Luận văn Thạc sĩ Luật học: Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thuộc về nhân thân người phạm tội
3,515
112
112
13
các tình tiết này có ý nghĩa làm giảm mức độ nguy hiểm cho xã hội cũng như
khả năng cải tạo của người phạm tội nên có giá trị làm giảm nhẹ TNHS mà
người phạm tội đáng lẽ ra phải chịu nếu không thuộc các trường hợp đó.
Xét về vế thứ hai của các tình tiết giảm nhẹ TNHS thuộc về nhân thân
người phạm tội, “Nhân thân người phạm tội” là khái niệm được đề cập khá
nhiều trong khoa học luật hình sự. Ngoài tư cách là một trong những căn cứ
để quyết định hình phạt, nhân thân người phạm tội còn là một trong những
căn cứ khi phân loại tình tiết giảm nhẹ TNHS của người phạm tội.
Nhân thân là một phạm trù xã hội học phức tạp được nghiên cứu trong
nhiều lĩnh vực. Theo Các Mác, thực chất của nhân thân "không phải ở bộ râu,
ở dòng máu, ở các thể chất trừu tượng của nó, mà là ở tính chất xã hội của
nó". Cácmac cũng cho rằng: "bản chất của con người không phải cái gì trừu
tượng, sẵn có trong từng cá nhân riêng biệt. Bản chất của con người thực tế
là tổng hoà các mối quan hệ xã hội" [5, tr.242]. Như vậy, hiểu theo quan
điểm chung của xã hội học Mác Lênin về nhân thân con người thì "nhân thân"
đó là bản chất xã hội của con người được thể hiện thông qua vị trí của con
người trong hệ thống quan hệ xã hội. Nhân thân là một phạm trù mang tính xã
hội - lịch sử. Mỗi cá nhân cụ thể sẽ có một nhân thân tương ứng hoàn toàn
khác biệt. Mỗi con người - một nhân thân, mặc dù các nhân thân có ý nghĩa và
giá trị khác nhau, một số thì tích cực thúc đẩy sự tiến bộ của xã hội, số khác
lại
cản trở nó.
Khi nói đến nhân thân con người là chúng ta muốn nói đến sự tổng hợp
các đặc điểm, dấu hiệu thể hiện bản chất của con người tham gia vào các mối
quan hệ xã hội. Đó là các đặc điểm, dấu hiệu sinh học, nhân khẩu học, các đặc
điểm xã hội học, đạo đức - tâm lý. Các tiếp cận Mác xít với vấn đề nhân thân
đòi hỏi phải có sự thống nhất biện chứng về mặt xã hội với các yếu tố khác
trong nội dung của khái niệm này. Cần phải quan tâm đến các giá trị xã hội và
14
các phương diện của hiện thực xã hội, những người xung quanh, gia đình bố,
mẹ, vợ chồng, con cái, anh em, tài sản, lao động, các nghĩa vụ công dân vv...
Nội
dung của các mối quan hệ sâu sắc và ổn định, vì xuất phát từ đó mà hình thành
nên quan điểm, lý tưởng, lập trường, quan niệm đạo đức của con người. Cách xử
sự của con người trong xã hội - mà nhân thân thể hiện ra bên ngoài cũng gắn liền
với lĩnh vực trí tuệ, cảm xúc và ý chí của nhân thân. [Xem: 51, 40]
Như vậy Nhân thân của con người đó là tổng hợp những đặc điểm, dấu
hiệu, mối quan hệ xã hội, của mỗi con người cụ thể, bao gồm : các đặc điểm, dấu
hiệu về xã hội, nhân khẩu học như giới tính, tuổi, trình độ văn hoá, địa vị xã
hội,
nghề nghiệp, hoàn cảnh gia đình, nơi sinh sống, hoàn cảnh kinh tế; các đặc điểm,
dấu hiệu về tâm lý như quan điểm, nhu cầu, sở thích, thói quen lý trí, ý chí,
xúc
cảm, tình cảm...và các đặc điểm, dấu hiệu, mối quan hệ xã hội khác.
Đó là khái niệm Nhân thân của con người nói chung, vậy Nhân thân
người phạm tội là gì?
Có thể hiểu Nhân thân người phạm tội là “Tổng hợp những đặc điểm
riêng về xã hội hoặc có ý nghĩa về mặt xã hội của người phạm tội” [19, tr183-
184]. Những đặc điểm nhân thân đó có thể là : tuổi, giới tính, nghề nghiệp, có
án tích, trình độ văn hóa, hệ thống thái độ…Nói một cách dễ hiểu hơn, “Nhân
thân người phạm tội là tổng hợp những đặc điểm riêng biệt nói lên tính chất
của một con người” [44, tr.384].
Nhân thân người phạm tội là một khái niệm rộng, có nội hàm lớn, thể
hiện bản chất xã hội của con người, phản ánh một tổng thể các dấu hiệu, các
đặc tính, các mối quan hệ đặc trưng cho con người. Thế giới tinh thần và đạo
đức của con người được xét trong sự phát triển trong sự tác động qua lại với
các điều kiện sinh hoạt xã hội và cá nhân, và ở một chừng mực nào đó nó đã
quyết định việc thực hiện tội phạm. Nhân thân người phạm tội có thể kể đến
một số dạng như: độ tuổi, tiền án tiền sự, nghề nghiệp, địa vị công tác, lối
15
sống…của người phạm tội. Ví dụ đối với một nhóm tội phạm trộm cướp, có
thể nêu ra những đặc trưng nối bật về mặt nhân thân như về quốc tịch, dân
tộc, giới tính, độ tuổi, nơi cư trú, hoàn cảnh gia đình…[Xem: 16, tr.47-50].
Nhân thân người phạm tội là khái niệm bao gồm tất cả các dấu hiệu mà luật
hình sự quy định về chủ thể của tội phạm thông thường (độ tuổi và năng lực
TNHS) và cả dấu hiệu của chủ thể đặc biệt ( giới tình, chức vụ, quân nhân...),
nhưng trong khái niệm nhân thân người phạm tội những dấu hiệu này được
thể hiện rộng hơn, chi tiết hơn. Ví dụ dấu hiệu độ tuổi ở đây không chỉ để
xem xét vấn đề về năng lực hành vi của con ng mà còn được xem là một đặc
điểm liên quan đến nhiều chức năng xã hội và biểu hiện xã hội. Khái niệm
nhân thân người phạm tội còn có các đặc điểm không thuộc dấu hiệu pháp lý
của khái niệm chủ thể của tội phạm. Ví dụ như dấu hiệu thể hiện vị trí vai trò
xã hội của người phạm tội, thái độ của họ đối với các giá trị xã hội đang tồn
tại và đối với chính bản thân mình.
Khi nghiên cứu về Nhân thân người phạm tội có một vấn đề rất quan
trọng đó là mối quan hệ giữa đặc điểm xã hội và đặc điểm sinh học. Các đặc
điểm sinh học, các quan hệ tâm lý có ảnh hưởng đến quá trình hình thành của
con người, đến sức khoẻ, cá tính, năng khiếu...của con người nên nhận thức
và đi sâu nghiên cứu các đặc điểm sinh học rất quan trọng trong việc xác định
những đặc điểm tâm lý tiêu cực, các điều kiện thúc đẩy người đó phạm tội.
Nhân thân người phạm tội bao gồm cả mặt tốt và cả mặt xấu. Trong một số
trường hợp có một số đặc điểm về nhân thân người phạm tội đã được quy định là
yếu tố loại trừ TNHS, miễn hình phạt, định tội, định khung hình phạt hoặc quy
định là tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ TNHS; do đó, khi quyết định hình phạt
cần phân biệt từng trường hợp cụ thể. Cần phải cân nhắc đầy đủ các đặc điểm về
nhân thân người phạm tội chưa quy định là yếu tố định tội, định khung hình phạt
hoặc là tình tiết tăng nặng hoặc là tình tiết giảm nhẹ TNHS.
16
Cấu trúc của nhân thân người phạm tội không phải là một tập hợp các
đặc điểm, dấu hiệu một cách đơn giản mà là một hệ thống các đặc điểm dấu
hiệu đặc trưng, tạo thành một thể thống nhất, không tách rời, giữa chúng có sự
phụ thuộc, có mối quan hệ nhất định, bổ sung, hỗ trợ và tác động qua lại với
nhau. Dưới góc độ tội phạm học và luật hình sự khi nghiên cứu về cấu trúc
nhân thân người phạm tội có một hệ thống các đặc trưng chia thành 3 nhóm
như sau: Nhóm các đặc điểm, dấu hiệu về nhân khẩu học - xã hội; Nhóm các
đặc điểm, dấu hiệu theo pháp lý - hình sự; Nhóm các đặc điểm , dấu hiệu về
đạo đức - tâm lý. Trong số đó, Nhóm quan trọng được lấy làm cơ sở của các
tình tiết giảm nhẹ đó là nhóm Nhân khẩu học – xã hội. Nhóm này bao gồm:
giới tính, độ tuổi, trình độ học vấn, địa vị xã hội, nghề nghiệp, hoàn cảnh gia
đình, thành phần xuất thân trong xã hội (thành thị hay nông dân) và một số
dấu hiệu khác (đời sống vật chất, điều kiện nhà ở...). Các đặc điểm này bản
thân chúng cũng đã đặc trưng cho từng người, từng nhóm người hoặc cho
toàn bộ dân cư. Tuy nhiên, đối với các cá nhân đã phạm tội, các đặc điểm này
cho thấy "bước ngoặt" quan trọng, đặc trưng cho chính nhân thân từng cá
nhân đó. Ví dụ như:
Trình độ học vấn : trình độ văn hoá có ảnh hưởng sâu sắc đến sự nhận
biết thế giới xung quanh, đến sự phát triển lý trí và hình thành nhân cách cũng
như cách ứng xử của con người trong các mối quan hệ xã hội. Trình độ học
vấn của người phạm tội thường thấp hơn học vấn chung của toàn dân. Với tư
cách là một bộ phận quan trọng trong trình độ văn hoá chung của nhân thân,
học vấn góp phần hình thành lĩnh vực lợi ích, nhu cầu, thói quen, quy tắc ứng
xử sao cho phù hợp với các yêu cầu của xã hội, cho phép tạo ra các phương
tiện vàbhinfh thức phản ứng thích hợp đối với các tình huống xung đột và
hoàn cảnh bất lợi, cho nên nếu trình độ học vấn càng cao bao nhiêu thì càng
có cơ sở để tạo ra các thói quen và các bản năng ứng xử xã hội đúng đắn bấy
17
nhiêu và ngược lại, nếu trình độ học vấn thấp sẽ cản trở việc hình thành các
lợi ích, nhu cầu, thói quen, quy tắc ứng xử phù hợp với lợi ích xã hội và góp
phần làm xuất hiện các tình huống xung đột, cản trở việc lựa chọn phương án
xử sự đúng.
Hoàn cảnh gia đình : hoàn cảnh gia đình và sự thay đổi của nó có tác
động nhất định đến nhân cách của con người, ảnh hưởng đến khyunh hướng
và sự kiên định trong thực hiện tội phạm. Những người phạm tội thường xuất
phát từ những gia đình có tình trạng không bình thường (không hoà thuận,
không có trách nhiệm với nhau, có các thành viên trong gia đình có quan
điểm, quan niệm, xử sự trái đạo đức, trái pháp luật, có trình độ văn hoá thấp
trong xử sự và trong quan hệ với người khác), từ những gia đình có hoàn cảnh
đặc biệt (bố hoặc mẹ chết, ly hôn) hoặc có hoàn cảnh kinh tế khó
khăn…[Xem: 51, tr. 56]
Nói tóm lại, Nhân thân người phạm tội là tổng hợp các đặc điểm, dấu
hiệu, các đặc tính thể hiện bản chất xã hội của con người khi vi phạm pháp
luật hình sự, mà trong sự kết hợp với các điều kiện bên ngoài đã ảnh hưởng
đến việc thực hiện hành vi phạm tội của người đó.
Việc cân nhắc nhân thân người phạm tội giúp Tòa án hiểu được tính chất
con người của người phạm tội và đánh giá khả năng cải tạo của họ. Từ đó có thể
thực hiện nguyên tắc cá thể hóa hình phạt và bảo đảm sự công bằng khi quyết
định hình phạt. Pháp luật hình sự Việt Nam quy định đặc điểm về nhân thân có thể
là tình tiết giảm nhẹ hoặc tăng nặng TNHS khi quyết định hình phạt. Đối với các
đặc điểm về nhân thân được quy định là tình tiết giảm nhẹ TNHS, đó là những
tình tiết phản ánh mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, phản ánh
khả năng giáo dục, cải tạo cũng như hoàn cảnh đặc biệt của người phạm tội.
Như vậy, sau khi phân tích hai khái niệm về “Tình tiết giảm nhẹ TNHS”
và “Nhân thân người phạm tội”, có thể đi đến khái niệm về “các tình tiết giảm
18
nhẹ TNHS thuộc về nhân thân người phạm tội’’. Về khái niệm này hiện nay
do chưa có công trình nghiên cứu trực tiếp, chuyên sâu về vấn đề này nên
chưa có nhiều quan điểm cụ thể.
Theo GS. TSKH Lê Văn Cảm thì “Tình tiết giảm nhẹ TNHS thuộc về
nhân thân người phạm tội là tình tiết có liên quan đến các đặc điểm cá nhân
của người phạm tội được quy định trong Phần chung BLHS với tính chất là
tình tiết giảm nhẹ chung hoặc là tình tiết giảm nhẹ do Tòa án tự xem xét, cân
nhắc và được ghi rõ trong bản án (nếu trong vụ án hình sự không có tình tiết
này), đồng thời là một trong những căn cứ để cơ quan tư pháp hình sự có
thẩm quyền và Tòa án tùy thuộc vào từng giai đoạn tố tụng hình sự tương
ứng cá thể hóa TNHS và hình phạt của người phạm tội theo hướng giảm nhẹ
hơn trong phạm vi một khung hình phạt”. [15, tr.7]. Đây là quan điểm khá chi
tiết và đầy đủ và mang tính khái quát cao bởi quan điểm này đã tập hợp được
cả hai yếu tố về “giảm nhẹ TNHS” và “nhân thân người phạm tội”, đáp ứng
được yêu cầu về cả mặt lý luận lẫn thực tiễn.
Ở một quan điểm khác, tuy không đưa ra khái niệm về các tình tiết giảm
nhẹ TNHS thuộc về nhân thân người phạm tội mà chỉ liệt kê những đặc điểm
nhân thân được xem xét khi quyết định hình phạt dựa trên thực tiễn xét xử
như: Những đặc điểm nhân thân liên quan trực tiếp với việc thực hiện tội
phạm, nói lên mức độ nguy hiểm khác nhau của hành vi phạm tội cũng như
của người phạm tội, làm sáng tỏ mặc khách quan, chủ quan của tội phạm,
nguyên nhân, điều kiện phạm tội, khả năng tiếp thu giáo dục, cải tạo của họ
(Phạm tội lần đầu, phạm tội do trình độ lạc hậu, do trình độ nghiệp vụ non
kém, tự thú, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, lập công chuộc tội, cải tạo
tốt, người chưa thành niên); những đặc điểm khác dù không mang tính pháp
lý, không liên quan đến việc thực hiện tội phạm nhưng lại thuộc đối tượng của
các chính sách của Đảng và Nhà nước (Người phạm tội thuộc dân tộc ít
19
người, có công với đất nước…); Hoặc những đặc điểm phản ánh hoàn cảnh
đặc biệt của họ (Người phạm tội mắc bệnh hiểm nghèo, đang nuôi con nhỏ…)
[Xem: 44, tr. 386].
Tóm lại, từ các nghiên cứu trên có thể rút ra khái niệm của các tình tiết
giảm nhẹ TNHS thuộc về nhân thân người phạm tội như sau:
Các tình tiết giảm nhẹ TNHS thuộc về nhân thân người phạm tội là những
trường hợp mà người phạm tội có các đặc tính thể hiện bản chất xã hội của con
người mang ý nghĩa làm giảm mức độ nguy hiểm cho xã hội cũng như khả năng
cải tạo cao của người phạm tội nên có giá trị làm giảm nhẹ TNHS mà người
phạm tội đáng lẽ ra phải chịu nếu không thuộc các trường hợp đó, được quy
định trong BLHS , trong các văn bản liên quan hay trong thực tiễn xét xử vụ án
hình sự do Tòa án tự cân nhắc và được ghi rõ trong bản án.
1.1.2. Các đặc điểm của các tình tiết giảm nhẹ TNHS thuộc về nhân thân
người phạm tội
Qua việc nghiên cứu về mặt lý luận và thực tiễn, có thể rút ra một số đặc
điểm của các tiết giảm nhẹ TNHS thuộc về nhân thân người phạm tội như sau:
Thứ nhất
, các tình tiết giảm nhẹ TNHS thuộc về nhân thân người phạm
tội phải là những tình tiết thuộc về bản thân của người phạm tội chứ không
phải một ai khác. Nhân thân của mỗi con người phản ánh chính con người đó,
việc giảm nhẹ TNHS là giành cho chính bản thân họ. Vì vậy, để được coi là
tình tiết giảm nhẹ TNHS thuộc về nhân thân người phạm tội thì tình tiết đó
buộc phải là của chính họ, như vậy mới đảm bảo được sự công bằng và ý
nghĩa của việc giảm nhẹ.
Thứ hai
, các tình tiết giảm nhẹ TNHS thuộc về nhân thân người phạm
tội là căn cứ để giảm nhẹ TNHS cho mỗi cá nhân phạm tội. Qua những tình
tiết này có thể thấy mức độ nguy hiểm cho xã hội của người phạm tội ít hơn
của những người không có các tình tiết đó. Ở một số tình tiết như Phạm tội do
20
lạc hậu thì đó chính là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc phạm tội; ở
tình tiết người phạm tội tự thú hay thành khẩn khai báo, ăn năn, hối cải thể
hiện sự thay đổi tích cực trong suy nghĩ của chính họ; ở tình tiết người phạm
tội có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác lại
thể hiện về mặt bản chất con người họ vốn dĩ ít nguy hiểm cho xã hội… Như
vậy, nếu người phạm tội có những tình tiết giảm nhẹ TNHS thuộc về nhân
thân thì họ hoàn toàn xứng đáng để được giảm nhẹ TNHS.
Thứ ba
,
các tình tiết giảm nhẹ TNHS thuộc về nhân thân người phạm tội
rất đa dạng, phong phú. Đó là bởi đây là một quy định mang tính “mở”. Điều
này thể hiện ở việc ngoài 10 tình tiết được quy định tại Khoản 1 Điều 46
BLHS 1999 (sửa đổi, bổ sung 2009) thì Tòa án được phép áp dụng các tình
tiết khác trong từng trường hợp cụ thể theo Khoản 2 Điều 46 BLHS 1999 (sửa
đổi, bổ sung 2009).
Thứ tư,
về mức độ giảm nhẹ của các tình tiết giảm nhẹ TNHS thuộc về
nhân thân người phạm tội đem lại cho người phạm tội tùy thuộc vào sự cân
nhắc, xem xét của Tòa án. BLHS 1999 (sửa đổi, bổ sung 2009) chỉ quy định
chung về việc “Khi có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều
46 của Bộ luật này, Toà án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp
nhất của khung hình phạt mà điều luật đã quy định nhưng phải trong khung
hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật; trong trường hợp điều luật chỉ có một
khung hình phạt hoặc khung hình phạt đó là khung hình phạt nhẹ nhất của
điều luật, thì Toà án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của
khung hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn. Lý do của
việc giảm nhẹ phải được ghi rõ trong bản án.” Như vậy, việc các tình tiết
giảm nhẹ TNHS thuộc về nhân thân người phạm tội có ảnh như thế nào và
mức độ giảm nhẹ ra sao không được pháp luật hình sự quy định cụ thể mà
phụ thuộc vào sự cân nhắc của Tòa án. Hơn nữa, với mỗi tình tiết giảm khác
21
nhau lại có sự ảnh hưởng đến tính chất vụ án khác nhau nên việc xác định
mức độ giảm nhẹ phải tùy thuộc vào từng trường hợp cụ thể.
Thứ năm
, các tình tiết giảm nhẹ TNHS thuộc về nhân thân người phạm
tội được quy định trong BLHS 1999 (Sửa đổi, bổ sung năm 2009) tại Điều 46.
Ngoài ra, nó còn được ghi nhận trong Nghị quyết số 01/2000/NQ-HĐTP ngày
4/8/2000 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp
dụng một số quy định về Phần chung của BLHS năm 1999. Thậm chí, trong
quá trình xét xử, Tòa án có thể tự mình xem xét, cân nhắc coi những tình tiết
khác là tình tiết giảm nhẹ TNHS và ghi rõ lý do trong bản án.
1.2. Ý nghĩa của các tình tiết giảm nhẹ TNHS thuộc về nhân thân người
phạm tội
Việc quy định các tình tiết giảm nhẹ TNHS thuộc về nhân thân người
phạm tội có ý nghĩa to lớn về mặt pháp lý. Bởi khi giải quyết một vụ án hình
sự thì việc giải quyết TNHS là vô cùng quan trọng, và cần phải cân nhắc đến
các tình tiết giảm nhẹ TNHS để có thể giải quyết một cách chính xác, đảm
bảo công bằng. Để đảm bảo sự tương xứng giữa tính chất và mức độ nguy
hiểm cho xã hội của tội phạm với mức độ TNHS, các quy định về tình tiết
giảm nhẹ TNHS được sử dụng như phương tiện để phân hóa TNHS trong luật
và cá thể hóa TNHS khi áp dụng. Vì vậy mà các tình tiết giảm nhẹ TNHS
thuộc về nhân thân người phạm tội có một số ý nghĩa như sau:
Thứ nhất: Các tình tiết giảm nhẹ TNHS thuộc về nhân thân người phạm
tội là một phương tiện phân hóa TNHS trong luật
Mỗi tình tiết giảm nhẹ TNHS đều có giá trị giảm nhẹ nhất định.Tuy
nhiên, không thể đánh đồng giá trị của tất cả các tình tiết này là một. Các nhà
làm luật Việt Nam dựa trên sự đánh giá về giá trị của các tình tiết giảm nhẹ
TNHS này đã phân biệt các mức độ giảm nhẹ TNHS khác nhau dưới sự ảnh
hưởng của một hay một tập hợp các tình tiết giảm nhẹ trong toàn bộ quá trình
22
giải quyết và thực hiện TNHS. Các tình tiết giảm nhẹ TNHS thuộc về nhân
thân người phạm tội là cơ sở pháp lý cần thiết cho việc vận dụng biện pháp
khoan hồng của Nhà nước trong xử lý tội phạm. Thể hiện ở việc không phải
mọi hành vi phạm tội đều bị áp dụng đến biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc
nhất là hình phạt, không phải mọi trường hợp bị kết án đều phải chấp hành hết
thời hạn hình phạt tuyên hay không phải mọi trường hợp đều phải chấp hành
ngay hình phạt tù…Và căn cứ để có thể đưa ra các quyết định mang tính
khoan hồng đó cơ bản được dựa trên các quy định về các tình tiết giảm nhẹ
TNHS nói chung và các tình tiết giảm nhẹ TNHS thuộc về nhân thân người
phạm tội nói riêng. Điều đó thể hiện vai trò phân hóa TNHS của các tình tiết
giảm nhẹ TNHS thuộc về nhân thân người phạm tội khá rõ nét.
Thứ hai: Các tình tiết giảm nhẹ TNHS thuộc về nhân thân người phạm
tội đóng vai trò là phương tiện để cá thể hóa TNHS
Mỗi cá nhân phạm tội lại có những đặc điểm nhân thân riêng biệt,
những đặc điểm này khi có đầy đủ các yếu tố để trở thành tình tiết giảm nhẹ
TNHS thì sẽ mang lại những giá trị giảm nhẹ TNHS cho cá nhân đó. Vì vậy,
đối với mỗi một vụ án, mỗi một người phạm tội thì tình tiết giảm nhẹ lại có
giá trị áp dụng khác nhau. Việc này thể hiện ở chỗ đối với mỗi loại tội phạm
ítt nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng lại
có một khung hình phạt riêng mà khoảng cách giữa mức tối thiểu và mức tối
đa khá rộng. Khi quyết định hình phạt, cần phải cân nhắc đến các căn cứ để
quyết định hình phạt một cách công minh nhất. Với vai trò là một trong
những căn cứ đó, các tình tiết giảm nhẹ TNHS thuộc về nhân thân người
phạm tội được sử dụng như một phương tiện để cá thể hóa TNHS. Và đối với
mỗi tội phạm, trong khung hình phạt quy định thì tùy vào từng trường hợp cụ
thể để áp dụng các tình tiết đó để giảm nhẹ TNHS một cách hợp lý và công
bằng, đảm bảo ý nghĩa của việc giảm nhẹ TNHS và đem lại hiệu quả trong
đấu tranh phòng chống tội phạm.