Luận văn Thạc sĩ Luật học: Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn quận Long Biên, thành phố Hà Nội

6,130
382
90
46
gây tn hi cho sc khe ca người khác, ch khác v mức độ hu qu xy ra cho ngưi
khác có thương tật t 61% tr lên hoc t 31% đến 60% nhưng phải thuc mt trong
các trường hợp được quy định t điểm a đến điểm k khoản 1 Điu 104 BLHS.
V bản, các cơ quan tiến hành t tng ca qun Long Biên đã áp dụng
đúng các quy định ca pháp lut hình s trong việc xác định các yếu t cu thành
ti phm. Khung hình pht này đã được áp dng vi 26 v trong tng s 102 v đã
xét x v ti danh này chiếm 25,7%. Phn ln các v án đã được gii quyết đu vn
dụng đúng các quy định ca pháp lut nên các bản án đã tuyên đa số đều có cơ sở.
Tuy nhiên, trong quá trình gii quyết, vẫn n trường hp vic áp dng pháp lut
chưa bảo đảm đúng tinh thần của các quy định:
d v án: Ngày 14/8/2012, Thành Đức đi xe máy lưu thông trên
đường, đến đoạn dừng đèn đỏ, Thành và Đức vượt đèn đỏ, tạt đầu và làm xước xe ô
của anh Tùng đang đỗ đèn đỏ cùng chiu. Lúc sau, Tùng phóng lên đi ngang
hàng vi Thành, kéo kính xung, lúc này ngi ghế ph là anh Tuấn đã quay ra chửi
: y th   t d. Sau đó 2 bên đôi co, đến đoạn đường vng,
Thành và Đức đỗ xe trước ô tô ca Tùng. Hai bên to tiếng 1 hồi, sau đó Thành rút
chiếc dao bấm trong người ra chém trượt Tùng. Tùng vi Tun quay đầu chy ra
sau xe ô tô định núp, nhưng Đức đã nhanh tay nhặt khúc g dưới đất vòng ra sau và
đập 01 nhát vào đầu Tun. Không dng li đó, Tùng đập thêm nhiu nhát vào
người Tun, Thành thy Tun nm ngất dưới đất nên kêu Đức dng li và b đi. Ti
kết luận giám định thương tích, kết lun Tuấn thương tích tỷ l 35% chấn thương sọ
não. Tại phiên tòa sơ thẩm, Tòa án đã tuyên: Đức phm ti C ý gây thương tích xử
phạt 6 năm tù giam; Thành phạm ti gây ri trt t công cng x pht 12 tháng 23
ngày giam. Bản án sau đó bị Tòa phúc thm tuyên hủy để điều tra li, do còn
nhiu tình tiết chưa được làm rõ, li khai các thi k ca b cáo mâu thun
nhau.[44]
- 
m: Qua nghiên cứu các
vụ án đã xét xử cho thấy, khi hành vi đã thỏa mãn tất cả các dấu hiệu khác của
CTTP tội cố ý gây thương tích và hậu quả (tỷ lệ thương tật của người bị hại) từ 31%
46 gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, chỉ khác về mức độ hậu quả xảy ra cho người khác có thương tật từ 61% trở lên hoặc từ 31% đến 60% nhưng phải thuộc một trong các trường hợp được quy định từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều 104 BLHS. Về cơ bản, các cơ quan tiến hành tố tụng của quận Long Biên đã áp dụng đúng các quy định của pháp luật hình sự trong việc xác định các yếu tố cấu thành tội phạm. Khung hình phạt này đã được áp dụng với 26 vụ trong tổng số 102 vụ đã xét xử về tội danh này chiếm 25,7%. Phần lớn các vụ án đã được giải quyết đều vận dụng đúng các quy định của pháp luật nên các bản án đã tuyên đa số đều có cơ sở. Tuy nhiên, trong quá trình giải quyết, vẫn còn trường hợp việc áp dụng pháp luật chưa bảo đảm đúng tinh thần của các quy định: Ví dụ vụ án: Ngày 14/8/2012, Thành và Đức đi xe máy lưu thông trên đường, đến đoạn dừng đèn đỏ, Thành và Đức vượt đèn đỏ, tạt đầu và làm xước xe ô tô của anh Tùng đang đỗ đèn đỏ cùng chiều. Lúc sau, Tùng phóng lên đi ngang hàng với Thành, kéo kính xuống, lúc này ngồi ghế phụ là anh Tuấn đã quay ra chửi : y th   t d. Sau đó 2 bên đôi co, đến đoạn đường vắng, Thành và Đức đỗ xe trước ô tô của Tùng. Hai bên to tiếng 1 hồi, sau đó Thành rút chiếc dao bấm trong người ra chém trượt Tùng. Tùng với Tuấn quay đầu chạy ra sau xe ô tô định núp, nhưng Đức đã nhanh tay nhặt khúc gỗ dưới đất vòng ra sau và đập 01 nhát vào đầu Tuấn. Không dừng lại ở đó, Tùng đập thêm nhiều nhát vào người Tuấn, Thành thấy Tuấn nằm ngất dưới đất nên kêu Đức dừng lại và bỏ đi. Tại kết luận giám định thương tích, kết luận Tuấn thương tích tỷ lệ 35% chấn thương sọ não. Tại phiên tòa sơ thẩm, Tòa án đã tuyên: Đức phạm tội Cố ý gây thương tích xử phạt 6 năm tù giam; Thành phạm tội gây rối trật tự công cộng xử phạt 12 tháng 23 ngày tù giam. Bản án sau đó bị Tòa phúc thẩm tuyên hủy để điều tra lại, do còn nhiều tình tiết chưa được làm rõ, lời khai các thời kỳ của bị cáo mâu thuẫn nhau.[44] -  m: Qua nghiên cứu các vụ án đã xét xử cho thấy, khi hành vi đã thỏa mãn tất cả các dấu hiệu khác của CTTP tội cố ý gây thương tích và hậu quả (tỷ lệ thương tật của người bị hại) từ 31%
47
đến 60%, các bị cáo đã sử dụng công cụ phương tiện phạm tội tấu, dao,
rựa, xà beng, gạch, đá…là những thì Tòa án sẽ áp dụng
tình tiết định khung   để áp dụng khoản 3, Điều 104
BLHS trong dự dẫn chiếu đến điểm a khoản 1 Điều 104 đúng theo quy định của
pháp luật.
dụ vụ án: Ngày 17/1/2014, Vân, Tuấn, Công, Phương Thành rủ nhau
mua thức ăn về ăn cơm và uống ruợu tại phòng trọ của chị Vân. Khi cả nhóm đang
uống rượu thì có Phương Anh (là bạn gái của Thành) đến. Thành đưa Phương Anh
về phòng của mình và không cho Phương Anh ăn cơm cùng mọi người. Thấy vậy,
anh Phương và Tuấn có nhắc nhở Thành, các bên lời qua tiếng lại với nhau, Thành
bỏ về phòng trọ của mình. Khoảng 5-10 phút sau Thành lấy 01 con dao gấp dài
khoảng 10cm có chuôi bằng kim loại, lưỡi dao dài khoảng 5cm cầm ở tay phải và đi
vào phòng của chị Vân. Thành dùng dao đâm vào má phải của anh Tuấn, sau đó tiếp
tục đâm nhiều nhát vào người anh Tuấn làm anh Tuấn bị thương. Tại bản kết luận
giám định thương tích kết luận tỷ lệ thương tật của anh Tuấn là 38%. TAND quận
Long Biên nhận định Thành đã dùng dao nhọn loại hung khí nguy hiểm y
thương tích cho người khác tuy với tỉ lệ dưới 61% nhưng thuộc trường hợp dùng
(Điểm a khoản 1 Điều 104 BLHS) nên đã áp dụng khoản 3,
Điều 104 BLHS tuyên xử phạt Thành 5 năm tù là có căn cứ [45].

Nghiên cứu các vụ án đã xét xử cho thấy, khi hành vi cố ý gây thương tích
thỏa mãn tất cả các dấu hiệu khác của CTTP và hậu quả tỷ lệ thương tật của người
bị hại từ 31% đến 60%, người thực hiện hành vi vô cớ hoặc vì nguyên cớ nhỏ nhặt
đã có hành vi y thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe cho người bị hại thì
Tòa án áp dụng tình tiết để định tội danh theo khoản
3 Điều 104 BLHS là đúng pháp luật trong sự dẫn chiếu đến điểm “i” khoản 1 Điều
104 BLHS
dụ vụ án: Ngày 24/4/2015, anh Cường, Sỹ anh Võ đến quán lẩu cay
Dũng Hà để ăn đêm cùng các bạn, sau đó cả nhóm rủ nhau đi hát karraoke, khi anh
Cường đang đứng ở ngoài cửa quán để nghe điện thoại thì nhìn thấy phía trước cửa
47 đến 60%, và các bị cáo đã sử dụng công cụ phương tiện phạm tội là mã tấu, dao, rựa, xà beng, gạch, đá…là những thì Tòa án sẽ áp dụng tình tiết định khung là   để áp dụng khoản 3, Điều 104 BLHS trong dự dẫn chiếu đến điểm a khoản 1 Điều 104 là đúng theo quy định của pháp luật. Ví dụ vụ án: Ngày 17/1/2014, Vân, Tuấn, Công, Phương và Thành rủ nhau mua thức ăn về ăn cơm và uống ruợu tại phòng trọ của chị Vân. Khi cả nhóm đang uống rượu thì có Phương Anh (là bạn gái của Thành) đến. Thành đưa Phương Anh về phòng của mình và không cho Phương Anh ăn cơm cùng mọi người. Thấy vậy, anh Phương và Tuấn có nhắc nhở Thành, các bên lời qua tiếng lại với nhau, Thành bỏ về phòng trọ của mình. Khoảng 5-10 phút sau Thành lấy 01 con dao gấp dài khoảng 10cm có chuôi bằng kim loại, lưỡi dao dài khoảng 5cm cầm ở tay phải và đi vào phòng của chị Vân. Thành dùng dao đâm vào má phải của anh Tuấn, sau đó tiếp tục đâm nhiều nhát vào người anh Tuấn làm anh Tuấn bị thương. Tại bản kết luận giám định thương tích kết luận tỷ lệ thương tật của anh Tuấn là 38%. TAND quận Long Biên nhận định Thành đã dùng dao nhọn là loại hung khí nguy hiểm gây thương tích cho người khác tuy với tỉ lệ dưới 61% nhưng thuộc trường hợp dùng ” (Điểm a khoản 1 Điều 104 BLHS) nên đã áp dụng khoản 3, Điều 104 BLHS tuyên xử phạt Thành 5 năm tù là có căn cứ [45].  Nghiên cứu các vụ án đã xét xử cho thấy, khi hành vi cố ý gây thương tích thỏa mãn tất cả các dấu hiệu khác của CTTP và hậu quả tỷ lệ thương tật của người bị hại từ 31% đến 60%, người thực hiện hành vi vô cớ hoặc vì nguyên cớ nhỏ nhặt đã có hành vi gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe cho người bị hại thì Tòa án áp dụng tình tiết để định tội danh theo khoản 3 Điều 104 BLHS là đúng pháp luật trong sự dẫn chiếu đến điểm “i” khoản 1 Điều 104 BLHS Ví dụ vụ án: Ngày 24/4/2015, anh Cường, Sỹ và anh Võ đến quán lẩu cay Dũng Hà để ăn đêm cùng các bạn, sau đó cả nhóm rủ nhau đi hát karraoke, khi anh Cường đang đứng ở ngoài cửa quán để nghe điện thoại thì nhìn thấy phía trước cửa
48
quán Tùng đang chở bạn Thắm. Lúc y, Tùng nhìn anh Cường hỏi 
, anh Cường trả lời  tiến lại gần Tùng. Thấy
vậy, Tùng nghĩ Cường đang nhìn đểu mình nên tiến lại gần chỗ anh Cường, hai
người đứng đối diện nhau, Tùng liền dùng tay trái rút con dao từ trong túi quần
trước ra nói với anh Cường  đồng thời giơ dao đâm trúng vào
phần ngực của anh Cường. Tại Bản kết luận giám định y pháp về thương tích kết
luận tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây ra là 34%. TAND quận Long Biên
nhận định Tùng không mâu thuẫn gì với anh Cường, Tùng đã sử dụng dao là loại
hung khí nguy hiểm đâm vào người của gây thương tích, với tỉ lệ dưới 61% nhưng
thuộc trường hợp  tính   ,     nên đã áp
dụng khoản 3, điều 104 BLHS tuyên xử phạt Tuấn 6 năm tù là có căn cứ.
Qua nghiên cứu cho thấy các trường hợp phạm tội tỷ lệ thương tật của
người bị hại dưới 11% để định tội danh theo khung cơ bản, dưới 30% để định tội
danh theo khung 2 dưới 60% để định tội danh theo khoản 3 nhưng thuộc các
điểm khác tuy có xảy ra nhưng không nhiều.
2.2. Quyết định hình phạt tội cố ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của ngƣời khác
2.2.1. sở luận của Quyết định hình phạt đối với tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.
Quyết định hình pht hoạt động nhn thc áp dng pháp lut hình s
ca Hội đồng xét x. Tuy nhiên, cho ti nay nước ta vẫn chưa có một văn bn
pháp lut hình s nào ghi nhn định nghĩa về quyết định hình pht. Trong khoa hc
pháp lý đã khá nhiều tác gi đưa ra định nghĩa quyết định hình phạt. Đa số các
tác gi cho rng: nh hình pht vic Tòa án la chn loi hình pht c
th bao gm hình pht chính và có th c hình pht b sung vi m c th trong
phm vi lu áp di phm t[9] Phân tích các quy định ca
pháp lut hình s v quyết định hình phạt và các quan điểm khoa hc v quyết định
hình pht có th thy quyết đnh hình pht theo quy định ca BLHS 1999 có các đặc
điểm sau:
48 quán có Tùng đang chở bạn là Thắm. Lúc này, Tùng nhìn anh Cường và hỏi  , anh Cường trả lời  và tiến lại gần Tùng. Thấy vậy, Tùng nghĩ là Cường đang nhìn đểu mình nên tiến lại gần chỗ anh Cường, hai người đứng đối diện nhau, Tùng liền dùng tay trái rút con dao từ trong túi quần trước ra và nói với anh Cường  đồng thời giơ dao đâm trúng vào phần ngực của anh Cường. Tại Bản kết luận giám định y pháp về thương tích kết luận tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây ra là 34%. TAND quận Long Biên nhận định Tùng không mâu thuẫn gì với anh Cường, Tùng đã sử dụng dao là loại hung khí nguy hiểm đâm vào người của gây thương tích, với tỉ lệ dưới 61% nhưng thuộc trường hợp  tính   ,     nên đã áp dụng khoản 3, điều 104 BLHS tuyên xử phạt Tuấn 6 năm tù là có căn cứ. Qua nghiên cứu cho thấy các trường hợp phạm tội mà tỷ lệ thương tật của người bị hại dưới 11% để định tội danh theo khung cơ bản, dưới 30% để định tội danh theo khung 2 và dưới 60% để định tội danh theo khoản 3 nhưng thuộc các điểm khác tuy có xảy ra nhưng không nhiều. 2.2. Quyết định hình phạt tội cố ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của ngƣời khác 2.2.1. Cơ sở lý luận của Quyết định hình phạt đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Quyết định hình phạt là hoạt động nhận thức và áp dụng pháp luật hình sự của Hội đồng xét xử. Tuy nhiên, cho tới nay ở nước ta vẫn chưa có một văn bản pháp luật hình sự nào ghi nhận định nghĩa về quyết định hình phạt. Trong khoa học pháp lý đã có khá nhiều tác giả đưa ra định nghĩa quyết định hình phạt. Đa số các tác giả cho rằng: nh hình pht là vic Tòa án la chn loi hình pht c th bao gm hình pht chính và có th c hình pht b sung vi m c th trong phm vi lu áp di phm t[9] Phân tích các quy định của pháp luật hình sự về quyết định hình phạt và các quan điểm khoa học về quyết định hình phạt có thể thấy quyết định hình phạt theo quy định của BLHS 1999 có các đặc điểm sau:
49
- Th nht, quyết định hình pht là hoạt động thc tin ca Tòa án (c th
của HĐXX) được thc hiện sau khi đã định ti danh;
- Th hai, quyết định hình pht do Tòa án thc hin trên cơ sở quy định ca
BLHS;
- Th ba, ni dung ca quyết định hình pht th min TNHS hoc
thmin hình pht hoc nếu Tòa án quyết định áp dng hình pht thì quyết định
hình pht bao gồm xác định khung hình pht (có th) và hình pht c th cho b cáo;
- Th tư, quyết đnh hình pht ch áp dụng đối vi cá nhân có hành vi phm ti.
T nhng phân tích trên, tác gi đồng ý với quan điểm cho rng, nh
hình pht là hong nhn thc thc tin ca Tòa án (c th c thc
hin c t  nh ra bin pháp x ng vi
tính cht, m nguy him cho xã hi ca hành vi b c hin. Ni dung
ca hong quynh hình pht có thmin TNHS hoc có th là min hình
pht hoc nu Tòa án quynh áp dng hình pht thì hong quynh hình
pht bao gm vinh khung hình pht và vinh hình pht c th trong
phm vi lui vi b [63; Tr 74,75]
Mặc dù QĐHP là hoạt động nhn thc thc tin ca Tòa án, tuy nhiên, hot
động này chu s chi phi rt ln bi kết qu hoạt động của các cơ quan khác trong
quá trình gii quyết v án hình s. Bi l ch có th quyết đnh mt hình phạt đúng
trên cơ sở nhn thức đúng các tình tiết ca v án.Tuy nhiên, đ làm rõ các tình tiết
ca v án thì vai trò của Cơ quan điều tra, Vin kiểm sát, cơ quan giám định…là vô
cùng quan trng. Ch th QĐHP một cách chính xác khi kết qu hoạt động ca
các cơ quan có liên quan trong quá trình giải quyết v án cũng bảo đảm khách quan
và chính xác
Vi khái niệm và đặc điểm như trên, việc quyết định hình phạt đúng sẽ có ý
nghĩa vô cùng quan trọng trong công tác đấu tranh, phòng chng ti phạm cũng như
mang li s công bng, khách quan cho xã hi, bi:
Th nht, quyết định hình phạt đúng cơ sở pháp lý để đạt được mục đích
ca hình pht.
49 - Thứ nhất, quyết định hình phạt là hoạt động thực tiễn của Tòa án (cụ thể là của HĐXX) được thực hiện sau khi đã định tội danh; - Thứ hai, quyết định hình phạt do Tòa án thực hiện trên cơ sở quy định của BLHS; - Thứ ba, nội dung của quyết định hình phạt có thể là miễn TNHS hoặc có thể là miễn hình phạt hoặc nếu Tòa án quyết định áp dụng hình phạt thì quyết định hình phạt bao gồm xác định khung hình phạt (có thể) và hình phạt cụ thể cho bị cáo; - Thứ tư, quyết định hình phạt chỉ áp dụng đối với cá nhân có hành vi phạm tội. Từ những phân tích trên, tác giả đồng ý với quan điểm cho rằng, nh hình pht là hong nhn thc thc tin ca Tòa án (c th c thc hin c t  nh ra bin pháp x ng vi tính cht, m nguy him cho xã hi ca hành vi b c hin. Ni dung ca hong quynh hình pht có th là min TNHS hoc có th là min hình pht hoc nu Tòa án quynh áp dng hình pht thì hong quynh hình pht bao gm vinh khung hình pht và vinh hình pht c th trong phm vi lui vi b [63; Tr 74,75] Mặc dù QĐHP là hoạt động nhận thức thực tiễn của Tòa án, tuy nhiên, hoạt động này chịu sự chi phối rất lớn bởi kết quả hoạt động của các cơ quan khác trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Bởi lẽ chỉ có thể quyết định một hình phạt đúng trên cơ sở nhận thức đúng các tình tiết của vụ án.Tuy nhiên, để làm rõ các tình tiết của vụ án thì vai trò của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, cơ quan giám định…là vô cùng quan trọng. Chỉ có thể QĐHP một cách chính xác khi kết quả hoạt động của các cơ quan có liên quan trong quá trình giải quyết vụ án cũng bảo đảm khách quan và chính xác Với khái niệm và đặc điểm như trên, việc quyết định hình phạt đúng sẽ có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm cũng như mang lại sự công bằng, khách quan cho xã hội, bởi: Thứ nhất, quyết định hình phạt đúng là cơ sở pháp lý để đạt được mục đích của hình phạt.
50
Th hai, quyết định nh phạt đúng sở pháp lý đảm bo và nâng cao
hiu qu ca hình pht.
Th ba, quyết định hình phạt đúng điều kiện đảm bo tính kh thi ca h
thng hình pht.
2.2.2 Thực tiễn áp dụng pháp luật để quyết định hình phạt đối với tội cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
2.2.2.1. 
               
2011 - 2015
Bng 2.3. Tình hình quyết đnh hình pht ca Tòa án t năm 2011 đến 2015
Hình pht
Năm 2011
Năm 2012
Năm 2013
Năm 2014
Năm 2015
B
cáo
T l
%
B
cáo
T l
%
B
cáo
T l
%
B
cáo
T l
%
B
cáo
T l
%
Ci to
không
giam gi
0
0
0
0
0
0
0
0
2
5,7%
Tù cho
ng án
treo
7
39%
3
13%
2
5%
8
26%
8
22,8%
T 3 năm
tr xung
7
39%
8
35%
30
77%
13
41,5%
19
54,4%
T 3 năm
đến 7 năm
4
22%
12
52%
7
18%
8
26%
4
11,4%
T 7 năm
đến 15
năm
0
0
0
0
0
0
2
6,5%
2
5,7%
Tng cng
18
23
39
31
35
Ngun: Tòa án nhân dân qun Long Biên, thành ph Hà Ni
Bảng thống kê trên cho thấy, giai đoạn 2011-2015 TAND quận Long Biên đã
áp dụng tất cả c loại hình phạt được quy định trong Điều 199 BLHS cho các bị
cáo phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.
Tuy nhiên, hình phạt cải tạo không giam giữ là hình phạt được tòa án áp dụng ít
50 Thứ hai, quyết định hình phạt đúng là cơ sở pháp lý đảm bảo và nâng cao hiệu quả của hình phạt. Thứ ba, quyết định hình phạt đúng là điều kiện đảm bảo tính khả thi của hệ thống hình phạt. 2.2.2 Thực tiễn áp dụng pháp luật để quyết định hình phạt đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác 2.2.2.1.                  2011 - 2015 Bảng 2.3. Tình hình quyết định hình phạt của Tòa án từ năm 2011 đến 2015 Hình phạt Năm 2011 Năm 2012 Năm 2013 Năm 2014 Năm 2015 Bị cáo Tỷ lệ % Bị cáo Tỷ lệ % Bị cáo Tỷ lệ % Bị cáo Tỷ lệ % Bị cáo Tỷ lệ % Cải tạo không giam giữ 0 0 0 0 0 0 0 0 2 5,7% Tù cho hƣởng án treo 7 39% 3 13% 2 5% 8 26% 8 22,8% Từ 3 năm trở xuống 7 39% 8 35% 30 77% 13 41,5% 19 54,4% Từ 3 năm đến 7 năm 4 22% 12 52% 7 18% 8 26% 4 11,4% Từ 7 năm đến 15 năm 0 0 0 0 0 0 2 6,5% 2 5,7% Tổng cộng 18 23 39 31 35 Nguồn: Tòa án nhân dân quận Long Biên, thành phố Hà Nội Bảng thống kê trên cho thấy, giai đoạn 2011-2015 TAND quận Long Biên đã áp dụng tất cả các loại hình phạt được quy định trong Điều 199 BLHS cho các bị cáo phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Tuy nhiên, hình phạt cải tạo không giam giữ là hình phạt được tòa án áp dụng ít
51
nhất (chỉ có 2/132 bị cáo chiếm 1,5% tổng số bị cáo bị xét xử giai đoạn 2011-2015).
Có thể thấy suốt từ năm 2011 đến 2014, Tòa án không áp dụng hình phạt này. Cả
hai vụ đều được Tòa án áp dụng trong năm 2015. Chiếm số lượng nhiều nhất
hình phạt tù từ 3 năm trở xuống với 77 bị cáo chiếm 52,7% tổng số bị cáo bị xét xử
giai đoạn 2011-2015. Tiếp theo mức xử phạt từ 3 đến 7 năm tù với 35 bị cáo
chiếm 24 % tổng số bị cáo bị xét xử giai đoạn 2011-2015. Hình phạt tù từ 7 đến 15
năm chỉ có 4 bị cáo và cũng chỉ có 28 bị cáo bị phạt tù cho hưởng án treo trong tổng
số 132 bị cáo bị xét xử giai đoạn 2011-2015. Điều này về cơ bản là phù hợp với tính
chất mức độ của hành vi phạm tội, phù hợp với tình hình tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác xảy ra trên địa bàn quận. Đa số các
vụ án khi đưa ra mức xử phạt cho các bị cáo đều được các bị cáo chấp nhận; người
bị hại hài lòng và đông đảo dư luận người dân đồng tình ủng hộ.
Bên cạnh những kết quả đạt được kể trên, quá trình QĐHP đối với tội cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, TAND quận Long
Biên cũng gặp phải nhiều khó khăn, vướng mắc. Một số trường hợp bản án đưa ra
vẫn chưa thuyết phục vì chưa có được những cơ sở vững chắc cũng như chưa đánh
giá hết những tình tiết ảnh hưởng đến tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi
phạm tội. Những hạn chế, vướng mắc này sẽ được tác giả đề cập đến phần sau của
luận văn.Sau đây tác giả sẽ phân tích làm rõ thực tiễn QĐHP của TAND quận Long
Biên đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.

 khác theo 
Đối với người phm ti c ý gây thương tích hoặc gây tn hi cho sc khe
của người khác theo quy định tại Điều 104 BLHS 1999 thì hth áp dng nhng
hình pht sau: ci to không giam gi, phạt tù cho hưởng án treo, tù thi hn,
phạt tù chung thân. Đểth ra mt trong các quyết định v hình phạt trên đối vi
ti c ý gây thương tích hoặc y tn hi cho sc khe của người khác thì ngoài
việc căn cứ vào các quy định tại chương VII của BLHS v quyết định hình pht thì
Tòa án còn phải căn cứ vào các điều khoản, văn bản khác phù hp vi tng hình
51 nhất (chỉ có 2/132 bị cáo chiếm 1,5% tổng số bị cáo bị xét xử giai đoạn 2011-2015). Có thể thấy suốt từ năm 2011 đến 2014, Tòa án không áp dụng hình phạt này. Cả hai vụ đều được Tòa án áp dụng trong năm 2015. Chiếm số lượng nhiều nhất là hình phạt tù từ 3 năm trở xuống với 77 bị cáo chiếm 52,7% tổng số bị cáo bị xét xử giai đoạn 2011-2015. Tiếp theo là mức xử phạt từ 3 đến 7 năm tù với 35 bị cáo chiếm 24 % tổng số bị cáo bị xét xử giai đoạn 2011-2015. Hình phạt tù từ 7 đến 15 năm chỉ có 4 bị cáo và cũng chỉ có 28 bị cáo bị phạt tù cho hưởng án treo trong tổng số 132 bị cáo bị xét xử giai đoạn 2011-2015. Điều này về cơ bản là phù hợp với tính chất mức độ của hành vi phạm tội, phù hợp với tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác xảy ra trên địa bàn quận. Đa số các vụ án khi đưa ra mức xử phạt cho các bị cáo đều được các bị cáo chấp nhận; người bị hại hài lòng và đông đảo dư luận người dân đồng tình ủng hộ. Bên cạnh những kết quả đạt được kể trên, quá trình QĐHP đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, TAND quận Long Biên cũng gặp phải nhiều khó khăn, vướng mắc. Một số trường hợp bản án đưa ra vẫn chưa thuyết phục vì chưa có được những cơ sở vững chắc cũng như chưa đánh giá hết những tình tiết có ảnh hưởng đến tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội. Những hạn chế, vướng mắc này sẽ được tác giả đề cập đến phần sau của luận văn.Sau đây tác giả sẽ phân tích làm rõ thực tiễn QĐHP của TAND quận Long Biên đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.   khác theo  Đối với người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo quy định tại Điều 104 BLHS 1999 thì họ có thể áp dụng những hình phạt sau: cải tạo không giam giữ, phạt tù cho hưởng án treo, tù có thời hạn, phạt tù chung thân. Để có thể ra một trong các quyết định về hình phạt trên đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác thì ngoài việc căn cứ vào các quy định tại chương VII của BLHS về quyết định hình phạt thì Tòa án còn phải căn cứ vào các điều khoản, văn bản khác phù hợp với từng hình
52
phạt khác nhau như: Khi áp dng hình pht ci to không giam gi đối với người
phm ti c ý gây thương tích hoặc gây tn hi cho sc khe của người khác, Tòa
án cũng phải căn cứ o Điều 32 BLHS 1999 v ci to không giam gi, đó là: hình
pht ci to không giam gi được áp dng t sáu tháng đến ba năm đối với người
phm ti ít nghiêm trng hoc ti nghiêm trọng do BLHS quy định mà đang có nơi
làm vic ổn định hoặc có nơi thường trú rõ ràng, nếu xét thy không cn thiết phi
cách ly người phm ti khi hi. Ch khi người phm ti c ý gây thương tích
hoc gây tn hi cho sc khe của người kkhác những điều kin tha mãn các
quy định tại Điều 31 BLHS 1999 thì h mới được áp dng hình pht ci to không
giam giữ. Đối vi ti c ý gây thương tích hoặc gây tn hi cho sc khe của người
khác, hình pht ci to không giam gi ch đưc áp dụng đối với người phm ti b
truy cu TNHS theo khoản 1 Điều 104 BLHS 1999.
. Hoc khi áp dng hình phạt cho hưởng án treo, ngoài vic áp dng các
quy định tại chương VII, Tòa án còn phải áp dụng các quy định tại Điều 60 ca
BLHS cùng với các văn bản hướng dn áp dng án treo, chng hạn như văn bản
mi nhất hướng dn v vic áp dng hình pht này Ngh quyết s 01/2013/NQ
HĐTP ngày 06 tháng 11 năm 2013 của HĐTP TANDTC về hướng dn áp dng
Điu 60 ca BLHS 1999 v án treo. Trong 5 năm, tòa án quận Long Biên đã ra
quyết định cho 28 b cáo được hưởng án treo trong tng s 146 b cáo phm ti c ý
gây thương tích hoặc y tn hi cho sc khỏe người khác, chiếm 19%. Ngoài ra,
khi quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm ti còn phải căn c
vào các quy định tại Điều 43 BLHS
th nói, các quy định trong BLHS trong các văn bản hướng dn thi
hành BLHS là những căn cứ quan trọng đầu tiên để Tòa án áp dụng trong QĐHP.
Nghiên cu 102 v án đã được TAND qun Long Biên xét x v ti cý gây
thương tích hoặc gây tn hi cho sc khe của người khác giai đoạn 2011-2015 cho
thy, phn ln các v án, Tòa án đã vận dng hết sức chính xác các quy định ca
pháp lut trong việc QĐHP, vì vy hình phạt đã tuyên cho 146 bị cáo phm ti phn
ln là phù hợp các quy định ca pháp luật, tương xứng vi tính cht, mức độ nguy
52 phạt khác nhau như: Khi áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ đối với người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, Tòa án cũng phải căn cứ vào Điều 32 BLHS 1999 về cải tạo không giam giữ, đó là: hình phạt cải tạo không giam giữ được áp dụng từ sáu tháng đến ba năm đối với người phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng do BLHS quy định mà đang có nơi làm việc ổn định hoặc có nơi thường trú rõ ràng, nếu xét thấy không cần thiết phải cách ly người phạm tội khỏi xã hội. Chỉ khi người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người kkhác có những điều kiện thỏa mãn các quy định tại Điều 31 BLHS 1999 thì họ mới được áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ. Đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, hình phạt cải tạo không giam giữ chỉ được áp dụng đối với người phạm tội bị truy cứu TNHS theo khoản 1 Điều 104 BLHS 1999. . Hoặc khi áp dụng hình phạt tù cho hưởng án treo, ngoài việc áp dụng các quy định tại chương VII, Tòa án còn phải áp dụng các quy định tại Điều 60 của BLHS cùng với các văn bản hướng dẫn áp dụng án treo, chẳng hạn như văn bản mới nhất hướng dẫn về việc áp dụng hình phạt này là Nghị quyết số 01/2013/NQ HĐTP ngày 06 tháng 11 năm 2013 của HĐTP TANDTC về hướng dẫn áp dụng Điều 60 của BLHS 1999 về án treo. Trong 5 năm, tòa án quận Long Biên đã ra quyết định cho 28 bị cáo được hưởng án treo trong tổng số 146 bị cáo phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác, chiếm 19%. Ngoài ra, khi quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội còn phải căn cứ vào các quy định tại Điều 43 BLHS… Có thể nói, các quy định trong BLHS và trong các văn bản hướng dẫn thi hành BLHS là những căn cứ quan trọng đầu tiên để Tòa án áp dụng trong QĐHP. Nghiên cứu 102 vụ án đã được TAND quận Long Biên xét xử về tội cốý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác giai đoạn 2011-2015 cho thấy, phần lớn các vụ án, Tòa án đã vận dụng hết sức chính xác các quy định của pháp luật trong việc QĐHP, vì vậy hình phạt đã tuyên cho 146 bị cáo phạm tội phần lớn là phù hợp các quy định của pháp luật, tương xứng với tính chất, mức độ nguy
53
him cho hi ca hành vi phm tội, đáp ứng yêu cu ca hot động đấu tranh
chng và phòng nga ti phạm. Tuy nhiên cũng có một vài v vic áp dng các quy
định ca pháp lut hình s còn có những vướng mc mà tác gi s trình bày phn
sau ca luận văn
2.2.2.3 Quynh hình phi vi ti c c gây tn
hi cho sc khe ci khác theo tính cht, m nguy him cho xã hi ca
hành vi phm ti
Các quy định ca BLHS thuộc căn c th nhất để quyết định hình pht thc
cht cũng đã bao hàm mt phn ni dung của căn cứ th hai này. Tuy nhiên, BLHS
vẫn quy định tiếp căn cứ th hai cho việc QĐHP là cân nhc tính cht và m
nguy him ca hành vi phm t để nhm bảo đảm xem xét mt cách k ng tt
c nhng tình tiết có liên quan đến tính cht, mức độ nguy him ca hành vi phm
tội để quyết định được mt mc x phạt tương xứng vi tính cht và mức độ nguy
him ca hành vi phm ti.
Nói cách khác thì tính cht mức độ nguy him cho xã hi ca hành vi vi
phạm đã được nhà làm luật xác định để làm căn cứ phân loi ti phm; th hóa
hình pht; tính cht mức độ nguy him cho hi ca hành vi phm ti còn
căn cứ xác định mc hình pht cho tng ti phm. Bi vy, cùng mt loi ti phm,
cùng mt khung hình phạt nhưng do nhng yếu t khác nhau nên tính cht, mức độ
nguy him ca hành vi phm tội cũng khác nhau và tất nhiên, mc hình phạt cũng
khác nhau.
Đối vi ti c ý y thương tích hoặc gây tn hi cho sc khe của người
khác ti các khoản 1, 2 và 3 đều các tình tiết định khung hình pht quy định ti
khoản 1 Điều 104 BLHS 1999. Nhà làm luật đã quy đnh 10 tình tiết tương ứng vi
cu thành ti phạm bản t điểm a đến k tình tiết định khung hình pht, nên
tính cht, mức độ nguy him ca hành vi trưc hết ph thuc vào việc người phm
ti có ít hoc nhiu tình tiết định khung hình phạt quy định tại các điểm t a đến k
khoản 1 Điều 104 BLHS. Tính cht, mức độ nguy him cho hi ca hành vi
phm tội cũng phục thuc vào hu qu hành vi đó gây ra th hin bng t l
53 hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, đáp ứng yêu cầu của hoạt động đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm. Tuy nhiên cũng có một vài vụ việc áp dụng các quy định của pháp luật hình sự còn có những vướng mắc mà tác giả sẽ trình bày ở phần sau của luận văn 2.2.2.3 Quynh hình phi vi ti c c gây tn hi cho sc khe ci khác theo tính cht, m nguy him cho xã hi ca hành vi phm ti Các quy định của BLHS thuộc căn cứ thứ nhất để quyết định hình phạt thực chất cũng đã bao hàm một phần nội dung của căn cứ thứ hai này. Tuy nhiên, BLHS vẫn quy định tiếp căn cứ thứ hai cho việc QĐHP là “cân nhc tính cht và m nguy him ca hành vi phm t để nhằm bảo đảm xem xét một cách kỹ lưỡng tất cả những tình tiết có liên quan đến tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội để quyết định được một mức xử phạt tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội. Nói cách khác thì tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi vi phạm đã được nhà làm luật xác định để làm căn cứ phân loại tội phạm; cá thể hóa hình phạt; tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội còn là căn cứ xác định mức hình phạt cho từng tội phạm. Bởi vậy, cùng một loại tội phạm, cùng một khung hình phạt nhưng do những yếu tố khác nhau nên tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội cũng khác nhau và tất nhiên, mức hình phạt cũng khác nhau. Đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác tại các khoản 1, 2 và 3 đều có các tình tiết định khung hình phạt quy định tại khoản 1 Điều 104 BLHS 1999. Nhà làm luật đã quy định 10 tình tiết tương ứng với cấu thành tội phạm cơ bản từ điểm a đến k là tình tiết định khung hình phạt, nên tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi trước hết phụ thuộc vào việc người phạm tội có ít hoặc nhiều tình tiết định khung hình phạt quy định tại các điểm từ a đến k khoản 1 Điều 104 BLHS. Tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội cũng phục thuộc vào hậu quả mà hành vi đó gây ra thể hiện bằng tỷ lệ
54
thương tật của người b hi ti các khon 1, 2, 3 s người chết ti khoản 4 Điều
104 BLHS 1999.
Cân nhc tính cht, mức độ nguy him cho xã hi ca hành vi phm ti cý
gây thương tích hoặc gây tn hi cho sc khe của người khác đòi hỏi Hội đồng xét
x phải đánh giá một cách toàn din các yếu tố, như tính chất ca hành vi (th hin
qua công cụ, phương tin, th đoạn, hình thc thc hin...); tính cht và mức độ ca
hu qu thit hi gây ra cho nn nhân; tính cht của động phạm ti, quyết tâm
thc hin ti phm, hoàn cnh phm ti...
Nghiên cu 102 v án phm ti cốý y thương tích hoặc y tn hi cho
sc khe của người khác mà TAND quận Long Biên đã xét xử giai đoạn 2011-2015
cho thấy, đa số v án đều được Hội đồng xét x cân nhc cn trng tính cht, mc
độ nguy him ca hành vi phm tội trên cơ sở đánh giá một cách toàn din các tình
tiết, din biến ca v án, cũng như hậu quhành vi phm tội đã gây ra cho nạn
nhân. Tuy nhiên, cũng có một vài v án, vic cân nhc tính cht, mức độ nguy him
cho xã hi ca hành vi phm tội cũng những hn chế do các nguyên nhân khác
nhau s được tác gi phân tích k phn sau ca luận văn.
- V án 1: Ngày 16/7/2013 Thắng đi ăn sáng tại quán ca ch Huyn trên
đường Nguyễn Văn Linh, Thắng sau khi ăn sáng xong ngồi chơi trưc ca
quán nói chuyn phiếm vi ch Huyền. Thành cũng khách đang ăn quán, khi
đang tính tiền thì nói “ĐM, ăn bát phở nóng đéo chịu được” Thắng ngi gần đó
ng Thành chửi mình nên đã cầm cái điếu cầy đập vào đầu Thành. Thành b chy
máu, ti bnh vin kết lun t l thương tật 15%. Ngày 09/12/2013 TAND qun
Long Biên đã xét xử Giang 12 Thánggiam. Ti v án trên, Tòa án đã cân nhắc,
vn dng tình tiết tăng nặng  để quyết định hình phạt đối
vi hành vi phm ti ca Thng.
- V án 2: Ngày 27/8/2013, Nghĩa và Hùng đi uống càfê ti quán ch Hương
tại Khu đô thị Việt Hưng. Tại đây 2 người nói chuyn to m ảnh hưởng đến các
bàn khác trong quán. Anh Hiếu ngi bàn bên cnh quay ra nhìn, lp tức Nghĩa đứng
dậy đi về phía Hiếu “Mày nhìn h thằng kia” liền cm chiếc điếu cy gần đó
54 thương tật của người bị hại tại các khoản 1, 2, 3 và số người chết tại khoản 4 Điều 104 BLHS 1999. Cân nhắc tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội cốý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác đòi hỏi Hội đồng xét xử phải đánh giá một cách toàn diện các yếu tố, như tính chất của hành vi (thể hiện qua công cụ, phương tiện, thủ đoạn, hình thức thực hiện...); tính chất và mức độ của hậu quả thiệt hại gây ra cho nạn nhân; tính chất của động cơ phạm tội, quyết tâm thực hiện tội phạm, hoàn cảnh phạm tội... Nghiên cứu 102 vụ án phạm tội cốý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà TAND quận Long Biên đã xét xử giai đoạn 2011-2015 cho thấy, đa số vụ án đều được Hội đồng xét xử cân nhắc cẩn trọng tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội trên cơ sở đánh giá một cách toàn diện các tình tiết, diễn biến của vụ án, cũng như hậu quả mà hành vi phạm tội đã gây ra cho nạn nhân. Tuy nhiên, cũng có một vài vụ án, việc cân nhắc tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội cũng có những hạn chế do các nguyên nhân khác nhau sẽ được tác giả phân tích kỹ ở phần sau của luận văn. - Vụ án 1: Ngày 16/7/2013 Thắng đi ăn sáng tại quán của chị Huyền trên đường Nguyễn Văn Linh, Thắng sau khi ăn sáng xong có ngồi chơi ở trước cửa quán nói chuyện phiếm với chị Huyền. Thành cũng là khách đang ăn ở quán, khi đang tính tiền thì có nói “ĐM, ăn bát phở nóng đéo chịu được” Thắng ngồi gần đó tưởng Thành chửi mình nên đã cầm cái điếu cầy đập vào đầu Thành. Thành bị chảy máu, tại bệnh viện kết luận tỷ lệ thương tật 15%. Ngày 09/12/2013 TAND quận Long Biên đã xét xử Giang 12 Tháng tù giam. Tại vụ án trên, Tòa án đã cân nhắc, vận dụng tình tiết tăng nặng là  để quyết định hình phạt đối với hành vi phạm tội của Thắng. - Vụ án 2: Ngày 27/8/2013, Nghĩa và Hùng đi uống càfê tại quán chị Hương tại Khu đô thị Việt Hưng. Tại đây 2 người nói chuyện to làm ảnh hưởng đến các bàn khác trong quán. Anh Hiếu ngồi bàn bên cạnh quay ra nhìn, lập tức Nghĩa đứng dậy đi về phía Hiếu “Mày nhìn gì hả thằng kia” liền cầm chiếc điếu cầy ở gần đó
55
đập vào đầu anh Hiếu, và sau đó còn ấn đầu Hiếu xung bàn, anh Hiếu được đưa đi
cp cu, t l thương tật 15%. Nghĩa bị TAND qun Long Biên tuyên phạt Nghĩa
36 tháng theo khoản 2 Điều 104 BLHS vi tình tiết tăng nng là t côn
 vin vn t điểm “I” khoản 1 Điều 104 BLHS, theo đánh giá của hội đồng xét
x, vic chanh Hiếu quay ra “nhìn” Nghĩa có thể đánh người khác như vậy
thì hành vi của Nghĩa quá nguy hiểm [46].
So sánh hai v án cho thy, mặc dù cùng gây thương tích với t l 15%, hung
khí đều là cái , và Tòa án đều áp dng tình tiết “có tính chất côn đồ” khi
quyết định hình pht. Tuy nhiên, xét v tính cht và mức độ 
thì hành vi của Nghĩa nguy hiểm hơn hành vi của anh Thng rt nhiu. TAND
Q.Long Biên tuyên phạt như vậy là hoàn toàn hp lý.
2.2.2.4. Quynh hình phi vi ti c  c gây tn
hi cho sc khe cm nhân thân ci phm ti
Nhân thân người phm ti là toàn b các yếu t v t nhiên và xã hi có liên
quan đến người phm ti bao gm: Tuổi đời, tình trng sc khe, ngh nghip, trình
độ văn hóa, trình độ chuyên môn, quá trình công tác, thành tích, k lut, lch s bn
thân, hoàn cnh gia đình…Nhân thân ngưi phm tội nói chung và nhân thân người
phm ti c ý gây thương tích hoặc gây tn hi cho sc khe của người khác nói
riêng là căn cứ rt quan trọng để HĐXX quyết định hình pht. Nghiên cu 102 v
án phm ti cốý gây thương tích hoặc gây tn hi cho sc khe của người khác đã
được xét x ti qun Long Biên cho thy, đặc trưng bản v nhân thân nhng
người phm tội này đa sốngh nghiệp là nông dân, trình độ hc vn thp. Nhng
người có nhân thân như Đng viên, cán b công chc, chiếm t l rt thp. Trong 5
năm từ 2011 đến 2015 ch 01 trưng hp là Đảng viên, cán b công chc phm
loi ti y. Người phm tội đa phần người t nơi khác đến, người dân tc
thiu s hoc những người lao động chân tay, làm nông, thiếu hiu biết v pháp lut
chiếm t l cao trong loi ti phm này.
d: 21 gi 30 phút ngày 29/10/2011 tại công trường xây dng Vincom,
ông Liên th xây dựng đang ti lán hoa lan 6 của công trường. Tại đây Hùng,
55 đập vào đầu anh Hiếu, và sau đó còn ấn đầu Hiếu xuống bàn, anh Hiếu được đưa đi cấp cứu, tỷ lệ thương tật 15%. Nghĩa bị TAND quận Long Biên tuyên phạt Nghĩa 36 tháng theo khoản 2 Điều 104 BLHS với tình tiết tăng nặng là t côn  viện vẫn từ điểm “I” khoản 1 Điều 104 BLHS, theo đánh giá của hội đồng xét xử, việc chỉ vì anh Hiếu quay ra “nhìn” mà Nghĩa có thể đánh người khác như vậy thì hành vi của Nghĩa quá nguy hiểm [46]. So sánh hai vụ án cho thấy, mặc dù cùng gây thương tích với tỷ lệ 15%, hung khí đều là cái , và Tòa án đều áp dụng tình tiết “có tính chất côn đồ” khi quyết định hình phạt. Tuy nhiên, xét về tính chất và mức độ  thì hành vi của Nghĩa nguy hiểm hơn hành vi của anh Thắng rất nhiều. TAND Q.Long Biên tuyên phạt như vậy là hoàn toàn hợp lý. 2.2.2.4. Quynh hình phi vi ti c  c gây tn hi cho sc khe cm nhân thân ci phm ti Nhân thân người phạm tội là toàn bộ các yếu tố về tự nhiên và xã hội có liên quan đến người phạm tội bao gồm: Tuổi đời, tình trạng sức khỏe, nghề nghiệp, trình độ văn hóa, trình độ chuyên môn, quá trình công tác, thành tích, kỷ luật, lịch sử bản thân, hoàn cảnh gia đình…Nhân thân người phạm tội nói chung và nhân thân người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nói riêng là căn cứ rất quan trọng để HĐXX quyết định hình phạt. Nghiên cứu 102 vụ án phạm tội cốý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác đã được xét xử tại quận Long Biên cho thấy, đặc trưng cơ bản về nhân thân những người phạm tội này đa số có nghề nghiệp là nông dân, trình độ học vấn thấp. Những người có nhân thân như Đảng viên, cán bộ công chức, chiếm tỷ lệ rất thấp. Trong 5 năm từ 2011 đến 2015 chỉ có 01 trường hợp là Đảng viên, cán bộ công chức phạm loại tội này. Người phạm tội đa phần là người từ nơi khác đến, là người dân tộc thiểu số hoặc những người lao động chân tay, làm nông, thiếu hiểu biết về pháp luật chiếm tỷ lệ cao trong loại tội phạm này. Ví dụ: 21 giờ 30 phút ngày 29/10/2011 tại công trường xây dựng Vincom, ông Liên là thợ xây dựng đang ở tại lán hoa lan 6 của công trường. Tại đây Hùng,