Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện Đức Hòa, tỉnh Long An

6,737
479
91
45
thể khác.
1.3.5. Về hình phạt
Cũng như các điều luật khác, Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung
năm 2017) quy định các khung hình phạt tương xứng với hành vi và số lượng hàng
cấm, giá trị hàng hóa và số tiền thu lợi bất chính khi người phạm tội thực hiện. Các
khung hình phạt để xử đối với tội phạm y cho thấy tinh thần của nguyên tắc
phân hoá TNHS một cách ràng, đồng thời cho thấy tính nghiêm khắc cũng như
sự khoan hồng của pháp luật trong đường lối xử lý đối với tội phạm nói chung
tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm với tội sản xuất, buôn bán hàng cấm nói riêng với
mức hình phạt nhẹ hơn. thể thấy rằng các nhà làm luật đã sự phân hóa tính
chất, mức độ nguy hiểm của hành vi tàng trữ, vận chuyển hàng cấm so với hành vi
sản xuất, buôn bán hàng cấm khi quy định mức hình phạt của tội tàng trữ, vận
chuyển hàng cấm nhẹ hơn mức hình phạt đối với hành vi sản xuất, buôn bán hàng
cấm.
Khung cơ bản quy định tại khoản 1 Điều 191, đối với trường hợp phạm tội
không có các tình tiết định khung thì bị phạt tiền từ năm mươi triệu đồng đến ba
trăm triệu đồng hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba m. Hình phạt này sẽ được áp
dụng để xử lý đối với người có hành vi tàng trữ, vận chuyển hàng cấm quy định đủ
để CTTP.
Khoản 2 Điều 191 BLHS khung tăng nặng đầu tiên của tội tàng trữ, vận
chuyển hàng cấm. Hình phạt quy định đối với những người có hành vi phạm tội phù
hợp với cấu thành tội phạm theo khoản 2 Điều 191 thì “bị phạt tiền từ 300.000.000
đồng đến 1.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 02 năm đến 05 năm”. Như vậy, so với
tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm quy định tại Điều 155 BLHS
1999 thì tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm đã được phân hóa lại với mức hình phạt
thấp hơn rất nhiều, do các nhà làm luật đã xem xét toàn diện, khách quan tính chất
nguy hiểm cho hội đối với loại hành vi này so với hành vi sản xuất, mua n
hàng cấm. Cụ thể, các tình tiết tăng nặng ở khoản này gồm:
Phạm tội “ tổ chứclà trường hợp có sự cấu kết chặt chẽ về mặt chủ quan
45 thể khác. 1.3.5. Về hình phạt Cũng như các điều luật khác, Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định các khung hình phạt tương xứng với hành vi và số lượng hàng cấm, giá trị hàng hóa và số tiền thu lợi bất chính khi người phạm tội thực hiện. Các khung hình phạt để xử lý đối với tội phạm này cho thấy tinh thần của nguyên tắc phân hoá TNHS một cách rõ ràng, đồng thời cho thấy tính nghiêm khắc cũng như sự khoan hồng của pháp luật trong đường lối xử lý đối với tội phạm nói chung và tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm với tội sản xuất, buôn bán hàng cấm nói riêng với mức hình phạt nhẹ hơn. Có thể thấy rằng các nhà làm luật đã có sự phân hóa tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi tàng trữ, vận chuyển hàng cấm so với hành vi sản xuất, buôn bán hàng cấm khi quy định mức hình phạt của tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm nhẹ hơn mức hình phạt đối với hành vi sản xuất, buôn bán hàng cấm. Khung cơ bản quy định tại khoản 1 Điều 191, đối với trường hợp phạm tội không có các tình tiết định khung thì bị phạt tiền từ năm mươi triệu đồng đến ba trăm triệu đồng hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm. Hình phạt này sẽ được áp dụng để xử lý đối với người có hành vi tàng trữ, vận chuyển hàng cấm quy định đủ để CTTP. Khoản 2 Điều 191 BLHS là khung tăng nặng đầu tiên của tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm. Hình phạt quy định đối với những người có hành vi phạm tội phù hợp với cấu thành tội phạm theo khoản 2 Điều 191 thì “bị phạt tiền từ 300.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 02 năm đến 05 năm”. Như vậy, so với tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm quy định tại Điều 155 BLHS 1999 thì tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm đã được phân hóa lại với mức hình phạt thấp hơn rất nhiều, do các nhà làm luật đã xem xét toàn diện, khách quan tính chất nguy hiểm cho xã hội đối với loại hành vi này so với hành vi sản xuất, mua bán hàng cấm. Cụ thể, các tình tiết tăng nặng ở khoản này gồm: Phạm tội “có tổ chức” là trường hợp có sự cấu kết chặt chẽ về mặt chủ quan
46
giữa những người cùng thực hiện tội phạm, có mức độ phân hoá vai trò, phân công
nhiệm vụ cụ thể, rõ rệt về mặt khách quan. Trong đó có người tổ chức, người thực
hành, người xúi giục, người giúp sức. Tuy nhiên, không phải ván tàng trữ, vận
chuyển hàng cấm có tổ chức nào cũng có đủ những người giữ vai trò như trên. Hoạt
động tàng trữ, vận chuyển hàng cấm tổ chức nhiều khả năng cho phép nhóm
đồng phạm thực hiện hành vi liên tục, nhiều lần, gây ra những hậu quả nghiêm
trọng cho xã hội.
“Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trường hợp người phạm tội chức vụ,
quyền hạn và đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình để sản xuất, tàng trữ, vận
chuyển, buôn bán hàng cấm. Người có chức v là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do
hợp đồng hoặc do một hình thức khác, hưởng lương hoặc không hưởng lương,
được giao thực hiện một công vụ nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi
thực hiện công vụ. Người có quyền hạn là người được giao thực hiện một công vụ
và do thực hiện công vụ đó nên họ một quyền hạn nhất định. Nếu những người
này, lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình để tàng trữ, vận chuyển hàng cấm, thì
mới thuộc trường hợp lợi dụng chức vụ để phạm tội quy định tại điểm b khoản 2
Điều 191 Bộ luật hình sự. Ví dụ đối tượng Phạm Thị Hương chấp hành viên chi
cục thi hành án dân sự huyện. Do được giao tiêu huỷ lượng pháo thu giữ của VAHS,
Hương đã lợi dụng việc này mang số pháo trên về nhà cất giữ và để lại cho người
quen để đốt trong đám cưới. Hành vi của Hương đã phạm tội “tàng trữ hàng cấm”
với tình tiết định khung tăng nặng: “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn” theo quy định tại
Điểm b Khoản 2 Điều 191 BLHS.
Phạm tội “có tính chất chuyên nghiệp” trường hợp người phạm tội chủ
yếu lấy việc sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm là nguồn sống chính
của bản thân và gia đình mình hành vi đó được lặp đi lặp lại nhiều lần. Theo
hướng dẫn tại khoản 5.1 Điều 5 Nghị quyết 01/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 của
Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định
của Bộ luật hình sự đã giải thích tính chất chuyên nghiệp khi đáp ứng hai điều kiện.
Một là cố ý phạm tội từ năm lần trở lên về cùng một tội phạm không phân biệt đã bị
46 giữa những người cùng thực hiện tội phạm, có mức độ phân hoá vai trò, phân công nhiệm vụ cụ thể, rõ rệt về mặt khách quan. Trong đó có người tổ chức, người thực hành, người xúi giục, người giúp sức. Tuy nhiên, không phải vụ án tàng trữ, vận chuyển hàng cấm có tổ chức nào cũng có đủ những người giữ vai trò như trên. Hoạt động tàng trữ, vận chuyển hàng cấm có tổ chức nhiều khả năng cho phép nhóm đồng phạm thực hiện hành vi liên tục, nhiều lần, gây ra những hậu quả nghiêm trọng cho xã hội. “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn” là trường hợp người phạm tội có chức vụ, quyền hạn và đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình để sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm. Người có chức vụ là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, có hưởng lương hoặc không hưởng lương, được giao thực hiện một công vụ nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện công vụ. Người có quyền hạn là người được giao thực hiện một công vụ và do thực hiện công vụ đó nên họ có một quyền hạn nhất định. Nếu những người này, lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình để tàng trữ, vận chuyển hàng cấm, thì mới thuộc trường hợp lợi dụng chức vụ để phạm tội quy định tại điểm b khoản 2 Điều 191 Bộ luật hình sự. Ví dụ đối tượng Phạm Thị Hương là chấp hành viên chi cục thi hành án dân sự huyện. Do được giao tiêu huỷ lượng pháo thu giữ của VAHS, Hương đã lợi dụng việc này mang số pháo trên về nhà cất giữ và để lại cho người quen để đốt trong đám cưới. Hành vi của Hương đã phạm tội “tàng trữ hàng cấm” với tình tiết định khung tăng nặng: “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn” theo quy định tại Điểm b Khoản 2 Điều 191 BLHS. Phạm tội “có tính chất chuyên nghiệp” là trường hợp người phạm tội chủ yếu lấy việc sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm là nguồn sống chính của bản thân và gia đình mình và hành vi đó được lặp đi lặp lại nhiều lần. Theo hướng dẫn tại khoản 5.1 Điều 5 Nghị quyết 01/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự đã giải thích tính chất chuyên nghiệp khi đáp ứng hai điều kiện. Một là cố ý phạm tội từ năm lần trở lên về cùng một tội phạm không phân biệt đã bị
47
truy cứu trách nhiệm hình sự hay chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu chưa
hết thời hạn truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc chưa được xoá án tích. Hai là người
phạm tội lấy việc phạm tội là nghề sinh sống và lấy kết quả của việc phạm tội làm
nguồn sinh sống chính. Ví dụ một người vận chuyển thuê mỗi lần 1.500 bao thuốc
lá điếu nhập lậu để nhận tiền công làm nguồn sống thì hành vi của người này bị truy
cứu trách nhiệm hình sự về tội “vận chuyển hàng cấm” với tình tiết định khung tăng
nặng “có tính chất chuyên nghiệp” theo Điểm d Khoản 2 Điều 191 BLHS.
Thuốc bảo vệ thực vật mà Nhà nước cấm kinh doanh, cấm lưu hành, cấm
sử dụng từ 100 kilôgam đến dưới 300 kilôgam hoặc từ 100 lít đến dưới 300 lít;
Thuốc lá điếu nhập lậu từ 3.000 bao đến dưới 4.500 bao; Pháo nổ từ 40 kilôgam đến
dưới 120 kilôgam; Hàng hóa khác mà Nhà nước cấm kinh doanh, cấm lưu hành,
cấm sử dụng trị giá từ 300.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng hoặc thu lợi
bất chính từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng; Hàng hóa chưa được
phép lưu hành, chưa được phép sử dụng tại Việt Nam trị giá từ 500.000.000 đồng
đến dưới 1.000.000.000 đồng hoặc thu lợi bất chính từ 300.000.000 đồng đến dưới
700.000.000 đồng”. Tương tự như quy định tại khung bản của Điều luật, hàng
phạm pháp theo quy định chủng loại số lượng cụ thể là trường hợp người phạm
tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm mà thuộc quy định về loại và số lượng hàng cấm
đó được quy định cụ thể hoặc giá trị hàng hóa hoặc lợi nhuận trong mức quy định
tại khoản nàythìbị xử lý theo quy định tại Khoản 2 Điều 191. Khắc phục những hạn
chế trước đây, BLHS 2015quy định và hướng dẫn cụ thể khi định lượng đối với số
lượng hàng cấm và lợi nhuận thu được từ tàng trữ, vận chuyển hàng cấm. Cụ thể
các loại thuốc bảo vệ thực vật Nhà nước cấmkinh doanh, cấm lưu hành, cấm sử
dụng, thuốc điếu nhập lậu, pháo nổ và hàng hóa khác mà Nhà nước cấm kinh
doanh, cấm lưu hành, cấm sử dụng, hàng hóa chưa được phép lưu hành, sử dụng đã
được cụ thể hóa về định lượng, giá trị hàng hóa và số tiền thu lợi bất chính.
“Tái phạm nguy hiểm" là trường hợp tương tự như trường hợp tái phạm nguy
hiểm quy định tại khoản 1 Điều 52 BLHS. Tuy nhiên, phạm tội tàng trữ, vận
chuyển hàng cấm trong trường hợp tái phạm nguy hiểm khi:
47 truy cứu trách nhiệm hình sự hay chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu chưa hết thời hạn truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc chưa được xoá án tích. Hai là người phạm tội lấy việc phạm tội là nghề sinh sống và lấy kết quả của việc phạm tội làm nguồn sinh sống chính. Ví dụ một người vận chuyển thuê mỗi lần 1.500 bao thuốc lá điếu nhập lậu để nhận tiền công làm nguồn sống thì hành vi của người này bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội “vận chuyển hàng cấm” với tình tiết định khung tăng nặng “có tính chất chuyên nghiệp” theo Điểm d Khoản 2 Điều 191 BLHS. “Thuốc bảo vệ thực vật mà Nhà nước cấm kinh doanh, cấm lưu hành, cấm sử dụng từ 100 kilôgam đến dưới 300 kilôgam hoặc từ 100 lít đến dưới 300 lít; Thuốc lá điếu nhập lậu từ 3.000 bao đến dưới 4.500 bao; Pháo nổ từ 40 kilôgam đến dưới 120 kilôgam; Hàng hóa khác mà Nhà nước cấm kinh doanh, cấm lưu hành, cấm sử dụng trị giá từ 300.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng hoặc thu lợi bất chính từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng; Hàng hóa chưa được phép lưu hành, chưa được phép sử dụng tại Việt Nam trị giá từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng hoặc thu lợi bất chính từ 300.000.000 đồng đến dưới 700.000.000 đồng”. Tương tự như quy định tại khung cơ bản của Điều luật, hàng phạm pháp theo quy định chủng loại và số lượng cụ thể là trường hợp người phạm tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm mà thuộc quy định về loại và số lượng hàng cấm đó được quy định cụ thể hoặc giá trị hàng hóa hoặc lợi nhuận trong mức quy định tại khoản nàythìbị xử lý theo quy định tại Khoản 2 Điều 191. Khắc phục những hạn chế trước đây, BLHS 2015quy định và hướng dẫn cụ thể khi định lượng đối với số lượng hàng cấm và lợi nhuận thu được từ tàng trữ, vận chuyển hàng cấm. Cụ thể là các loại thuốc bảo vệ thực vật Nhà nước cấmkinh doanh, cấm lưu hành, cấm sử dụng, thuốc lá điếu nhập lậu, pháo nổ và hàng hóa khác mà Nhà nước cấm kinh doanh, cấm lưu hành, cấm sử dụng, hàng hóa chưa được phép lưu hành, sử dụng đã được cụ thể hóa về định lượng, giá trị hàng hóa và số tiền thu lợi bất chính. “Tái phạm nguy hiểm" là trường hợp tương tự như trường hợp tái phạm nguy hiểm quy định tại khoản 1 Điều 52 BLHS. Tuy nhiên, phạm tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm trong trường hợp tái phạm nguy hiểm khi:
48
- Người phạm tội đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm
trọng do cố ý, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm
thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 hoặc khoản 3 Điều 191 BLHS (vì khoản 1
Điều 191 BLHS không phải là tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng). Như vậy, trường hợp tái phạm nguy hiểm này đồng thời đã thuộc
trường hợp quy định tại khoản 2 và khoản 3 của Điều 191 nên việc xác định tình tiết
tái phạm nguy hiểm chỉ có ý nghĩa là tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 BLHS
chứ không có ý nghĩa định khung hình phạt.
- Người phạm tội đã tái phạm, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội tàng
trữ, vận chuyển hàng cấm không phân biệt phạm tội thuộc trường hợp quy định tại
khoản nào của Điều 191 Bộ luật hình sự.
Khoản 3 Điều 191 BLHS quy định tình tiết định khung nặng nhất của Điều
luật. Đó phạm tội trong trường hợp hàng phạm pháp số lượng đặc biệt lớn
hoặc thu lợi bất chính đặc biệt lớn được quy định cụ thể. Trường hợp này, người
phạm tội sẽ bị áp dụng mức phạt tù từ 05 năm đến 10 năm.
Ngoài hình phạt chính là phạt tù, người phạm tội còn có thể bị áp dụng hình
phạt bổ sung như phạt tiền từ mười triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cấm đảm
nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm
năm (Khoản 4 Điều 191 BLHS).
Khoản 5 Điều 191 BLHS 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định mức
hình phạt đối với pháp nhân có hành vi tàng trữ, vận chuyển hàng cấm. Pháp nhân
có hành vi phạm tội quy định tại khoản 1 thì bị phạt tiền từ 300.000.000 đồng đến
1.000.000.000 đồng; phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại các điểm a, d, đ, e,
g, h, i, k l khoản 2 điều này thì bị phạt tiền từ 1.000.000.000 đồng đến
3.000.000.000 đồng; phạm tội quy định tại khoản 3 điều này thì bị phạt tiền từ
3.000.000.000 đồng đến 5.000.000.000 đồng hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn từ
06 tháng đến 03 năm; Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại Điều 79 Bộ luật này
thì bị đình chỉ hoạt động vĩnh viễn, cụ thể pháp nhân thương mại phạm tội gây thiệt
hại hoặc có khả năng thực tế gây thiệt hại đến tính mạng của nhiều người, gây sự cố
48 - Người phạm tội đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 hoặc khoản 3 Điều 191 BLHS (vì khoản 1 Điều 191 BLHS không phải là tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng). Như vậy, trường hợp tái phạm nguy hiểm này đồng thời đã thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 và khoản 3 của Điều 191 nên việc xác định tình tiết tái phạm nguy hiểm chỉ có ý nghĩa là tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 BLHS chứ không có ý nghĩa định khung hình phạt. - Người phạm tội đã tái phạm, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm không phân biệt phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản nào của Điều 191 Bộ luật hình sự. Khoản 3 Điều 191 BLHS quy định tình tiết định khung nặng nhất của Điều luật. Đó là phạm tội trong trường hợp hàng phạm pháp có số lượng đặc biệt lớn hoặc thu lợi bất chính đặc biệt lớn được quy định cụ thể. Trường hợp này, người phạm tội sẽ bị áp dụng mức phạt tù từ 05 năm đến 10 năm. Ngoài hình phạt chính là phạt tù, người phạm tội còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung như phạt tiền từ mười triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm (Khoản 4 Điều 191 BLHS). Khoản 5 Điều 191 BLHS 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định mức hình phạt đối với pháp nhân có hành vi tàng trữ, vận chuyển hàng cấm. Pháp nhân có hành vi phạm tội quy định tại khoản 1 thì bị phạt tiền từ 300.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng; phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại các điểm a, d, đ, e, g, h, i, k và l khoản 2 điều này thì bị phạt tiền từ 1.000.000.000 đồng đến 3.000.000.000 đồng; phạm tội quy định tại khoản 3 điều này thì bị phạt tiền từ 3.000.000.000 đồng đến 5.000.000.000 đồng hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn từ 06 tháng đến 03 năm; Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại Điều 79 Bộ luật này thì bị đình chỉ hoạt động vĩnh viễn, cụ thể pháp nhân thương mại phạm tội gây thiệt hại hoặc có khả năng thực tế gây thiệt hại đến tính mạng của nhiều người, gây sự cố
49
môi trường hoặc gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội và không có
khả năng khắc phục hậu quả gây ra hoặc pháp nhân thương mại được thành lập chỉ
để thực hiện tội phạm. Như vậy, đối với pháp nhân thương mại có hành vi tàng trữ,
vận chuyển hàng cấm thì có mức hình phạt từ 300.000.000 đồng đến 5.000.000.000
đồng hoặc bị đình chỉ hoạt động vĩnh viễn.
Ngoài ra, pháp nhân phạm tội quy định tại Điều 191 BLHS năm 2015 còn có
thể bị áp dụng hình phạt bổ sung phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000
đồng, cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong số lĩnh vực nhất định hoặc cấm huy
động vốn từ 01 năm đến 03 năm.
Tiểu kết chương 1
Trong chương 1 y, tác giả đã đưa ra khái niệm hàng cấm để từ đó phân
tích bản chất và khái niệm tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm. Dưới góc độ lý luận,
các khái niệm các nhà khoa học đưa ra đều nhằm mục đích thể hiện bản chất của tội
phạm này một cách rõ nhất.
Bên cạnh đó, từ nhiều quy định pháp luật về các hành vi phạm tội cụ thể của
Luật hình sự trong từng thời kỳ đến quy định trong BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ
sung năm 2017 hiện hành, tác giả đã khái quát toàn cảnh lịch sử Việt Nam về tội
phạm tàng trữ, vận chuyển hàng cấm cho thấy quy định về tội này trong pháp
luật hình sự cả một quá trình lâu dài, thể hiện thái độ của Nhà nước trong cuộc
đấu tranh phòng chống tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm.
Trên cơ sở nghiên cu ti tàng tr, vn chuyn hàng cm càng khẳng định s
cn thiết phi hoàn thiện quy định v ti phm tàng tr, vn chuyn hàng cm cho
phù hp vi tình hình kinh tế, chính trị, văn hoá của Việt Nam, đáp ứng nhu cu x
lý triệt để trưc din biến phc tp ca ti phm này trong thc tế. Nhng vấn đề
luận nêu trên là cơ sở cho vic tìm hiểu, đánh giá sự phù hp ca BLHS Vit Nam
hin hành v ti tàng tr, vn chuyn hàng cm tại chương tiếp theo và đưa ra kiến
ngh tiếp tc hoàn thin để phù hp vi thc tin din biến ca ti phạm cũng như
đảm bo s tương thích với pháp lut quc tế.
49 môi trường hoặc gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội và không có khả năng khắc phục hậu quả gây ra hoặc pháp nhân thương mại được thành lập chỉ để thực hiện tội phạm. Như vậy, đối với pháp nhân thương mại có hành vi tàng trữ, vận chuyển hàng cấm thì có mức hình phạt từ 300.000.000 đồng đến 5.000.000.000 đồng hoặc bị đình chỉ hoạt động vĩnh viễn. Ngoài ra, pháp nhân phạm tội quy định tại Điều 191 BLHS năm 2015 còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong số lĩnh vực nhất định hoặc cấm huy động vốn từ 01 năm đến 03 năm. Tiểu kết chương 1 Trong chương 1 này, tác giả đã đưa ra khái niệm hàng cấm để từ đó phân tích bản chất và khái niệm tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm. Dưới góc độ lý luận, các khái niệm các nhà khoa học đưa ra đều nhằm mục đích thể hiện bản chất của tội phạm này một cách rõ nhất. Bên cạnh đó, từ nhiều quy định pháp luật về các hành vi phạm tội cụ thể của Luật hình sự trong từng thời kỳ đến quy định trong BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 hiện hành, tác giả đã khái quát toàn cảnh lịch sử Việt Nam về tội phạm tàng trữ, vận chuyển hàng cấm và cho thấy quy định về tội này trong pháp luật hình sự là cả một quá trình lâu dài, thể hiện thái độ của Nhà nước trong cuộc đấu tranh phòng chống tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm. Trên cơ sở nghiên cứu tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm càng khẳng định sự cần thiết phải hoàn thiện quy định về tội phạm tàng trữ, vận chuyển hàng cấm cho phù hợp với tình hình kinh tế, chính trị, văn hoá của Việt Nam, đáp ứng nhu cầu xử lý triệt để trước diễn biến phức tạp của tội phạm này trong thực tế. Những vấn đề lý luận nêu trên là cơ sở cho việc tìm hiểu, đánh giá sự phù hợp của BLHS Việt Nam hiện hành về tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm tại chương tiếp theo và đưa ra kiến nghị tiếp tục hoàn thiện để phù hợp với thực tiễn diễn biến của tội phạm cũng như đảm bảo sự tương thích với pháp luật quốc tế.
50
Chương 2
THỰC TIỄNVÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG QUY ĐỊNH CỦA
PHÁP LUẬT VỀ TỘI TÀNG TRỮ, VẬN CHUYỂN HÀNG CẤM TẠI
HUYỆN ĐỨC HÒA, TỈNH LONG AN
2.1. Các yếu tố có liên quan đến hoạt động áp dụng pháp luật về tội tàng
trữ, vận chuyển hàng cấm trên địa bàn huyện Đức Hòa, tỉnh Long An
Đức Hòa, Long An một huyện phía Bắc tỉnh Long An với diện tích tự
nhiên 42.169 ha, dân số 345.817 người. Đức Hòa giáp các huyện Hóc Môn, Bình
Chánh, Củ Chi của Thành phố Hồ Chí Minh, phía Nam giáp huyện Bến Lức, Long
An; phía Bắc giáp Trảng Bàng, y Ninh phía Tây giáp huyện biên giới Đức
Huệ. Từ địa phận huyện Đức Hòa có thể di chuyển thuận lợi đến Thành phố Hồ Chí
Minh qua Quốc lộ 22 và Quốc lộ 1A còn Quốc lộ N2 là trục giao thông liên hệ
trực tiếp giữa vùng Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ.
Đức Hòa là vùng đất tương đối bằng phẳng và cao ráo, nền đất cứng có điều
kiện tự nhiên phù hợp phát triển công nghiệp, nguồn đất chưa sử dụng còn nhiều,
địa hình tương đối bằng phẳng, thuận lợi cho san lắp mặt bằng xây dựng sở
hạ tầng, lại tiếp giáp với thành phố Hồ Chí Minh nên phù hợp phát triển công
nghiệp, là địa phương đi đầu trong việc thu hút phát triển công nghiệp của tỉnh
Long An. Hiện nay, huyện Đức Hòa nhiều cụm khu công nghiệp, thương mại,
dịch vụ với rất nhiều doanh nghiệp vừa nhỏ có tổng diện tích 18.000 ha. Đức
Hòa đứng đầu tỉnh Long An với nguồn thu cho ngân sách năm 2018 đạt 960 tỷ đồng,
mức tăng trưởng kinh tế đạt 17,5% năm. Theo đồ án quy hoạch năm 2020, tầm nhìn
năm 2030 thì Đức Hòa sẽ trở thành tiểu vùng trung tâm Thành phố Hồ Chí Minh và
trở thành vùng đô thị phát triện trọng điểm phía Tây của Thành phố Hồ Chí Minh
và vùng kinh tế động lực phía bắc của Long An
Đức Hòa hội tụ những điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội quan
trọng trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước cùng với việc tiếp giáp
huyện biên giới thành phố Hồ Chí Minh, điều y tạo điều kiện thuận lợi cho
việc giao lưu, buôn bán hàng hóa với Campuchia và hội nhập trên tuyến hành lang
50 Chương 2 THỰC TIỄNVÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ TỘI TÀNG TRỮ, VẬN CHUYỂN HÀNG CẤM TẠI HUYỆN ĐỨC HÒA, TỈNH LONG AN 2.1. Các yếu tố có liên quan đến hoạt động áp dụng pháp luật về tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm trên địa bàn huyện Đức Hòa, tỉnh Long An Đức Hòa, Long An là một huyện phía Bắc tỉnh Long An với diện tích tự nhiên 42.169 ha, dân số 345.817 người. Đức Hòa giáp các huyện Hóc Môn, Bình Chánh, Củ Chi của Thành phố Hồ Chí Minh, phía Nam giáp huyện Bến Lức, Long An; phía Bắc giáp Trảng Bàng, Tây Ninh và phía Tây giáp huyện biên giới Đức Huệ. Từ địa phận huyện Đức Hòa có thể di chuyển thuận lợi đến Thành phố Hồ Chí Minh qua Quốc lộ 22 và Quốc lộ 1A và còn Quốc lộ N2 là trục giao thông liên hệ trực tiếp giữa vùng Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ. Đức Hòa là vùng đất tương đối bằng phẳng và cao ráo, nền đất cứng có điều kiện tự nhiên phù hợp phát triển công nghiệp, nguồn đất chưa sử dụng còn nhiều, địa hình tương đối bằng phẳng, thuận lợi cho san lắp mặt bằng và xây dựng cơ sở hạ tầng, lại tiếp giáp với thành phố Hồ Chí Minh nên phù hợp phát triển công nghiệp, là địa phương đi đầu trong việc thu hút và phát triển công nghiệp của tỉnh Long An. Hiện nay, huyện Đức Hòa có nhiều cụm khu công nghiệp, thương mại, dịch vụ với rất nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ có tổng diện tích 18.000 ha. Đức Hòa đứng đầu tỉnh Long An với nguồn thu cho ngân sách năm 2018 đạt 960 tỷ đồng, mức tăng trưởng kinh tế đạt 17,5% năm. Theo đồ án quy hoạch năm 2020, tầm nhìn năm 2030 thì Đức Hòa sẽ trở thành tiểu vùng trung tâm Thành phố Hồ Chí Minh và trở thành vùng đô thị phát triện trọng điểm phía Tây của Thành phố Hồ Chí Minh và vùng kinh tế động lực phía bắc của Long An Đức Hòa hội tụ những điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội quan trọng trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước cùng với việc tiếp giáp huyện biên giới và thành phố Hồ Chí Minh, điều này tạo điều kiện thuận lợi cho việc giao lưu, buôn bán hàng hóa với Campuchia và hội nhập trên tuyến hành lang
51
thương mại quốc tế. Với sự phát triển về công thương nghiệp đã đóng góp quan
trọng cho sự phát triển kinh tế, tăng trưởng GDP của tỉnh Long An nói riêng và của
Việt Nam nói chung.
Trong những năm gần dây, kinh tế - xã hội của huyện đã có những bước phát
triển mới với các thành phần kinh tế đa dạng, các ngành nghề phong phú thu t
mạnh mẽ đầu tư trong và ngoài nước. Từ đó mà cơ sở hạ tầng được cải thiện rõ rệt,
bộ mặt của tỉnh thay đổi nhanh chóng. Tuy nhiên đi cùng sự phát triển kinh tế
nhanh mạnh mẽ lại là những vấn đề về xã hội về tội phạm vô cùng nhức nhối, phức
tạp, luôn có chiều hướng gia tăng. Điển hình trong đó là tội phạm về xâm phạm trật
tự quản lý kinh tế, cụ thể là tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm, nó đã và đang gây ra
những tác động tiêu cực ảnh hưởng tới việc thực hiện những chính sách kinh tế
xã hội của tỉnh Long An và của cả nước.
Đức Hòa, Long Anmột trong những địa bàn trong cả nước hoạt động
buôn bán, vận chuyển hàng cấm diễn ra phức tạp và khó kiểm soát nhất.Bởi lẽ các
đặc điểm về điều kiện tự nhiên, dân cư, trình độ văn hóa, tốc độ phát triển kinh tế...
đã có rất nhiều tác động tới thực trạng này. Điều kiện địa lý, giao thông phức tạp…
tạo điều kiện thuận lợi về địa hình để các đối tượng phạm tội lợi dụng tàng trữ, vận
chuyển hàng cấm qua liên tục qua vùng biên giới khiến các cơ quan chức năng khó
kiểm soát. Hàng cấm được vận chuyển vào sâu nội địa và dễ dàng chuyển tiếp tới
các tỉnh thành khác Thành phố Hồ Chí Minh, Tây Ninh và ngược lại. Thêm nữa, với
đường sông, kênh rạch là nơi thuận lợi để neo đậu, ẩn nấp, tạo điều kiện tốt cho các
tàu thuyền chở hàng cấm trốn, giấu và tàng trữ, rất khó để phát hiện và vây bắt. Với
các tuyến đường sông lớn như Kênh Thầy Cai và hệ thống sông Vàm Cỏ là nơi
số lượng hàng cấm xuất nhập lớn, hàng ngày có nhiều tàu chở hàng cập bến xen lẫn
hoạt động hợp pháp sẽ một khối lượng lớn hàng cấm nhập nội địa không được
kiểm soát.
Các hoạt động tàng trữ, vận chuyển hàng hóa còn được vận chuyển theo
đường mòn, theo bờ sông, các vùng xa xôi hẻo lánh từ khu vực biên giới Đức Huệ
vào nội địa huyện Đức Hòa để vận chuyển đến Thành phố H Chí Minh. Dân
51 thương mại quốc tế. Với sự phát triển về công thương nghiệp đã đóng góp quan trọng cho sự phát triển kinh tế, tăng trưởng GDP của tỉnh Long An nói riêng và của Việt Nam nói chung. Trong những năm gần dây, kinh tế - xã hội của huyện đã có những bước phát triển mới với các thành phần kinh tế đa dạng, các ngành nghề phong phú thu hút mạnh mẽ đầu tư trong và ngoài nước. Từ đó mà cơ sở hạ tầng được cải thiện rõ rệt, bộ mặt của tỉnh thay đổi nhanh chóng. Tuy nhiên đi cùng sự phát triển kinh tế nhanh mạnh mẽ lại là những vấn đề về xã hội về tội phạm vô cùng nhức nhối, phức tạp, luôn có chiều hướng gia tăng. Điển hình trong đó là tội phạm về xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, cụ thể là tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm, nó đã và đang gây ra những tác động tiêu cực và ảnh hưởng tới việc thực hiện những chính sách kinh tế xã hội của tỉnh Long An và của cả nước. Đức Hòa, Long An là một trong những địa bàn trong cả nước mà hoạt động buôn bán, vận chuyển hàng cấm diễn ra phức tạp và khó kiểm soát nhất.Bởi lẽ các đặc điểm về điều kiện tự nhiên, dân cư, trình độ văn hóa, tốc độ phát triển kinh tế... đã có rất nhiều tác động tới thực trạng này. Điều kiện địa lý, giao thông phức tạp… tạo điều kiện thuận lợi về địa hình để các đối tượng phạm tội lợi dụng tàng trữ, vận chuyển hàng cấm qua liên tục qua vùng biên giới khiến các cơ quan chức năng khó kiểm soát. Hàng cấm được vận chuyển vào sâu nội địa và dễ dàng chuyển tiếp tới các tỉnh thành khác Thành phố Hồ Chí Minh, Tây Ninh và ngược lại. Thêm nữa, với đường sông, kênh rạch là nơi thuận lợi để neo đậu, ẩn nấp, tạo điều kiện tốt cho các tàu thuyền chở hàng cấm trốn, giấu và tàng trữ, rất khó để phát hiện và vây bắt. Với các tuyến đường sông lớn như Kênh Thầy Cai và hệ thống sông Vàm Cỏ là nơi có số lượng hàng cấm xuất nhập lớn, hàng ngày có nhiều tàu chở hàng cập bến xen lẫn hoạt động hợp pháp sẽ có một khối lượng lớn hàng cấm nhập nội địa không được kiểm soát. Các hoạt động tàng trữ, vận chuyển hàng hóa còn được vận chuyển theo đường mòn, theo bờ sông, các vùng xa xôi hẻo lánh từ khu vực biên giới Đức Huệ vào nội địa huyện Đức Hòa để vận chuyển đến Thành phố Hồ Chí Minh. Dân
52
sống khu vực giáp vùng biên giới lại sống thưa thớt, phân tán, đời sống khó
khăn, lạc hậu nên trở thành những đối tượng bị kẻ xấu lợi dụng để vận chuyển hàng
cấm qua biên giới. Đồng thời với sự đa dạng về địa hình, trình độ văn hóa khác biệt
cũng một bất lợi về việc phổ cập kiến thức, giáo dục, pháp luật cho người dân,
khó khăn trong việc tuyên truyền đường lối chính sách.
Hiện nay, lực lượng các quan tiến hành tố tụng trên địa bàn huyện Đức
Hòa được các cấp Lãnh đạo quan tâm và phát triển ngày càng nhiều cả về số lượng
cán bộ công chức lẫn trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Đối với công tác đấu tranh,
phòng chống tội phạm về hàng cấm nói riêng, Công an huyện Đức Hòa thành lập
Đội Cảnh sát phòng chống tội phạm về kinh tế, môi trường phối hợp với Đội Cảnh
sát điều tra và Đội hình sự để thực hiện công tác chung về các loại tội phạm xâm
phạm quản lý kinh tế, môi trường, trong đó chú trọng đặc biệt đến tội tàng trữ, vận
chuyển hàng cấm. Ngoài lực lượng chính quy tại Công an huyện Đức Hòa còn
lực lượng Công an xã, dân quân tự vệ tại địa bàn các xã, phường, thị trấn Lực
lượng quản thị trường thường xuyên phối hợp tổ chức tuần tra, truy xét những
đối tượng có tin báo của quần chúng nhân dân về hành vi tàng trữ, vận chuyển hàng
cấm. Đối với lực lượng tiến hành tố tụng tại Viện kiểm sát, TAND huyện Đức Hòa,
phần lớn các cán bộ, KSV, thư ký, Thẩm phán với trình độ cử nhận Luật trở lên đã
p phần không nhỏ trong trong việc thực hiện công tác đấu tranh, phòng chống tội
phạm nói chung và tội phạm về hàng cấm nói riêng.
2.2. Thực tiễn định tội danh đối với tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm
trên địa bàn huyện Đức Hòa, tỉnh Long An
Định ti danh một giai đon quan trng nht trong quá trình áp dng
PLHS. Bởi vì, định tội danh đưc tiến hành thc hin hu hết các giai đoạn ca c
quá trình t tng hình s t giai đoạn khi t đến giai đoạn xét x.
Định ti danhquá trình nhn thc lun tính logic, dng ca hot
động thc tin áp dng pháp lut hình s cũng như pháp luật t tng hình s và và
được tiến hành trên sở các chng c, các tài liu thu thập được các tình tiết
thc tế ca VAHS để xác định s phù hp gia các du hiu ca hành vi nguy him
52 cưsống ở khu vực giáp vùng biên giới lại sống thưa thớt, phân tán, đời sống khó khăn, lạc hậu nên trở thành những đối tượng bị kẻ xấu lợi dụng để vận chuyển hàng cấm qua biên giới. Đồng thời với sự đa dạng về địa hình, trình độ văn hóa khác biệt cũng là một bất lợi về việc phổ cập kiến thức, giáo dục, pháp luật cho người dân, khó khăn trong việc tuyên truyền đường lối chính sách. Hiện nay, lực lượng các cơ quan tiến hành tố tụng trên địa bàn huyện Đức Hòa được các cấp Lãnh đạo quan tâm và phát triển ngày càng nhiều cả về số lượng cán bộ công chức lẫn trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Đối với công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm về hàng cấm nói riêng, Công an huyện Đức Hòa thành lập Đội Cảnh sát phòng chống tội phạm về kinh tế, môi trường phối hợp với Đội Cảnh sát điều tra và Đội hình sự để thực hiện công tác chung về các loại tội phạm xâm phạm quản lý kinh tế, môi trường, trong đó chú trọng đặc biệt đến tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm. Ngoài lực lượng chính quy tại Công an huyện Đức Hòa còn có lực lượng Công an xã, dân quân tự vệ tại địa bàn các xã, phường, thị trấn và Lực lượng quản lý thị trường thường xuyên phối hợp tổ chức tuần tra, truy xét những đối tượng có tin báo của quần chúng nhân dân về hành vi tàng trữ, vận chuyển hàng cấm. Đối với lực lượng tiến hành tố tụng tại Viện kiểm sát, TAND huyện Đức Hòa, phần lớn các cán bộ, KSV, thư ký, Thẩm phán với trình độ cử nhận Luật trở lên đã góp phần không nhỏ trong trong việc thực hiện công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm nói chung và tội phạm về hàng cấm nói riêng. 2.2. Thực tiễn định tội danh đối với tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm trên địa bàn huyện Đức Hòa, tỉnh Long An Định tội danh là một giai đoạn quan trọng nhất trong quá trình áp dụng PLHS. Bởi vì, định tội danh được tiến hành thực hiện ở hầu hết các giai đoạn của cả quá trình tố tụng hình sự từ giai đoạn khởi tố đến giai đoạn xét xử. Định tội danh là quá trình nhận thức lý luận có tính logic, là dạng của hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự cũng như pháp luật tố tụng hình sự và và được tiến hành trên cơ sở các chứng cứ, các tài liệu thu thập được và các tình tiết thực tế của VAHS để xác định sự phù hợp giữa các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm
53
cho hội đưc thc hin vi các du hiu ca cu thành ti phạm tương ng do
lut hình s quy định, nhằm đạt được s tht khách quan, tức là đánh giá chính xác
ti phm v mt pháp lý hình s, làm tiền đề cho vic cá th hoá và phân hóa trách
nhim hình s một cách công minh, có căn cứ và đúng pháp luật [10].
Từ năm 2014 đến năm 2018, Công an huyện Đức Hòa đã thụ lý điều tra 105
vụ với 157 bị can về tội phạm này, điều y được thể hiện trong Bảng 2.1 cụ thể
như sau:
Bng 2.1. Thng th điều tra VAHS v ti phm tàng tr,
vn chuyn hàng cấm trên địa bàn huyn Đc Hòa, tnh Long An t2014-2018
Năm 2014 điều tra phát hiện được 31 vụ án về hàng cấm với 41 bị can, số án
tồn đọng lại không nhiều, chỉ có 02 vụ án với 02 bị can. Năm 2015, số vụ án giảm
còn 23 vụ án và 35 bị can trong đó án cũ còn lại cũng chỉ 1 vụ án với 1 bị can.
Đến năm 2016, số vụ án phát hiện điều tra về hàng cấm giảm nhẹ còn 20 vụ án
32 bị can do có 2 án cũ còn lại với 2 bị can. Tuy nhiên đến năm 2017 và 2018, Công
an huyện Đức Hòa, tỉnh Long An đã không còn một vụ án nào tồn đọng lại, đồng
thời số án về hàng cấm liên tục giảm từ 19 án với 25bị can của năm 2017 xuống còn
12 án với 20 bị can của năm 2018, giảm 07 vụ án. Điều này cho thấy sự chuyển
biến lớn trong công tác điều tra phòng chống tội phạm của Công an huyện Đức Hòa
đã những kết quả rệt, đã hạn chế được tội phạm về tội tàng trữ, vận chuyển
Số vụ án phải giải quyết
Năm
Mới thụ lý
Tổng số
Vụ án
Bị can
Vụ án
Bị can
Vụ án
Bị can
2014
2
2
29
39
31
41
2015
1
1
22
35
23
36
2016
2
2
18
33
20
35
2017
0
0
19
25
19
25
2018
0
0
12
20
12
20
Tổng số
5
5
100
152
105
157
Nguồn: Công an huyện Đức Hòa, tỉnh Long An
53 cho xã hội được thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm tương ứng do luật hình sự quy định, nhằm đạt được sự thật khách quan, tức là đánh giá chính xác tội phạm về mặt pháp lý hình sự, làm tiền đề cho việc cá thể hoá và phân hóa trách nhiệm hình sự một cách công minh, có căn cứ và đúng pháp luật [10]. Từ năm 2014 đến năm 2018, Công an huyện Đức Hòa đã thụ lý điều tra 105 vụ với 157 bị can về tội phạm này, điều này được thể hiện trong Bảng 2.1 cụ thể như sau: Bảng 2.1. Thống kê thụ lý điều tra VAHS về tội phạm tàng trữ, vận chuyển hàng cấm trên địa bàn huyện Đức Hòa, tỉnh Long An từ2014-2018 Năm 2014 điều tra phát hiện được 31 vụ án về hàng cấm với 41 bị can, số án tồn đọng lại không nhiều, chỉ có 02 vụ án với 02 bị can. Năm 2015, số vụ án giảm còn 23 vụ án và 35 bị can trong đó án cũ còn lại cũng chỉ có 1 vụ án với 1 bị can. Đến năm 2016, số vụ án phát hiện điều tra về hàng cấm giảm nhẹ còn 20 vụ án và 32 bị can do có 2 án cũ còn lại với 2 bị can. Tuy nhiên đến năm 2017 và 2018, Công an huyện Đức Hòa, tỉnh Long An đã không còn một vụ án nào tồn đọng lại, đồng thời số án về hàng cấm liên tục giảm từ 19 án với 25bị can của năm 2017 xuống còn 12 án với 20 bị can của năm 2018, giảm 07 vụ án. Điều này cho thấy sự chuyển biến lớn trong công tác điều tra phòng chống tội phạm của Công an huyện Đức Hòa đã có những kết quả rõ rệt, đã hạn chế được tội phạm về tội tàng trữ, vận chuyển Số vụ án phải giải quyết Năm Cũ còn lại Mới thụ lý Tổng số Vụ án Bị can Vụ án Bị can Vụ án Bị can 2014 2 2 29 39 31 41 2015 1 1 22 35 23 36 2016 2 2 18 33 20 35 2017 0 0 19 25 19 25 2018 0 0 12 20 12 20 Tổng số 5 5 100 152 105 157 Nguồn: Công an huyện Đức Hòa, tỉnh Long An
54
hàng cấm trong năm năm gần đây. Đây cũng là tín hiệu khả quan kết quả rõ rệt
nhất trong việc loại trừ tội phạm y trên địa bàn huyện Đức Hòa, tỉnh Long An.
Tuy nhiên, cũng cần chú ý về những vụ án, những tội phạm chưa được phát hiện, tố
giác để lấy đó làm động lực và mục tiêu cho công tác điều tra sau này của cơ quan
Công an huyện Đức Hòa, tỉnh Long An, hạn chế nhất những sự việc đáng tiếc
không để bỏ lọt tội phạm.
Đồng thời trong những năm trở lại đây, ngành VKSND, TAND, đội ngũ cán
bộ, công chức của các ngành Viện và Tòa án huyện Đức Hòa, tỉnh Long An đã khắc
phục mọi khó khăn, đoàn kết phấn đấu để thực hiện hiệu quả chức năng của
mình kiểm sát điều tra, truy tố, xét xử các VAHS nói chung, tội tàng trữ, vận
chuyển hàng cấm nói riêng nhằm đưa ra các bản án chính xác, đúng người, đúng tội,
thỏa đáng nhằm răn đe, chung tay phòng ngừa tội phạm.
Bng 2.2. Thng kê s v án đã xét xử hình s v ti tàng tr, vn chuyn
hàng cấm trên địa bàn huyện Đc Hòa, tnh Long An t năm 2014 -2018
Từ năm 2014 đến năm 2018, Tòa án huyện Đức Hòa, tỉnh Long An đã xét xử
1.183 vụ án trong đó 93 án về tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm chiếm 7,86%.
thể thấy số vụ án về hàng cấm không nhiều so với những án hình sự khác,
Năm
Sô vụ án phải giải quyết
Các tội phạm khác
Tội, tàng trữ, vận chuyển hàng cấm
Vụ án
Bị cáo
Vụ án
Bị cáo
2014
276
568
27
33
2015
219
483
20
31
2016
206
457
19
27
2017
245
581
17
20
2018
237
542
10
15
Tổng số
1.183
2.631
93
126
Nguồn:TAND huyện Đức Hòa, tỉnh Long An
54 hàng cấm trong năm năm gần đây. Đây cũng là tín hiệu khả quan và kết quả rõ rệt nhất trong việc loại trừ tội phạm này trên địa bàn huyện Đức Hòa, tỉnh Long An. Tuy nhiên, cũng cần chú ý về những vụ án, những tội phạm chưa được phát hiện, tố giác để lấy đó làm động lực và mục tiêu cho công tác điều tra sau này của cơ quan Công an huyện Đức Hòa, tỉnh Long An, hạn chế nhất những sự việc đáng tiếc và không để bỏ lọt tội phạm. Đồng thời trong những năm trở lại đây, ngành VKSND, TAND, đội ngũ cán bộ, công chức của các ngành Viện và Tòa án huyện Đức Hòa, tỉnh Long An đã khắc phục mọi khó khăn, đoàn kết phấn đấu để thực hiện có hiệu quả chức năng của mình là kiểm sát điều tra, truy tố, xét xử các VAHS nói chung, tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm nói riêng nhằm đưa ra các bản án chính xác, đúng người, đúng tội, thỏa đáng nhằm răn đe, chung tay phòng ngừa tội phạm. Bảng 2.2. Thống kê số vụ án đã xét xử hình sự về tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm trên địa bàn huyện Đức Hòa, tỉnh Long An từ năm 2014 -2018 Từ năm 2014 đến năm 2018, Tòa án huyện Đức Hòa, tỉnh Long An đã xét xử 1.183 vụ án trong đó có 93 án về tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm chiếm 7,86%. Có thể thấy số vụ án về hàng cấm không nhiều so với những án hình sự khác, Năm Sô vụ án phải giải quyết Các tội phạm khác Tội, tàng trữ, vận chuyển hàng cấm Vụ án Bị cáo Vụ án Bị cáo 2014 276 568 27 33 2015 219 483 20 31 2016 206 457 19 27 2017 245 581 17 20 2018 237 542 10 15 Tổng số 1.183 2.631 93 126 Nguồn:TAND huyện Đức Hòa, tỉnh Long An