Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Tác động của những đặc tính công ty đến quản trị vốn luân chuyển ở các công ty phi tài chính niêm yết tại Việt Nam
2,418
447
96
1
CHƯƠNG 1
GIỚI THIỆU
Nền kinh tế thế giới đang biến động không ngừng. Trong giai đoạn phát triển bùng
nổ về
khoa học kỹ thuật cùng với cạnh tranh toàn cầu ngày càng khốc liệt như hiện nay
thì việc
tổ chức, quản lý hoạt động của công ty sao cho hiệu quả càng là thách thức lớn
đối với
các nhà quản trị. Ngoài những quyết định tài chính mang tính dài hạn luôn là mối
quan
tâm của các nhà quản trị như ngân sách vốn và cấu trúc vốn thì việc quản trị tài
chính
ngắn hạn cụ thể là quản trị vốn luân chuyển cũng đóng vai trò quan trọng cho sự
tồn tại và
phát triển của một công ty.
Thật vậy, khi kinh tế suy thoái khiến các công ty phải đối mặt với những biến
động thị
trường, chẳng hạn như chi phí tăng cao và tín dụng hạn chế hơn từ các ngân hàng,
từ đó
đẩy các công ty đến rủi ro cao hơn. Trước những thách thức này thì vấn đề đặt ra
là cần
tìm cách khác để kiếm tiền, duy trì dòng tiền hoạt động. Vì vậy, các công ty
phải tập trung
cải thiện và tối ưu hóa hoạt động từ chính nội lực của bản thân cụ thể như quản
trị vốn
luân chuyển hiệu quả để giải phóng vốn (Rimo và Panbunyuen, 2010). Thông qua
thước
đo tiêu biểu là chu kỳ chuyển đổi tiền mặt, quản trị vốn luân chuyển hợp lý,
hiệu quả sẽ
tác động tích cực đến khả năng thanh toán bằng tiền mặt và khả năng sinh lợi của
công ty.
Và một điều cần lưu ý rằng ngay cả khi một công ty có tiềm lực phát triển với
các cơ hội
đầu tư có khả năng sinh lợi cao nhưng lại quản trị vốn luân chuyển kém cỏi, mất
khả năng
thanh toán, không thực hiện được các nghĩa vụ nợ ngắn hạn thì công ty đó vẫn có
thể thất
bại. Vì vậy nghiên cứu về quản trị vốn luân chuyển trở thành một vấn đề hấp dẫn
và cần
thiết trong nghiên cứu về tài chính và kinh tế.
Phần lớn những nghiên cứu thực nghiệm về quản trị vốn luân chuyển trước đây trên
thế
giới thường tập trung nghiên cứu tác động của quản trị vốn luân chuyển đến khả
năng
sinh lợi của công ty (Jose và cộng sự, 1996; Shin và Soenen, 1998; Deloof, 2003;
Lazaridis và Tryfonidis, 2006; Mathuva, 2010…). Thấy được tầm quan trọng của
quản trị
vốn luân chuyển, một số bài nghiên cứu gần đây đã quan tâm hơn đến việc phân
tích ảnh
2
hưởng của các nhân tố khác đối với quản trị vốn luân chuyển, chẳng hạn như Rimo
và
Panbunyuen (2010), Valipour và cộng sự (2012). Các kết quả nghiên cứu này đã
cung cấp
bằng chứng về một số những nhân tố có tác động đến quản trị vốn luân chuyển là
khả
năng sinh lợi, dòng tiền hoạt động, quy mô công ty, tốc độ tăng trưởng doanh thu
và tỷ lệ
nợ. Những bài nghiên cứu đó muốn khẳng định rằng ngoài khả năng sinh lợi tác
động đến
quản trị vốn luân chuyển còn có các nhân tố khác chủ yếu là các nhân tố thuộc
những đặc
tính về tài chính của công ty. Đây là vấn đề đặt ra để tác giả thực hiện luận
văn của mình.
Như vậy:
Mục tiêu của luận văn: nghiên cứu tác động của những đặc tính công ty đến quản
trị vốn
luân chuyển.
Phạm vi nghiên cứu: các công ty phi tài chính niêm yết trên thị trường chứng
khoán Việt
Nam trong giai đoạn từ năm 2008 đến năm 2011.
Để đạt được mục tiêu, luận văn sẽ tập trung trả lời câu hỏi: Những đặc tính công
ty có
mối quan hệ như thế nào đến quản trị vốn luân chuyển? Và liệu yếu tố thời gian
và yếu tố
ngành có ảnh hưởng đáng kể đến việc quản trị vốn luân chuyển?
Luận văn được trình bày thành 5 chương, cụ thể như sau:
- Chương 1: Giới thiệu.
- Chương 2: Tổng quan về quản trị vốn luân chuyển và các nghiên cứu trước đây có
liên quan.
- Chương 3: Phương pháp nghiên cứu.
- Chương 4: Kết quả nghiên cứu.
- Chương 5: Kết luận và khuyến nghị.
3
CHƯƠNG 2
TỔNG QUAN VỀ QUẢN TRỊ VỐN LUÂN CHUYỂN
VÀ CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC ĐÂY CÓ LIÊN QUAN
Chương này trình bày tổng quan lý thuyết, các nghiên cứu trước đây về quản trị
vốn luân
chuyển và xây dựng các giả thiết. Nội dung chính của phần lý thuyết bàn luận về
chu kỳ
chuyển đổi tiền mặt được dùng làm thước đo trong việc quản trị vốn luân chuyển
mà tác
giả sử dụng trong toàn bài luận văn cũng như các thành phần của nó là số ngày
trung bình
khoản phải thu (AR), số ngày trung bình hàng tồn kho (INV) và số ngày trung bình
khoản
phải trả (AP). Trên cơ sở lý thuyết, tác giả tiếp tục trình bày một số kết quả
từ các nghiên
cứu thực nghiệm trước đây. Cuối cùng, chương này sẽ bàn về những đặc tính công
ty, ảnh
hưởng của chúng đến việc quản trị vốn luân chuyển dựa vào các nghiên cứu trước
đây và
từ đó phát triển thành các giả thiết sẽ được kiểm định trong nội dung chương 4.
2.1. Tổng quan về quản trị vốn luân chuyển
2.1.1. Quản trị vốn luân chuyển
2.1.1.1. Các khái niệm
Khái niệm quản trị vốn luân chuyển được biết đến nhiều hơn vì ngày càng nhiều
các nhà
quản trị bắt đầu nhận thấy những lợi ích từ việc quản trị tốt vốn luân chuyển.
Trước tiên,
cần nói về vốn luân chuyển. Maness và Zietlow định nghĩa vốn luân chuyển như
sau: “Đó
là chênh lệch giữa tài sản ngắn hạn và nợ ngắn hạn” (Maness và Zietlow, 2005).
Sau khi
tìm hiểu các nguồn tài liệu khác nhau về vốn luân chuyển, thì định nghĩa từ
Maness và
Zietlow được xem là tổng quát và được sử dụng phổ biến. Đây cũng là định nghĩa
mà tác
giả sẽ sử dụng khi đề cập đến vốn luân chuyển trong bài luận văn này. Tiếp theo
là khái
niệm quản trị vốn luân chuyển, Jeng-Ren và cộng sự cho rằng: “Đây là việc quản
trị
nguồn vốn trong ngắn hạn của các công ty” (Jeng-Ren và cộng sự, 2006). Nguồn vốn
ngắn hạn ở đây đề cập đến là tài sản ngắn hạn và nợ ngắn hạn. Theo đó, tác giả
sẽ sử dụng
định nghĩa của Jeng-Ren và cộng sự về quản trị vốn luân chuyển trong bài luận
văn này.
4
2.1.1.2. Quản trị vốn luân chuyển
Quản trị vốn luân chuyển liên quan đến việc các công ty quản trị nguồn vốn ngắn
hạn của
họ. Nguồn vốn ngắn hạn liên quan đến vốn mà những công ty sử dụng trong hoạt
động
hàng ngày và nguồn vốn này thể hiện qua tài sản ngắn hạn và nợ ngắn hạn của
những
công ty đó. Quản lý tốt vốn luân chuyển sẽ thúc đẩy công ty gia tăng khả năng
thanh toán
bằng tiền mặt, khả năng sinh lợi và giá trị của các cổ đông (Jeng-Ren và cộng
sự, 2006).
Tài sản ngắn hạn bao gồm vốn dưới dạng tiền mặt, những khoản đầu tư tài chính
ngắn
hạn, hàng tồn kho, các khoản phải thu và những tài sản ngắn hạn khác. Tài sản
ngắn hạn
có thể được định nghĩa là những tài sản sử dụng trong hoạt động hàng ngày của
công ty
nhằm mang lại cho công ty lượng tiền mặt trong khoảng thời gian không quá một
năm.
(Trần Ngọc Thơ và cộng sự, 2007).
Nợ ngắn hạn gồm có những khoản vay ngắn hạn, những khoản nợ phải trả nhà cung
cấp,
các khoản thuế phải nộp nhà nước và những khoản nợ ngắn hạn khác (Trần Ngọc Thơ
và
cộng sự, 2007). Nợ ngắn hạn giúp công ty huy động vốn từ bên ngoài và nó đặc
biệt quan
trọng đối với các công ty nhỏ thường gặp khó khăn trong việc vay mượn dài hạn
(Rimo
và Panbunyuen, 2010).
Quản trị vốn luân chuyển nhằm mục đích tạo dòng vốn hiệu quả cho các hoạt động
liên
quan đến tài sản ngắn hạn và nợ ngắn hạn. Hình 2.1. minh họa chi tiết về chu kỳ
vốn luân
chuyển và những mũi tên trong hình giải thích về hướng đi của dòng tiền trong
công ty
(Pass và Pike, 2007).
Hình bên dưới cho thấy, nhu cầu vốn luân chuyển bao gồm vốn huy động từ cổ đông
và
trái chủ. Công ty sử dụng nguồn vốn này dưới dạng tiền mặt để đầu tư vào nguyên
vật
liệu đáp ứng nhu cầu hoạt động sản xuất của mình. Nếu những nhà cung cấp đưa ra
chính
sách tín dụng, thì nguồn nguyên vật liệu đã mua được tài trợ ban đầu bởi nhà
cung cấp
cho đến khi công ty thanh toán. Những khoản tín dụng từ ngân hàng và nhà nước
cũng có
thể giúp công ty đáp ứng những khoản chi phí điều hành như chi phí nhân công và
chi phí
sản xuất chung (Pass và Pike, 2007).
5
Hình 2.1. Chu kỳ vốn luân chuyển.
Nguồn: Pass và Pike (2007).
Khi nguồn nguyên vật liệu đã mua được đưa vào quá trình sản xuất và tạo ra thành
phẩm,
mất một khoảng thời gian để những sản phẩm này được tiêu thụ và thu tiền. Lượng
tiền
mặt có được từ việc bán hàng được sử dụng để trả nợ, tài trợ cho các khoản đầu
tư mới và
chi trả cổ tức cho cổ đông. Từ đây, một chu kỳ mới lại tiếp tục (Pass và Pike,
2007).
2.1.1.3. Vốn luân chuyển dương và âm
Chênh lệch giữa tài sản ngắn hạn và nợ ngắn hạn hình thành nên vốn luân chuyển
và chỉ
tiêu này phản ánh việc những công ty mạnh có thể hoàn thành những cam kết trong
ngắn
hạn. Thật đáng khen cho các công ty nếu họ luôn kịp thời ứng phó được những tình
huống
Chi phí
nhân công
Chi phí
sản xuất chung
Thành phẩm
Nguyên vật
liệu
Nhà
cung cấp
Tín dụng từ
Ngân hàng và
Nhà nước
Nhân công
Cổ đông
Tiền
mặt
Người mắc nợ
Nhu cầu
vốn luân chuyển
Cổ đông
Trái chủ
6
tài chính cấp bách cả trong điều kiện thuận lợi và thậm chí là điều kiện xấu mà
trước đây
họ chưa có kinh nghiệm về kiệt quệ tài chính (Maness và Zietlow, 2005).
Những công ty với vốn luân chuyển dương nghĩa là có tài sản ngắn hạn nhiều hơn
nợ
ngắn hạn và có thể sử dụng phần thặng dư từ tài sản ngắn hạn để hoàn thành những
cam
kết về tài chính và nghĩa vụ đối với cổ đông. Phần chênh lệch dương này là một
yếu tố rất
quan trọng cho việc duy trì sự phát triển của bất kỳ một công ty nào (Rimo và
Panbunyuen, 2010). Mặt tích cực khi có vốn luân chuyển dương đã rõ ràng, nhưng
cũng
có vấn đề cần xem xét và thường xảy ra khi những công ty có mức độ vốn khá cao
nằm ở
những tài sản ngắn hạn. Số vốn bất động này không thể giúp công ty gia tăng giá
trị cũng
như thực hiện những dự án đầu tư mới tiềm năng nhằm mang lại thu nhập cao hơn
cho
công ty (Rimo và Panbunyuen, 2010).
Ngược lại, nếu nợ ngắn hạn vượt quá tài sản ngắn hạn, thì vốn luân chuyển sẽ âm.
Điều
này có nghĩa là công ty đó không đủ vốn để trang trải cho những khoản nợ ngắn
hạn. Đa
số các công ty sẽ rơi vào tình trạng khó khăn khi vốn luân chuyển bị âm và đây
là lúc mà
những công ty có tiềm lực trong tương lai vẫn có thể sẽ phá sản nếu họ không
tích cực
quản lý vốn luân chuyển một cách hiệu quả. Khả năng sinh lợi cao nhưng không đủ
để
khiến công ty thành công bởi vì quản lý tốt vốn luân chuyển cũng rất quan trọng.
Một
cách để tránh tình trạng phá sản trong những tình huống ngặt nghèo này là các
công ty có
thể vay mượn thêm hoặc bán bớt tài sản ngắn hạn để có nguồn trang trải (Maness
và
Zietlow, 2005).
Nhằm tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình đánh giá việc quản trị vốn luân
chuyển, các
nhà quản trị sử dụng nhiều chỉ tiêu khác nhau để đo lường, đánh giá. Một trong
những chỉ
tiêu được sử dụng phổ biến hiện nay là chu kỳ chuyển đổi tiền mặt (CCC) và đây
là thước
đo mà tác giả chọn sử dụng trong bài nghiên cứu này. Những nội dung tiếp theo sẽ
đề cập
đến những thước đo quản trị vốn luân chuyển có thể dùng bao gồm cả chu kỳ chuyển
đổi
tiền mặt.
2.1.2. Đánh giá quản trị vốn luân chuyển
7
Có ba khái niệm khác nhau được dùng làm thước đo để đánh giá việc quản trị vốn
luân
chuyển mà các công ty có thể lựa chọn dựa vào chính sách vốn luân chuyển của họ.
Ba
khái niệm đó là khả năng thanh toán (solvency), khả năng thanh toán bằng tiền
mặt
(liquidity) và khả năng linh hoạt tài chính (financial flexibility), tất cả
chúng bị tác động
bởi việc các công ty lựa chọn thực hiện những chính sách về vốn luân chuyển.
Cụ thể như, một công ty có khả năng thanh toán sẽ có nhiều tài sản ngắn hạn hơn
nợ ngắn
hạn. Hai thước đo tiêu biểu về khả năng thanh toán là tỷ lệ thanh toán hiện thời
và vốn
luân chuyển đo lường mối quan hệ giữa tài sản ngắn hạn và nợ ngắn hạn để đánh
giá khả
năng công ty thanh toán các khoản nợ ngắn hạn. Ở đây, vốn luân chuyển được định
nghĩa
là “chênh lệch giữa tài sản ngắn hạn và nợ ngắn hạn”, nó là thước đo mang tính
tuyệt đối
phản ánh các công ty thực hiện những cam kết ngắn hạn tốt như thế nào. Bởi vì
đây là
thước đo tuyệt đối, nên sẽ không phù hợp khi dùng nó để so sánh giữa các công ty
có quy
mô khác nhau. Maness và Zietlow đồng tình với nhận định của Shulman và Cox về
hạn
chế này của vốn luân chuyển. Đây là thước đo không hiệu quả khi kết hợp tài sản
ngắn
hạn và nợ ngắn hạn với những chiến lược tài chính và hoạt động. Shulman và Cox
cho
rằng việc kết hợp chiến lược tài chính và hoạt động sẽ khiến thước đo này tạo
nên bức
tranh không hoàn toàn đúng về khả năng thanh toán bằng tiền mặt của công ty. Để
khắc
phục điều này, Shulman và Cox đã tách biệt chiến lược hoạt động và chiến lược
tài chính
thành hai khái niệm mới, đó là khả năng thanh toán bằng tiền mặt và khả năng
linh hoạt
tài chính. Theo cách này, việc đo lường mang lại giá trị hợp lý hơn (Maness và
Zietlow,
2005).
Thước đo về khả năng thanh toán bằng tiền mặt thường là dòng tiền hoạt động, khả
năng
chuyển đổi tiền mặt và chu kỳ chuyển đổi tiền mặt. Thước đo đầu tiên, dòng tiền
hoạt
động là chỉ tiêu được tính toán và lấy từ báo cáo lưu chuyển tiền tệ của công
ty. Thước đo
này hiệu quả khi so sánh nhiều năm hơn là chỉ một năm. Bởi vì kết quả một năm có
thể
gây hiểu lầm về những biến động có thể xảy ra trên thị trường hoặc những tình
huống bất
thường phản ánh qua thước đo này. Ví dụ, những biến động của thị trường và những
công
ty mới thành lập có dòng tiền hoạt động âm trong một hoặc hai năm tuy nhiên
trong tình
8
huống này, dòng tiền âm không phải là dấu hiệu quá báo động bởi vì công ty có
thể kỳ
vọng việc phục hồi trở lại trong tương lai gần. Thước đo thứ hai, khả năng
chuyển đổi tiền
mặt, là phân số giữa dòng tiền hoạt động và doanh thu. Thước đo này cung cấp một
tỷ lệ
phần trăm cho thấy công ty quản lý việc chuyển từ doanh thu thành tiền nhanh như
thế
nào. Tỷ lệ phần trăm cao cho thấy cách quản lý hiệu quả tương đương với chu kỳ
chuyển
đổi tiền mặt ngắn, là điều đáng khích lệ. Tiếp tục với chu kỳ chuyển đổi tiền
mặt, đây là
thước đo liên quan đến số ngày trung bình của dòng vốn, nằm trong vốn luân
chuyển,
chuyển thành tiền mặt trong một chu kỳ kinh doanh (Maness và Zietlow, 2005). Một
trong những ưu điểm của thước đo này là sự khác biệt so với thước đo đầu tiên,
dòng tiền
hoạt động thì phức tạp, mất thời gian trong việc tính toán. Lợi thế này sẽ cung
cấp cho
nhà quản lý một thước đo về khả năng thanh toán bằng tiền mặt hữu ích và hoàn
thiện hơn
bởi vì họ biết được nguồn vốn ngắn hạn được quản lý hiệu quả như thế nào (Rimo
và
Panbunyuen, 2010). Chu kỳ chuyển đổi tiền mặt bao gồm các thành phần như: số
ngày
trung bình hàng tồn kho, số ngày trung bình khoản phải thu và số ngày trung bình
khoản
phải trả. Chu kỳ chuyển đổi tiền mặt ngắn là kỳ vọng của các công ty bởi nó cho
thấy việc
quản trị vốn luân chuyển hiệu quả. Hiện nay, chu kỳ chuyển đổi tiền mặt được sử
dụng rất
phổ biến để đánh giá trong việc quản trị vốn luân chuyển (Maness và Zietlow,
2005).
Khái niệm thứ ba cũng là khái niệm cuối cùng đó là khả năng linh hoạt tài chính
sẽ cho
thấy cách mà công ty vận dụng chính sách tài chính trước khả năng hiện tại để
tăng
trưởng. Thước đo về khả năng này nhằm quyết định sự phát triển của công ty được
gọi là
tỷ lệ tăng trưởng bền vững (sustainable growth rate) và cụ thể là tích của tỷ lệ
lợi nhuận
giữ lại và thu nhập trên vốn cổ phần. Tỷ lệ tăng trưởng bền vững quyết định khả
năng
công ty phát triển và thực hiện đầu tư mà không cần quá quan tâm đến vấn đề khả
năng
thanh toán bằng tiền mặt. Sức mạnh của thước đo tỷ lệ tăng trưởng bền vững là
chỉ ra mối
quan hệ giữa lợi nhuận và tăng trưởng, cách mà chúng tác động lẫn nhau (Maness
và
Zietlow, 2005).
9
Tất cả những chỉ tiêu nêu trên nhằm đánh giá việc quản trị vốn luân chuyển theo
một cách
nào đó và trong bài nghiên cứu này, tác giả chọn việc sử dụng chu kỳ chuyển đổi
tiền mặt
như một thước đo đối với quản trị vốn luân chuyển.
2.1.2.1. Chu kỳ chuyển đổi tiền mặt
Theo Jose và cộng sự (1996), khái niệm “chu kỳ chuyển đổi tiền mặt” lần đầu được
giới
thiệu bởi Gitman (1974) được xem là một chỉ tiêu linh hoạt hơn về khả năng thanh
toán
so với các chỉ tiêu truyền thống, thụ động được sử dụng phổ biến trước đó như tỷ
số thanh
toán hiện thời, vốn luân chuyển. Chu kỳ chuyển đổi tiền mặt thể hiện khoảng thời
gian từ
lúc chi tiền mua nguyên vật liệu từ nhà cung cấp cho đến khi thu tiền tiêu thụ
sản phẩm từ
khách hàng. Gitman cho rằng, chu kỳ chuyển đổi tiền mặt là chỉ tiêu linh hoạt, ý
nghĩa
hơn các chỉ tiêu trước đây vì nó đứng trên quan điểm về dòng tiền thông qua việc
sử dụng
dữ liệu từ cả bảng cân đối kế toán và báo cáo hoạt động kinh doanh tạo nên một
thước đo
về thời gian. Nói cách khác, thước đo này dùng để đo lường tình hình về khả năng
thanh
toán bằng tiền mặt của công ty và vốn luân chuyển được quản lý hiệu quả như thế
nào
(Deloof, 2003). Kết quả cho thấy số ngày trung bình mà nguồn vốn nằm trong vốn
luân
chuyển chuyển thành tiền mặt trong một chu kỳ kinh doanh (Rimo và Panbunyuen,
2010).
Hình 2.2. đưa ra minh họa về chu kỳ chuyển đổi tiền mặt với mối quan hệ giữa các
thành
phần của nó bao gồm số ngày trung bình hàng tồn kho, số ngày trung bình khoản
phải thu
và số ngày trung bình khoản phải trả trong một chu kỳ kinh doanh.
Chu kỳ kinh doanh
Chu kỳ chuyển đổi
tiền mặt
Thời
gian
Hàng tồn kho mua
Tiền mặt
nhận được
Số ngày trung bình
hàng tồn kho
Hàng tồn kho bán
Số ngày trung bình
khoản phải thu
Số ngày trung bình
khoản phải trả
10
Hình 2.2. Chu kỳ kinh doanh
Nguồn: Ross và cộng sự, 2003.
Như đã thấy ở hình 2.2., chu kỳ chuyển đổi tiền mặt được quyết định bởi số ngày
trung
bình hàng tồn kho và số ngày trung bình khoản phải thu, tất cả đem trừ số ngày
trung bình
khoản phải trả.
Chu kỳ chuyển đổi tiền mặt càng nhỏ với số ngày trung bình thấp thậm chí âm thì
rất có
lợi để tạo ra lợi nhuận vì nhu cầu tài trợ từ bên ngoài sẽ giảm (Moss và Stine,
1993).
2.1.2.2. Số ngày trung bình hàng tồn kho
Số ngày trung bình hàng tồn kho đại diện cho thời gian mà hàng tồn kho của công
ty được
lưu giữ trước khi được bán. Để giúp rút ngắn chu kỳ chuyển đổi tiền mặt, số ngày
trung
bình hàng tồn kho này càng ngắn càng tốt. Số ngày trung bình hàng tồn kho được
tính
bằng cách lấy tổng hàng tồn kho đầu và cuối năm chi 2, sẽ nhận được giá trị
trung bình.
Sau đó, lấy giá trị trung bình hàng tồn kho đem chia cho giá vốn hàng bán. Để có
được
kết quả theo số ngày, giá trị vừa tính phải được nhân với số ngày trung bình 1
năm là 365
ngày (Rimo và Panbunyuen, 2010)
Deloof (2003) nhận thấy có mối quan hệ nghịch biến có ý nghĩa thống kê giữa số
ngày
hàng tồn kho và lợi nhuận gộp từ hoạt động (gross operating income), như thước
đo của
khả năng sinh lợi. Điều này giải thích rằng sự gia tăng số ngày lưu kho của hàng
phản ảnh
qua việc giảm doanh thu dẫn đến lợi nhuận công ty giảm. Một nghiên cứu khác bởi
Boisjoly (2009) nhận thấy việc gia tăng số vòng quay hàng tồn kho trong giai
đoạn 15
năm chỉ rõ rằng công ty ngày càng cải thiện việc quản lý hàng tồn kho. Để quản
lý hàng
tồn kho, có nhiều cách được áp dụng tùy vào tình hình thực tế của các công ty
như : mô
hình quản lý hàng tồn kho hiệu quả (EOQ), xác định mức tồn kho tối ưu nhằm cân
đối chi
Hàng tồn kho trung bình
Giá vốn hàng bán
Số ngày trung bình hàng tồn kho
=
x 365