Luận văn Thạc sĩ Kỹ thuật: Nghiên cứu sử dụng hỗn hợp nhiên liệu Bio-oils/Biodiesel trên động cơ diesel tàu thủy cỡ nhỏ
7,137
520
102
20
khí thải với nồng độ các chất độc hại cao) vẫn còn chưa được quan tâm nghiên cứu
nhiều.
Mặc dù nhiên liệu sinh học vẫn còn có những mặt hạn chế so với dầu diesel
truyền thống và chưa được ứng dụng rộng rãi nhưng các nhà khoa học, các nhà
nghiên cứu vẫn tiếp túc nghiên cứu để nâng cao chất lượng, cải thiện tính chất
của
nhiên liệu sinh hoc, dần dần loại bỏ được các hạn chế và đưa nhiên liệu sinh học
vào sử dụng rộng rãi trên tất cả các phương tiện giao thông đường thủy và đường
bộ, để dần thay thế nhiên liệu truyền thống và không còn phụ thuộc quá nhiều và
nhiên liệu hóa thạch như ngày nay. Bằng chứng là ở Việt Nam hiện đã có rất nhiều
các công trình nghiên cứu, các nhà máy sản xuất được xây dựng để sản xuất nhiên
liệu sinh học (hình 1.1). Từ đó nâng cao được tầm quan trọng của nhiên liệu sinh
học trong đời sống, thân thiện với môi trường, giảm lượng phát thải, không gây
hiệu
ứng nhà kính. Vậy đề tài “Nghiên cứu sử dụng hỗn hợp nhiên liệu Bio-
oils/Biodiesel trên động cơ diesel tàu thủy cỡ nhỏ” là một trong những giải pháp
hữu hiệu đáp ứng được nhu cầu về nguồn nhiên liệu sinh học trong tương lai, giảm
thiểu lượng khí phát thải ra môi trường, thân thiện với môi trường không gây
hiệu
ứng nhà kính. Từ đó góp phần bổ sung vào nguồn dự trữ nhiên liệu sinh học, nâng
cao sự đa dạng của nhiên liệu sinh học trong tương lai.
21
CHƯƠNG 2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT
2.1. Tính chất của nhiên liệu
2.1.1. Tính chất của nhiên liệu diesel (DO)
Nhiên liệu dùng cho động cơ diesel cần phải đảm bảo các yêu cầu sau: Có
tính chất phù hợp với loại động cơ sử dụng; có nhiệt trị cao và hàm lượng khí
phát
thải độc hại nhỏ; có khả năng tái tạo; không gây ăn mòn và oxi hóa hệ thống
nhiên
liệu; dễ bảo quản và sử dụng, dễ kiếm và đảm bảo tính kinh tế.
Nhiên liệu hóa thạch dùng cho động cơ diesel là loại nhiên liệu thu được từ
quá trình chưng cất dầu mỏ, chủ yếu gồm nhiên liệu khí và nhiên liệu lỏng. Nhiên
liệu khí bao gồm các loại khí thiên nhiên như CNG, LPG, LNG…nhiên liệu khí
đang được nghiên cứu nhằm sử dụng rộng rãi trên động cơ diesel. Nhiên liệu lỏng
gồm các loại như xăng, dầu diesel là loại nhiên liệu dùng chủ yếu cho động cơ
diesel và các loại động cơ đốt trong khác.
Thành phần chưng cất: Đặc trưng tính dễ bay hơi của nhiên liệu và ảnh
hưởng đến sự dễ dàng khởi động động cơ. Các thành phần nhẹ có trong nhiện liệu
bay hơi hết ở 200
o
C làm tốt tính bay hơi của nhiên liệu, nhưng có thể gây ra độ
cứng làm việc lớn cho Diesel. Sự có mặt của các thành phần nặng bay hơi hết ở
nhiệt độ cao hơn 350
0
C làm xấu sự hình thành hỗn hợp dẫn đến nhiên liệu cháy
không hết, gây ra khói đen cho động cơ và tăng sự tạo muội, tro, xỉ.
Độ nhớt là tính chất của nhiên liệu gây ra sức cản chuyển động của các thành
phần nhiên liệu dưới tác động của ngoại lực. Độ nhớt là một trong các chỉ số
chính
của nhiên liệu xác định tính chất phun sương của nó trong buồng đốt của động cơ
Diesel. Mác của nhiên liệu được đặc trưng bởi độ nhớt động hình học hoặc bởi độ
nhớt quy ước. Đơn vị của độ nhớt động hình học là mm
2
/s (nước cất ở 293
0
K có độ
nhớt là 1 mm
2
/s). Khi nhiệt độ tăng độ nhớt của nhiên liệu sẽ giảm, vì vậy phải luôn
chỉ rõ độ nhớt của nhiên liệu xác định ở một nhiệt độ cụ thể.
Độ nhớt càng nhỏ đường kính hạt khi phun càng giảm, hoàn thiện sự tạo hỗn
hợp và sự cháy tiếp theo đó. Nhưng độ nhớt quá thấp làm xấu khả năng bôi trơn
của
22
nhiên liệu, dẫn đến nâng cao độ mòn của thiết bị nhiên liệu và rò lọt nhiên liệu
qua
các chỗ mối ghép không kín.
Khi tăng độ nhớt sức cản chuyển động của nhiên liệu tăng lên, độ mịn, phun
sương bị xấu đi và hậu quả là xuất hiện sự cháy không ổn định, cháy không hết,
xuất hiện khói đen và tăng tiêu hao nhiên liệu. Thiết bị nhiên liệu của động cơ
Diesel khi thiết kế và chế tạo có tính đến độ nhớt xác định của nhiên liệu, khi
sử
dụng các mác nhiên liệu có độ nhớt khác so với tính toán, sẽ không tránh khỏi sự
phá hủy việc tạo hỗn hợp bình thường.
Thời gian giữ chậm sự tự cháy: Đặc trưng độ tin cậy tự cháy của nhiên liệu
phụ thuộc vào thành phần hóa học nhóm và thành phần chưng cất là chỉ tiêu khai
thác quan trọng nhất của nhiên liệu. Tính tự bốc cháy được đánh giá bằng đại
lượng
chỉ số xêtan. Chỉ số cetan là chỉ số tính bốc cháy của nhiên liệu Diesel bằng
hàm
lượng % theo thể tích của hiđrô – cac bon xê tan trong hỗn hợp với
alafmetilnaftalin, mà khi đó các giai đoạn duy trì cháy của hỗn hợp này và của
nhiên liệu được thử như nhau. Giai đoạn duy trì cháy phải đo bằng thời gian từ
thời
điểm đạt được nhiệt độ tự bốc cháy nhiên liệu đến thời điểm bốc cháy hỗn hợp của
nhiên liệu với không khí. Chỉ số cetan của nhiên liệu nặng ở động cơ Diesel
trung
bình khoảng 25 đơn vị, của nhiên liệu Diesel chưng cất là 50 đơn vị.
Nhiệt độ vẩn đục và nhiệt độ đông đặc, đặc trưng tính lưu động của nhiên
liệu ở các nhiệt độ thấp.
Khi nhiệt độ giảm lớn, nhiên liệu mất tính lưu động của mình do tăng độ
nhớt và lắng các tinh thể Paraphil, sự lưu thông trong các ống dẫn bị đình trệ
và
động cơ không có khả năng làm việc nữa.
Có thể giảm độ đông đặc của nhiên liệu bằng cách pha vào nó các phụ gia
chống đông, ví dụ dầu hỏa thông thường. Các chất phụ gia gọi là các liên kết hóa
học được thêm vào nhiên liệu để cải thiệt tốt tính chất của nhiên liệu. Các chất
phụ
gia tạo ra khả năng giảm sự tạo muội, cải thiện tốt quá trình cháy của nhiên
liệu,
trung hòa các sản phẩm cháy, tăng khả năng của nhiên liệu chống lại ôxy hóa khi
23
bảo quản …. Thông thường nhiên liệu Diesel được thêm vào chất phụ gia đa năng
có khả năng cải thiện đồng thời một số tính chất của nhiên liệu.
Sự vẩn đục của nhiên liệu xảy ra trước sự đông đặc do sự xuất hiện của các
hạt nước nhỏ li ti, các tinh thể nước đá Benzen hay Paraphil, chúng gây tắc các
bầu
lọc nhiên liệu.
Các tạp chất cơ học và nước: Làm giảm đáng kể chất lượng nhiên liệu và sự
tồn tại của chúng trong nhiên liệu cho các Diesel cao tốc là không cho phép.
Các tạp chất cơ học gây ra tăng mài mòn thiết bị nhiên liệu dẫn đến tắc vòi
phun, kẹt kim phun và các piston bơm cao áp.
Nước lọt vào nhiên liệu làm giảm nhiệt độ của nhiên liệu, gây ra ăn mòn các
thiết bị nhiên liệu, gây khó khăn hay thậm chí không khởi động được động cơ
Diesel.
Xu hướng tạo tro và hình thành cặn lắng của nhiên liệu ở mức độ được biết,
được giải thích bằng sự tồn tại trong nhiên liệu các hắc ín, sơn đó là các sản
phẩm
phức tạp của oxi hóa và polime hóa cácbonhiđrô. Hàm lượng của chúng dao động
trong các giới hạn từ 20 120 mg trên 100ml nhiên liệu. Hàm lượng hắc ín tăng
với
các thành phần lắng tro xỉ được tạo ra khi cháy bám trên các đầu vòi phun, các
bề
mặt xilanh và piston, trên các xupap và ống thải, còn cặn lắng ở dạng đặc sệt
màu
đen được tích tụ trong các thùng nhiên liệu, các phin lọc và ống dẫn của nhiên
liệu
cho các động cơ Diesel không được vượt 5mg KOH trên 100ml nhiên liệu.
Tính axít của nhiên liệu: Là do có lượng axít giới hạn trong nó, chúng làm
cho nhiên liệu có hoạt tính ăn mòn. Độ axít cao gây ra sự ăn mòn nhanh thiết bị
nhiên liệu, ăn mòn các bề mặt trong các két nhiên liệu và các đường ống dẫn.
Tính
axít của nhiên liệu cho các động cơ Diesel không được vượt quá 5mg KOH trên 100
ml nhiên liệu.
Nhiệt độ bắt lửa: Đặc trưng cho nhiên liệu về phương diện phòng hỏa, các
yêu cầu cao nhất về phòng hỏa đặt ra cho nhiên liệu các động cơ Diesel tàu
chiến, vì
chúng làm việc trong không gian chật hẹp và kín với nhiệt độ không khí cao.
24
Độ tro của nhiên liệu cho các động cơ Diesel cao tốc không được vượt quá
0,025%. Độ tro tăng với sự tăng thành phần nặng của nhiên liệu. Độ tro cao dẫn
đến
phát sinh mài mòn nhóm piston, xilanh, kẹt, tắc các đầu vòi phun; còn Vanađi và
Natri có trong tro gây ăn mòn các chi tiết trong động cơ.
Khả năng cốc hóa: Là chỉ tiêu gián tiếp của xu hướng tạo tro, xỉ của nhiên
liệu. đối với các nhiên liệu chưng cất nó không lớn hơn 0,05-0,10%.
Sức căng bề mặt: Là lực căng trên một đơn vị chiều dài cắt ngang bề mặt.
Khi sức căng bề mặt của nhiên liệu lớn, sự phun sương sẽ kém do đó ảnh hưởng xấu
đến chất lượng quá trình cháy của động cơ. Sức căng bề mặt tỉ lệ thuận với độ
nhớt,
khối lượng riêng và tỉ lệ nghịch với nhiệt độ.
Lưu huỳnh và các liên kết sunfua: Là những cấu thành có hại nhất của nhiên
liệu bởi vì các sản phẩm cháy các liên kết sunfua dễ kết hợp với hơi nước tạo
thành
các axit gây ra ăn mòn mạnh và gia tăng tạo tro, xỉ trong động cơ khi đó xuất
hiện
cả sự ăn mòn của chất khí lẫn ăn mòn chất lỏng (điện hóa).
Tính bay hơi của nhiên liệu quyết định một phần quan trọng của quá trình
cháy của nhiên liệu trong động cơ. Tính chất bay hơi quyết định đến tốc độ bay
hơi,
mức độ bay hơi hoàn toàn và khả năng hòa trộn với không khí khi phun nhiên liệu
vào buồng đốt của động cơ diesel. Việc sử dụng nhiên liệu có tính bay hơi kém sẽ
làm xuất hiện hiện tượng cháy không hoàn toàn, làm lãng phí nhiên liệu và giảm
hiệu suất. Các yếu tố ảnh hưởng tới tính bay hơi: Độ nhớt, khối lượng riêng, sức
căng bề mặt và nhiệt độ môi trường.
Theo TCCS 03:2009/PETROLIMEX hay QCVN 1:2009/BKHCN hoặc
ASTM D975, nhiên liệu diesel dùng cho động cơ diesel phải thỏa mãn các yêu cầu
như (Bảng 2.1):
Bảng 2.1. Tiêu chuẩn đối với nhiên liệu diesel hóa thạch
STT
Thành phần
Phương
pháp thử
TCCS
03:2009
ASTM
D975
1
Điểm chớp cháy,
0
C, nhỏ nhất
D93
55
52
2
Hàm lượng nước và lắng cặn, % thể tích,
D2709
-
0,05
25
lớn nhất
3
Độ nhớt động học ở 40
0
C, mm
2
/s
D445
2,0-4,5
1,3-4,1
4
Hàm lượng lưu huỳnh, % khối lượng, lớn
nhất
D5453
0,05
0,05
5
Hàm lượng tro, % khối lượng, lớn nhất
D482
0,01
0,01
6
Hàm lượng hợp chất thơm, % thể tích, lớn
nhất
D1319
-
35
7
Số cetan, nhỏ nhất
D613
46
40
8
Ăn mòn tấm đồng trong 3 giờ ở 50
0
C
D130
Loại 1
Loại 1
9
Nhiệt độ cất tại 90% thể tích,
0
C
D1160
370
282-338
2.1.2. Tính chất của nhiên liệu thay thế Bio-oils/Biodiesel
Dầu sinh học gốc là nhiên liệu bao gồm dầu thực vật hoặc mỡ động vật thu
được từ quá trình tinh chế dầu mỡ, có thành phần chính là axit béo mạch dài (xem
hình 2.1), chưa pha trộn với các loại nhiên liệu khác để sử dụng làm nhiên liệu
cho
động cơ diesel, ký hiệu là VO100 (chữ V chỉ tên loại dầu thực vật) hay AF100
(chữ
A chỉ tên loại mỡ động vật).
Hình 2-1. Cấu trúc phân tử của dầu sinh học gốc
Dầu sinh học gốc là các phân tử chất béo trung tính, không tan trong nước,
chứa ba chuỗi hydrocarbon liên kết với một gốc glixerol nên có khối lượng riêng
lớn và độ nhớt cao. Dầu sinh học gốc có thể là các loại dầu có nguồn gốc thực
vật
gồm loại ăn được (dầu mè, dầu đậu lành, dầu dừa…) hoặc không ăn được ( dầu hạt
bông, dầu jatropha, dầu hạt cao su…) và mỡ động vật.
Thành phần hóa học chính của dầu sinh học gốc là este của glixerol với các
axit béo bão hòa (palmitic (16: 0) và stearic (18: 0) là hai loại axit béo bão
hòa
26
thường gặp nhất) hay không bão hòa (oleic (18: 1) và linoleic (18: 2) là các
axit béo
không bão hòa phổ biến nhất). So với diesel sinh học gốc và nhiên liệu diesel
hóa
thạch, dầu sinh học gốc có khối lượng phân tử lớn hơn nhiều, công thức phân tử
của
dầu sinh học gốc có dạng C
27-57
H
54-104
O
6
. Tương tự như diesel sinh học gốc và khác
với nhiên liệu diesel, dầu sinh học gốc có chứa thành phần oxi trong phân tử,
chứa
rất ít lưu huỳnh và hợp chất thơm (xem bảng 2.3) nên diesel sinh học gốc và dầu
sinh học gốc ít gây hại đối với môi trường.
Diesel sinh học gốc được hiểu theo QCVN 1:2009/BKHCN là nhiên liệu thu
được thông qua quá trình este hóa với ankanol từ các nguyên liệu sinh học (dầu
thực
vật, mỡ động vật hoặc các sản phẩm khác), có thành phần chính là các mono-alkyl
este (thường là metyl este hoặc etyl este) của các axit béo mạch dài (hình 2.2),
chưa
pha trộn với các loại nhiên liệu khác để sử dụng làm nhiên liệu cho động cơ
diesel,
ký hiệu là B100.
Hình 2-2. Cấu trúc phân tử của diesel sinh học gốc
Diesel sinh học là sản phẩm thu được từ phản ứng este hóa dầu sinh học
theo phản ứng:
CH
2
- OCOR CH
2
- OH
CH
2
- OCOR + 3R’- OH 3R - COOR’ + CH
2
- OH
CH
2
- OCOR CH
2
- OH
Dầu sinh học (bio-oil) Ankanol Diesel sinh học (biodiesel) Glixerol
Sự khác biệt về cấu trúc và thành phần phân tử ảnh hưởng đến tính chất của
diesel sinh học gốc. Tính chất của diesel sinh học gốc được đặc trưng bởi độ
nhớt,
khối lượng riêng, sức căng bề mặt, số cetan, nhiệt độ đông đặc, điểm chớp cháy,
nhiệt trị và thành phần các nguyên tố, hàm lượng tro, hàm lượng lưu huỳnh, cặn
cacbon, độ axit…
Xúc tác
27
Phân tích hóa học cho thấy, công thức phân tử của diesel sinh học gốc có
dạng C
15-25
H
28-48
O
2
, do đó trong thành phần diesel sinh học gốc có chứa oxi, điều
này làm cho diesel sinh học gốc cháy sạch hơn nhiên liệu diesel. Tuy nhiên,
diesel
sinh học gốc chứa hàm lượng nitơ lớn và axit lớn hơn nhiên liệu diesel nên làm
tăng
phát thải NO
x
và gây ăn mòn. Tính chất và thành phần của diesel sinh học gốc được
cho trong (Bảng 2.3).
Độ nhớt, khối lượng riêng và sức căng bề mặt là thuộc tính quan trọng nhất
của diesel sinh học gốc vì nó ảnh hưởng đến hoạt động của thiết bị phun nhiên
liệu,
đặc biệt là ở nhiệt độ thấp khi đó độ nhớt, khối lượng riêng và sức căng bề mặt
cao
làm ảnh hưởng đến tính lưu động của nhiên liệu. Độ nhớt, khối lượng riêng và sức
căng bề mặt cao dẫn đến sự phun sương của nhiên liệu giảm và gây ra hoạt động
kém chính xác của kim phun nhiên liệu. Việc hạ thấp độ nhớt, khối lượng riêng và
sức căng bề mặt của diesel sinh học gốc sẽ dễ dàng tạo điều kiện thuận lợi cho
sự
phun sương (Islam et al., 2004). So với dầu sinh học gốc, diesel sinh học gốc có
khối lượng phân tử chỉ bằng một phần ba, khối lượng riêng giảm khoảng 4%, độ
nhớt giảm khoảng tám lần và sức căng bề mặt giảm khoảng 15%. Diesel sinh học
gốc có nguồn gốc từ mỡ động vật có độ nhớt, khối lượng riêng và sức căng bề mặt
cao hơn so với nguồn gốc từ dầu thực vật (Bảng 2.4).
Số cetan (CN) của diesel sinh học gốc là thước đo đánh giá chất lượng đánh
lửa của nhiên liệu, CN của diesel sinh học gốc nói chung là cao hơn so với nhiên
liệu diesel hóa thạch (Bảng 2.5), CN của diesel sinh học gốc có nguồn gốc từ mỡ
động vật cao hơn so với các loại có nguồn gốc từ dầu thực vật (Bala, 2005). Bên
cạnh đó, hai thông số quan trọng cho việc sử dụng diesel sinh học gốc ở nhiệt độ
thấp là điểm vẩn đục (CP) và điểm đông đặc (PP), diesel sinh học gốc có CP và PP
cao hơn so với nhiên liệu diesel hóa thạch (Prakash, 1998).
Hàm lượng oxy có trong diesel sinh học gốc làm cải thiện quá trình đốt cháy
do đó hiệu suất cháy của diesel sinh học gốc là cao hơn so với nhiên liệu
diesel.
Nhiệt trị của diesel sinh học gốc là tương đối cao khoảng 37 - 41 MJ/kg. Như
vậy,
những lợi thế của việc sử dụng diesel sinh học làm nhiên liệu diesel là tính sẵn
có,
28
khả năng tái sinh, hiệu suất cháy cao, hàm lượng lưu huỳnh và hợp chất thơm thấp
(Ma và Hanna, 1999;. Knothe et al, 2006), số cetan cao và có khả năng phân hủy
sinh học (Mudge và Pereira, 1999; Speidal et al, 2000; Zhang et al, 2003), điểm
chớp cháy cao và có tính bôi trơn tốt (Mittelbach và Remschmidt, 2004; Knothe et
al. , 2005).
Tuy nhiên, diesel sinh học gốc cũng tồn tại một số nhược điểm so với nhiên
liệu diesel như dễ bị vi khuẩn phân huỷ do có nguồn gốc từ dầu thực vật và mỡ
động vật, giá thành cao, làm hỏng các bộ phận bằng cao su của hệ thống nhiên
liệu
(một số nghiên cứu đã tìm ra loại cao su tổng hợp FKM- GBL-S và FKM- GF-S để
thay thế cho các chi tiết làm bằng cao su thông thường) và có khả năng xảy ra
phản
ứng với một số loại vật liệu kim loại do trong thành phần có chứa một lượng nhỏ
axit tự do (Ayhan Demirbas, 2007;Gerhard Knothe et al. , 2005).
Hiện nay, QCVN 1:2009/BKHCN hoặc ASTM D6751 đã đưa ra các tiêu
chuẩn đối với diesel sinh học gốc dùng trực tiếp cho động cơ diesel (Bảng 2.2).
Bảng 2.2. Tiêu chuẩn đối với diesel sinh học gốc B100
STT
Thành phần
Phương
pháp thử
QCVN
01:2009
ASTM
D6751
1
Điểm chớp cháy,
0
C, nhỏ nhất
D93
-
130
2
Hàm lượng nước và lắng cặn, % thể
tích lớn nhất
D2709
0,05
0,05
3
Độ nhớt động học ở 40
0
C, mm
2
/s
D445
1,9-6,0
1,9-6,0
4
Hàm lượng lưu huỳnh, % khối
lượng, lớn nhất
D5453
0,05
0,05
5
Hàm lượng tro, % khối lượng, lớn
nhất
D482
0,02
0,01
6
Số cetan, nhỏ nhất
D613
47
47
29
Bảng 2.3. Thành phần hóa học của dầu sinh học gốc, diesel sinh học gốc và
nhiên liệu diesel D2
TT
Thành phần hóa học
Dầu sinh
học gốc
Diesel sinh
học gốc
Nhiên liệu
diesel D2
1
Hàm lượng cacbon, %kl
73-77,6
75-77
83,5-87
2
Hàm lượng hidro, %kl
11,6-12,3
11,6-12,5
11,5-14
3
Hàm lượng oxi, %kl
10,8-12,5
10,75-11,82
0
4
Hàm lượng lưu huỳnh, %kl
0,006-0,02
0,006-0,02
0,02-0,05
5
Hàm lượng nitơ, %kl
0,002-0,007
0,002-0,007
0,0001-0,0003
6
Hàm lượng hợp chất thơm,
%tt
0
0
28-38
7
Chỉ số Iốt
70-157
65-156
0
8
Hàm lượng tro, %
0,002-0,03
0,002-0,036
0,006-0,01
Tính chất vật lý của dầu sinh học gốc có ảnh hưởng nhiều đến chất lượng quá
trình cháy, các tính chất này được đặc trưng bởi các thông số:
- Khối lượng riêng, độ nhớt và sức căng bề mặt là một thuộc tính quan trọng
của dầu sinh học gốc (xem bảng 2.4). Bộ ba thông số này ảnh hưởng đến độ lớn lực
liên kết phân tử Van der Waals (Pauling 1988). Việc tăng chiều dài chuỗi cacbon
làm tăng khối lượng phân tử, do đó tăng độ lớn lực Van der Waals nên cũng làm
tăng độ nhớt và ngược lại. Các tính chất này quyết định lớn đến chất lượng phun
sương của nhiên liệu, chúng đều có mối quan hệ tỉ lệ nghịch với nhiệt độ. Việc
sử
dụng trực tiếp dầu sinh học gốc làm nhiên liệu thay thế cho động cơ diesel nhất
thiết
phải tính đến việc cải thiện các thông số trên nhằm đảm bảo nó nằm trong phạm vi
cho phép và gần với giá trị của nhiên liệu diesel truyền thống.
Điểm chớp cháy, điểm vẩn đục và điểm đông đặc (xem bảng 2.4 và 2.5) của
dâu sinh học gốc khá cao, cao hơn diesel sinh học gốc và nhiên liệu diesel
truyền
thống. Vì lý do này, dầu sinh học gốc gần như không có khả năng làm việc ở nhiệt
độ thấp do mất tính lưu động của loại nhiên liệu lỏng.