Điều
104 BLHS
Ví dụ vụ án: Ngày 24/4/2015, anh Cường, Sỹ và anh Võ đến quán lẩu cay
Dũng Hà để ăn đêm cùng các bạn, sau đó cả nhóm rủ nhau đi hát karraoke, khi anh
Cường đang đứng ở ngoài cửa quán để nghe điện thoại thì nhìn thấy phía trước cửa
48
quán có Tùng đang chở bạn là Thắm. Lúc này, Tùng nhìn anh Cường và hỏi
, anh Cường trả lời và tiến lại gần Tùng. Thấy
vậy, Tùng nghĩ là Cường đang nhìn đểu mình nên tiến lại gần chỗ anh Cường, hai
người đứng đối diện nhau, Tùng liền dùng tay trái rút con dao từ trong túi quần
trước ra và nói với anh Cường đồng thời giơ dao đâm trúng vào
phần ngực của anh Cường. Tại Bản kết luận giám định y pháp về thương tích kết
luận tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây ra là 34%. TAND quận Long Biên
nhận định Tùng không mâu thuẫn gì với anh Cường, Tùng đã sử dụng dao là loại
hung khí nguy hiểm đâm vào người của gây thương tích, với tỉ lệ dưới 61% nhưng
thuộc trường hợp tính , nên đã áp
dụng khoản 3, điều 104 BLHS tuyên xử phạt Tuấn 6 năm tù là có căn cứ.
Qua nghiên cứu cho thấy các trường hợp phạm tội mà tỷ lệ thương tật của
người bị hại dưới 11% để định tội danh theo khung cơ bản, dưới 30% để định tội
danh theo khung 2 và dưới 60% để định tội danh theo khoản 3 nhưng thuộc các
điểm khác tuy có xảy ra nhưng không nhiều.
2.2. Quyết định hình phạt tội cố ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của ngƣời khác
2.2.1. Cơ sở lý luận của Quyết định hình phạt đối với tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.
Quyết định hình phạt là hoạt động nhận thức và áp dụng pháp luật hình sự
của Hội đồng xét xử. Tuy nhiên, cho tới nay ở nước ta vẫn chưa có một văn bản
pháp luật hình sự nào ghi nhận định nghĩa về quyết định hình phạt. Trong khoa
học
pháp lý đã có khá nhiều tác giả đưa ra định nghĩa quyết định hình phạt. Đa số
các
tác giả cho rằng: nh hình pht là vic Tòa án la chn loi hình pht
c
th bao gm hình pht chính và có th c hình pht b sung vi m c th
trong
phm vi lu áp di phm t[9] Phân tích các quy định của
pháp luật hình sự về quyết định hình phạt và các quan điểm khoa học về quyết
định
hình phạt có thể thấy quyết định hình phạt theo quy định của BLHS 1999 có các
đặc
điểm sau:
49
- Thứ nhất, quyết định hình phạt là hoạt động thực tiễn của Tòa án (cụ thể là
của HĐXX) được thực hiện sau khi đã định tội danh;
- Thứ hai, quyết định hình phạt do Tòa án thực hiện trên cơ sở quy định của
BLHS;
- Thứ ba, nội dung của quyết định hình phạt có thể là miễn TNHS hoặc có
thể là miễn hình phạt hoặc nếu Tòa án quyết định áp dụng hình phạt thì quyết
định
hình phạt bao gồm xác định khung hình phạt (có thể) và hình phạt cụ thể cho bị
cáo;
- Thứ tư, quyết định hình phạt chỉ áp dụng đối với cá nhân có hành vi phạm tội.
Từ những phân tích trên, tác giả đồng ý với quan điểm cho rằng, nh
hình pht là hong nhn thc thc tin ca Tòa án (c th c thc
hin c t nh ra bin pháp x ng
vi
tính cht, m nguy him cho xã hi ca hành vi b c hin. Ni dung
ca hong quynh hình pht có th là min TNHS hoc có th là min hình
pht hoc nu Tòa án quynh áp dng hình pht thì hong quynh hình
pht bao gm vinh khung hình pht và vinh hình pht c th
trong
phm vi lui vi b [63; Tr 74,75]
Mặc dù QĐHP là hoạt động nhận thức thực tiễn của Tòa án, tuy nhiên, hoạt
động này chịu sự chi phối rất lớn bởi kết quả hoạt động của các cơ quan khác
trong
quá trình giải quyết vụ án hình sự. Bởi lẽ chỉ có thể quyết định một hình phạt
đúng
trên cơ sở nhận thức đúng các tình tiết của vụ án.Tuy nhiên, để làm rõ các tình
tiết
của vụ án thì vai trò của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, cơ quan giám định…là
vô
cùng quan trọng. Chỉ có thể QĐHP một cách chính xác khi kết quả hoạt động của
các cơ quan có liên quan trong quá trình giải quyết vụ án cũng bảo đảm khách
quan
và chính xác
Với khái niệm và đặc điểm như trên, việc quyết định hình phạt đúng sẽ có ý
nghĩa vô cùng quan trọng trong công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm cũng như
mang lại sự công bằng, khách quan cho xã hội, bởi:
Thứ nhất, quyết định hình phạt đúng là cơ sở pháp lý để đạt được mục đích
của hình phạt.
50
Thứ hai, quyết định hình phạt đúng là cơ sở pháp lý đảm bảo và nâng cao
hiệu quả của hình phạt.
Thứ ba, quyết định hình phạt đúng là điều kiện đảm bảo tính khả thi của hệ
thống hình phạt.
2.2.2 Thực tiễn áp dụng pháp luật để quyết định hình phạt đối với tội cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
2.2.2.1.
2011 - 2015
Bảng 2.3. Tình hình quyết định hình phạt của Tòa án từ năm 2011 đến 2015
Hình phạt
Năm 2011
Năm 2012
Năm 2013
Năm 2014
Năm 2015
Bị
cáo
Tỷ lệ
%
Bị
cáo
Tỷ lệ
%
Bị
cáo
Tỷ lệ
%
Bị
cáo
Tỷ lệ
%
Bị
cáo
Tỷ lệ
%
Cải tạo
không
giam giữ
0
0
0
0
0
0
0
0
2
5,7%
Tù cho
hƣởng án
treo
7
39%
3
13%
2
5%
8
26%
8
22,8%
Từ 3 năm
trở xuống
7
39%
8
35%
30
77%
13
41,5%
19
54,4%
Từ 3 năm
đến 7 năm
4
22%
12
52%
7
18%
8
26%
4
11,4%
Từ 7 năm
đến 15
năm
0
0
0
0
0
0
2
6,5%
2
5,7%
Tổng cộng
18
23
39
31
35
Nguồn: Tòa án nhân dân quận Long Biên, thành phố Hà Nội
Bảng thống kê trên cho thấy, giai đoạn 2011-2015 TAND quận Long Biên đã
áp dụng tất cả các loại hình phạt được quy định trong Điều 199 BLHS cho các bị
cáo phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.
Tuy nhiên, hình phạt cải tạo không giam giữ là hình phạt được tòa án áp dụng ít
51
nhất (chỉ có 2/132 bị cáo chiếm 1,5% tổng số bị cáo bị xét xử giai đoạn
2011-2015).
Có thể thấy suốt từ năm 2011 đến 2014, Tòa án không áp dụng hình phạt này. Cả
hai vụ đều được Tòa án áp dụng trong năm 2015. Chiếm số lượng nhiều nhất là
hình phạt tù từ 3 năm trở xuống với 77 bị cáo chiếm 52,7% tổng số bị cáo bị xét
xử
giai đoạn 2011-2015. Tiếp theo là mức xử phạt từ 3 đến 7 năm tù với 35 bị cáo
chiếm 24 % tổng số bị cáo bị xét xử giai đoạn 2011-2015. Hình phạt tù từ 7 đến
15
năm chỉ có 4 bị cáo và cũng chỉ có 28 bị cáo bị phạt tù cho hưởng án treo trong
tổng
số 132 bị cáo bị xét xử giai đoạn 2011-2015. Điều này về cơ bản là phù hợp với
tính
chất mức độ của hành vi phạm tội, phù hợp với tình hình tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác xảy ra trên địa bàn quận. Đa số các
vụ án khi đưa ra mức xử phạt cho các bị cáo đều được các bị cáo chấp nhận; người
bị hại hài lòng và đông đảo dư luận người dân đồng tình ủng hộ.
Bên cạnh những kết quả đạt được kể trên, quá trình QĐHP đối với tội cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, TAND quận Long
Biên cũng gặp phải nhiều khó khăn, vướng mắc. Một số trường hợp bản án đưa ra
vẫn chưa thuyết phục vì chưa có được những cơ sở vững chắc cũng như chưa đánh
giá hết những tình tiết có ảnh hưởng đến tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi
phạm tội. Những hạn chế, vướng mắc này sẽ được tác giả đề cập đến phần sau của
luận văn.Sau đây tác giả sẽ phân tích làm rõ thực tiễn QĐHP của TAND quận Long
Biên đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác.
khác theo
Đối với người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác theo quy định tại Điều 104 BLHS 1999 thì họ có thể áp dụng những
hình phạt sau: cải tạo không giam giữ, phạt tù cho hưởng án treo, tù có thời
hạn,
phạt tù chung thân. Để có thể ra một trong các quyết định về hình phạt trên đối
với
tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác thì ngoài
việc căn cứ vào các quy định tại chương VII của BLHS về quyết định hình phạt thì
Tòa án còn phải căn cứ vào các điều khoản, văn bản khác phù hợp với từng hình
52
phạt khác nhau như: Khi áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ đối với người
phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, Tòa
án cũng phải căn cứ vào Điều 32 BLHS 1999 về cải tạo không giam giữ, đó là: hình
phạt cải tạo không giam giữ được áp dụng từ sáu tháng đến ba năm đối với người
phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng do BLHS quy định mà đang có nơi
làm việc ổn định hoặc có nơi thường trú rõ ràng, nếu xét thấy không cần thiết
phải
cách ly người phạm tội khỏi xã hội. Chỉ khi người phạm tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người kkhác có những điều kiện thỏa mãn các
quy định tại Điều 31 BLHS 1999 thì họ mới được áp dụng hình phạt cải tạo không
giam giữ. Đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người
khác, hình phạt cải tạo không giam giữ chỉ được áp dụng đối với người phạm tội
bị
truy cứu TNHS theo khoản 1 Điều 104 BLHS 1999.
. Hoặc khi áp dụng hình phạt tù cho hưởng án treo, ngoài việc áp dụng các
quy định tại chương VII, Tòa án còn phải áp dụng các quy định tại Điều 60 của
BLHS cùng với các văn bản hướng dẫn áp dụng án treo, chẳng hạn như văn bản
mới nhất hướng dẫn về việc áp dụng hình phạt này là Nghị quyết số 01/2013/NQ
HĐTP ngày 06 tháng 11 năm 2013 của HĐTP TANDTC về hướng dẫn áp dụng
Điều 60 của BLHS 1999 về án treo. Trong 5 năm, tòa án quận Long Biên đã ra
quyết định cho 28 bị cáo được hưởng án treo trong tổng số 146 bị cáo phạm tội cố
ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác, chiếm 19%. Ngoài ra,
khi quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội còn phải căn cứ
vào các quy định tại Điều 43 BLHS…
Có thể nói, các quy định trong BLHS và trong các văn bản hướng dẫn thi
hành BLHS là những căn cứ quan trọng đầu tiên để Tòa án áp dụng trong QĐHP.
Nghiên cứu 102 vụ án đã được TAND quận Long Biên xét xử về tội cốý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác giai đoạn 2011-2015 cho
thấy, phần lớn các vụ án, Tòa án đã vận dụng hết sức chính xác các quy định của
pháp luật trong việc QĐHP, vì vậy hình phạt đã tuyên cho 146 bị cáo phạm tội
phần
lớn là phù hợp các quy định của pháp luật, tương xứng với tính chất, mức độ nguy
53
hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, đáp ứng yêu cầu của hoạt động đấu tranh
chống và phòng ngừa tội phạm. Tuy nhiên cũng có một vài vụ việc áp dụng các quy
định của pháp luật hình sự còn có những vướng mắc mà tác giả sẽ trình bày ở phần
sau của luận văn
2.2.2.3 Quynh hình phi vi ti c c gây tn
hi cho sc khe ci khác theo tính cht, m nguy him cho xã hi ca
hành vi phm ti
Các quy định của BLHS thuộc căn cứ thứ nhất để quyết định hình phạt thực
chất cũng đã bao hàm một phần nội dung của căn cứ thứ hai này. Tuy nhiên, BLHS
vẫn quy định tiếp căn cứ thứ hai cho việc QĐHP là “cân nhc tính cht và m
nguy him ca hành vi phm t để nhằm bảo đảm xem xét một cách kỹ lưỡng tất
cả những tình tiết có liên quan đến tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm
tội để quyết định được một mức xử phạt tương xứng với tính chất và mức độ nguy
hiểm của hành vi phạm tội.
Nói cách khác thì tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi vi
phạm đã được nhà làm luật xác định để làm căn cứ phân loại tội phạm; cá thể hóa
hình phạt; tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội còn là
căn cứ xác định mức hình phạt cho từng tội phạm. Bởi vậy, cùng một loại tội
phạm,
cùng một khung hình phạt nhưng do những yếu tố khác nhau nên tính chất, mức độ
nguy hiểm của hành vi phạm tội cũng khác nhau và tất nhiên, mức hình phạt cũng
khác nhau.
Đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác tại các khoản 1, 2 và 3 đều có các tình tiết định khung hình phạt quy định
tại
khoản 1 Điều 104 BLHS 1999. Nhà làm luật đã quy định 10 tình tiết tương ứng với
cấu thành tội phạm cơ bản từ điểm a đến k là tình tiết định khung hình phạt, nên
tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi trước hết phụ thuộc vào việc người phạm
tội có ít hoặc nhiều tình tiết định khung hình phạt quy định tại các điểm từ a
đến k
khoản 1 Điều 104 BLHS. Tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi
phạm tội cũng phục thuộc vào hậu quả mà hành vi đó gây ra thể hiện bằng tỷ lệ
54
thương tật của người bị hại tại các khoản 1, 2, 3 và số người chết tại khoản 4
Điều
104 BLHS 1999.
Cân nhắc tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội cốý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác đòi hỏi Hội đồng
xét
xử phải đánh giá một cách toàn diện các yếu tố, như tính chất của hành vi (thể
hiện
qua công cụ, phương tiện, thủ đoạn, hình thức thực hiện...); tính chất và mức độ
của
hậu quả thiệt hại gây ra cho nạn nhân; tính chất của động cơ phạm tội, quyết tâm
thực hiện tội phạm, hoàn cảnh phạm tội...
Nghiên cứu 102 vụ án phạm tội cốý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác mà TAND quận Long Biên đã xét xử giai đoạn 2011-2015
cho thấy, đa số vụ án đều được Hội đồng xét xử cân nhắc cẩn trọng tính chất, mức
độ nguy hiểm của hành vi phạm tội trên cơ sở đánh giá một cách toàn diện các
tình
tiết, diễn biến của vụ án, cũng như hậu quả mà hành vi phạm tội đã gây ra cho
nạn
nhân. Tuy nhiên, cũng có một vài vụ án, việc cân nhắc tính chất, mức độ nguy
hiểm
cho xã hội của hành vi phạm tội cũng có những hạn chế do các nguyên nhân khác
nhau sẽ được tác giả phân tích kỹ ở phần sau của luận văn.
- Vụ án 1: Ngày 16/7/2013 Thắng đi ăn sáng tại quán của chị Huyền trên
đường Nguyễn Văn Linh, Thắng sau khi ăn sáng xong có ngồi chơi ở trước cửa
quán nói chuyện phiếm với chị Huyền. Thành cũng là khách đang ăn ở quán, khi
đang tính tiền thì có nói “ĐM, ăn bát phở nóng đéo chịu được” Thắng ngồi gần đó
tưởng Thành chửi mình nên đã cầm cái điếu cầy đập vào đầu Thành. Thành bị chảy
máu, tại bệnh viện kết luận tỷ lệ thương tật 15%. Ngày 09/12/2013 TAND quận
Long Biên đã xét xử Giang 12 Tháng tù giam. Tại vụ án trên, Tòa án đã cân nhắc,
vận dụng tình tiết tăng nặng là để quyết định hình phạt
đối
với hành vi phạm tội của Thắng.
- Vụ án 2: Ngày 27/8/2013, Nghĩa và Hùng đi uống càfê tại quán chị Hương
tại Khu đô thị Việt Hưng. Tại đây 2 người nói chuyện to làm ảnh hưởng đến các
bàn khác trong quán. Anh Hiếu ngồi bàn bên cạnh quay ra nhìn, lập tức Nghĩa đứng
dậy đi về phía Hiếu “Mày nhìn gì hả thằng kia” liền cầm chiếc điếu cầy ở gần đó
55
đập vào đầu anh Hiếu, và sau đó còn ấn đầu Hiếu xuống bàn, anh Hiếu được đưa đi
cấp cứu, tỷ lệ thương tật 15%. Nghĩa bị TAND quận Long Biên tuyên phạt Nghĩa
36 tháng theo khoản 2 Điều 104 BLHS với tình tiết tăng nặng là t côn
viện vẫn từ điểm “I” khoản 1 Điều 104 BLHS, theo đánh giá của hội đồng xét
xử, việc chỉ vì anh Hiếu quay ra “nhìn” mà Nghĩa có thể đánh người khác như vậy
thì hành vi của Nghĩa quá nguy hiểm [46].
So sánh hai vụ án cho thấy, mặc dù cùng gây thương tích với tỷ lệ 15%, hung
khí đều là cái , và Tòa án đều áp dụng tình tiết “có tính chất côn đồ”
khi
quyết định hình phạt. Tuy nhiên, xét về tính chất và mức độ
thì hành vi của Nghĩa nguy hiểm hơn hành vi của anh Thắng rất nhiều. TAND
Q.Long Biên tuyên phạt như vậy là hoàn toàn hợp lý.
2.2.2.4. Quynh hình phi vi ti c c gây tn
hi cho sc khe cm nhân thân ci phm ti
Nhân thân người phạm tội là toàn bộ các yếu tố về tự nhiên và xã hội có liên
quan đến người phạm tội bao gồm: Tuổi đời, tình trạng sức khỏe, nghề nghiệp,
trình
độ văn hóa, trình độ chuyên môn, quá trình công tác, thành tích, kỷ luật, lịch
sử bản
thân, hoàn cảnh gia đình…Nhân thân người phạm tội nói chung và nhân thân người
phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nói
riêng là căn cứ rất quan trọng để HĐXX quyết định hình phạt. Nghiên cứu 102 vụ
án phạm tội cốý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác đã
được xét xử tại quận Long Biên cho thấy, đặc trưng cơ bản về nhân thân những
người phạm tội này đa số có nghề nghiệp là nông dân, trình độ học vấn thấp.
Những
người có nhân thân như Đảng viên, cán bộ công chức, chiếm tỷ lệ rất thấp. Trong
5
năm từ 2011 đến 2015 chỉ có 01 trường hợp là Đảng viên, cán bộ công chức phạm
loại tội này. Người phạm tội đa phần là người từ nơi khác đến, là người dân tộc
thiểu số hoặc những người lao động chân tay, làm nông, thiếu hiểu biết về pháp
luật
chiếm tỷ lệ cao trong loại tội phạm này.
Ví dụ: 21 giờ 30 phút ngày 29/10/2011 tại công trường xây dựng Vincom,
ông Liên là thợ xây dựng đang ở tại lán hoa lan 6 của công trường. Tại đây Hùng,