Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Mức độ tham gia của cộng đồng dân cư trong xây dựng nông thôn mới tại huyện Cờ Đỏ thành phố Cần Thơ
4,087
561
101
53
Bảng 4.20: Sự tham gia của cộng đồng dân cư trong tiêu chí điện
Tần số Tỷ lệ (%)
Mức độ tham gia
Không tham gia 76 63,33
Tham gia thấp 19 15,83
Tham gia trung bình 12 10,00
Tham gia cao 12 10,00
Tham gia rất cao 1 0,84
Tổng 120 100
Hình thức tham gia
Cung cấp thông tin 11 9,17
Chia sẻ trách nhiệm 19 15,83
Đóng góp ngày công 3 2,50
Đóng góp tiền 21 17,50
Hiến đất 10 8,33
Khác 7 5,83
Tổng 71
Nguồn: Kết quả khảo sát, 2015
Ở tiêu chí điện, người dân tham gia với hình thức chia sẻ trách nhiệm, đóng
góp tiền, cung cấp thông tin và hiến đất là chủ yếu với tỷ lệ lần lượt là 15,83%
(tương đương 19 trên 44 hộ tham gia) của hình thức chia sẻ trách nhiệm, 17,5%
(tương đương 21 trên 44 hộ tham gia) của hình thức góp tiền, 9,17% (tương
đương 11 trên 44 hộ tham gia) của hình thức cung cấp thông tin và 8,33%
(tương đương 10 trên 44 hộ tham gia) của hình thức hiến đất. Các hình thức
khác rất ít được tham gia do tiêu chí này cũng đòi hỏi cao về mặt kỹ thuật mà
người dân không đáp ứng được.
Việc hộ dân cư ít tham gia vào tiêu chí này nhưng đa phần các xã đều đạt ở
tiêu chí này cũng hoàn toàn hợp lý do hệ thống các công trình đảm bảo cung cấp
điện đã được nhà nước đầu tư trước khi bắt đầu triển khai chương trình MTQG
xây dựng nông thôn mới, vì nó là một trong những nhu cầu thiết yếu cấp thiết để
phục vụ sinh hoạt và sản xuất cho người dân.
54
4.3.2.5Tiêu chí nhà ở
Đối với tiêu chí nhà ở dân cư, thì trên địa bàn không còn hộ gia đình ở
trong nhà tạm, nhà dột nát, đạt mức quy định tối thiểu của vùng (địa bàn Cần
Thơ là 70%) về tỷ lệ hộ gia đình có nhà ở đạt tiêu chuẩn của Bộ Xây dựng. Kết
quả khảo sát trong bảng 4.13 chỉ ra mức độ tham gia vừa chiếm 19,17%, tham
gia thấp và tham gia cao ở cùng mức 22,5%, tham gia rất cao 3,33%. Còn một
số hộ không tham gia chiếm 32,5%. Nguyên nhân hộ không tham gia là do cấp
chính quyền không phổ biến đến người dân, kinh tế khó khăn gia đình khó khăn
không có điều kiện để tham gia, và quan điểm l à v ấn đề này do nhà nước lo nên
không quan tâm tham gia, một s ố hộ thì không ý kiến.
Hình thức tham gia đóng góp tiền chiếm 51,67%, đóng góp lao động chiếm
30,83%, hình thức chia sẻ trách nhiệm chiếm 5,83%, cung cấp thông tin 16,67%.
Qua khảo sát cũng được biết thêm bên cạnh người dân tham gia đóng góp trong
tiêu chí này còn được sự hỗ trợ từ ngân hàng chính sách xã hội hỗ trợ với mức
trung bình 1 năm là 10 triệu đồng, hạn vay trung bình 12 tháng, lãi suất ưu đãi
(đối với hộ nghèo, cận nghèo và nhiều đối tượng khác theo các chương trình của
ngân hàng), và trong cuộc khảo sát, chỉ có 4 hộ được ngân hàn g chính sách xã
hội phát vay, có thể thấy các quy trình thủ tục vay vốn mất nhiều thời gian, hay
thuộc dạng hộ nghèo không đất, nên vốn vay từ NHCSXH để xây d ựng nhà ở
không được hỗ trợ nhiều.
Với tiêu chí này, nông hộ tham gia có tiếng nói hơn, không còn ở dạng hình
thức, họ cũng đưa ra quan điểm (vận động, quyên góp giúp đỡ hộ nghèo không
đất ở), tham gia hiểu tiến trì nh, họ biết chia sẻ nhiệm vụ
hay mức độ tham gia tốt
hơn.
55
Bảng 4.21: Sự tham gia của cộng đồng dân cư trong tiêu chí nhàở
Tần số Tỷ lệ (%)
Mức độ tham gia
Không tham gia
39 32,50
Tham gia thấp
27 22,50
Tham gia trung bình
23 19,17
Tham gia cao
27 22,50
Tham gia rất cao
4
3,33
Tổng 120 100
Hình thức tham gia
Cung cấp thông tin 20
16,67
Chia sẽ trách nhiệm 7
5,83
Đóng góp ngày công 37
30,83
Đóng góp tiền 62
51,67
Hiến đất 12
10,00
Tổng 138
Nguồn: Kết quả khảo sát, 2015
4.3.2.6Tiêu chí thu nhập
Ngành trồng trọt chiếm tỷ lệ lớn trong cơ cấu nông nghiệp tại địa phương,
có 79 trong 120 hộ được khảo sát có thu nhập từ nguồn này. Th u nh ập trồng trọt
trung bình một năm là 85,64 triệu đồng, thu nhập có thể cao đến 300 triệu đồng,
thấp nhất 1,8 triệu đồng. Kế đến là lao động phổ thông với 56 trong tổng số 120
hộ được khảo sát, thu nhập bình quân là khoảng 21,28 triệu đồng, cao nhất 51,6
triệu đồng và t hấp nhất là 2 triệu đồng. Thu nhập t ừ chăn nuôi và dịch vụ có
số
hộ tham gia tương đương nhau với 20 hộ chăn nuôi và 21 hộ có làm dịch vụ, thu
nhập trung bình của chăn nuôi là 26,41 triệu đồng, tuy nhiên có hộ cá biệt thu
đến 80 triệu đồng trong năm, còn hộ gia đình khó khăn, hay nuôi với số lượng
thấp, do bệnh tật trong lúc nuôi, thu nhập hộ nhận được chỉ khoảng 2 triệu
đồng/năm. Trong khi hộ làm ăn buôn bán thì có thu nhập trung bình lên đến
46,16 triệu đồng/năm, và cao nhất là 150 triệu đồng/năm.
Có 13 hộ có thu nhập từ CBCVC nhà nước trung bình một năm có thể có
thu nhập 50,44 triệu đồng, cũng có hộ được nguồn thu nhập này rất cao, khoảng
160 triệu /năm, hộ thu nhập cao vậy là do gia đình đa số thành viên là cán bộ
56
công viên chức và thu nhập thấp nhất trong nghề là 12 triệu đồng. Ngoài ra,
nông hộ còn được nguồn tiền khác như thủy sản và tiểu thủ công nghiệp.
Bảng 4.22: Thu nhập trung bình các ngành nghề
Số hộ Nhỏ nhất Lớn nhất Trung bình Độ lệch chuẩn
Trồng trọt 79 1,80 300,00 85,64 62,20
Thủy sản 9 5,00 135,00 49,45 49,64
Chăn nuôi 20 2,00 80,00 26,41 19,04
Tiểu thủ công nghiệp 4 12,00 36,00 26,40 12,00
Dịch vụ 21 3,00 150,00 46,16 36,30
Cán bộ viên chức 13 12,00 160,00 50,44 38,40
Làm thuê 56 2,00 51,60 21,15 13,17
Nguồn: Kết quả khảo sát, 2015
Theo bộ tiêu chí của thành ph ố Cần Thơ về việc quy định mức thu nhập đạt
chuẩn nông thôn mới năm 2014 là 25 triệu đồng, theo b ảng 4.23, ta thấy thu
nhập bình quân đầu người trong năm dưới 25 triệu chiếm đến 69,16%, từ 25 đến
50 triệu chiếm 19,16% và trên 50 triệu chiếm 11,68%.
Bảng 4.23: Thu nhập trung bình của nông hộ ĐVT:
Triệu/người/năm
Tần số Tỷ lệ (%)
Dưới 25 triệu 83 69,16
Từ 25 đến 50 triệu 23 19,16
Trên 50 triệu 14 11,68
Tổng 120 100
Nguồn: Kết quả khảo sát, 2015
Để tăng thu nhập cho nông hộ, thì các hội đoàn thể đã có nhiều hỗ trợ thiết
thực cho các nông hộ tại địa phương cụ thể là hình thức hỗ trợ v ay vốn với lãi
suất thấp của các hội đoàn thể. Tuy nhiên với kết quả nghiên cứu, thì hộ có thu
nhập, chưa đạt so với quy định còn cao. Đối với tiêu chí thu nhập, thì nông hộ
đã
thể hiện được sự tham gia, từ mức độ thấp nhất, đến cao nhất, có thể nói đây là
tiêu chí mà sự tham gia của nông hộ trong bộ tiêu chí nông thôn mới đòi hỏi s ự
tham gia cao.
57
4.3.2.7Tiêu chí hộ nghèo
Xã được công nhận đạt tiêu chí hộ nghèo khi có tỷ lệ hộ nghèo của xã dưới
mức tối thiểu theo quy định của vùng (tại thành phố Cần Thơ là dưới 7%), hộ
nghèo nông thôn là hộ có mức thu nhập bình quân đầu người theo chuẩn hộ
nghèo được Thủ tướng Chính Phủ quy định áp dụng cho từng giai đoạn. Đa
phần những hộ thuộc diện này đều được nhận ưu đãi từ các chính sách ưu tiên
cụ thể như từ ngân hàng chính sách xã hội, các hội đoàn thể và đặc biệt là sự
tương trợ từ các hộ dân cư khác trong vùng.
Bảng 4.24: Mức độ tương trợ cho các hộ nghèo trong vùng
Tần số Tỷ lệ (%)
Sự sẵn lòng tương trợ
Không giúp đỡ
45 37,50
Giúp ít
0 0,00
Giúp ở mức trung bình
5 4,17
Sẵn lòng giúp đỡ
54 45,00
Rất sẵn lòng giúp đỡ
16 13,33
Tổng
120 100
Hình thức giúp đỡ
Cho vay vốn 6 5
Cho tiền, gạo, thuốc men 66 55
Giới thiệu việc làm 6 5
Tổng 78
Nguồn: Kết quả khảo sát, 2015
Bảng 4.24 cho thấy các hộ không thuộc diện hộ nghèo, thì có khoảng
37,5%không tham gia giúp đỡ theo kết quả nghiên cứu, tham gia giúp đỡ ở mức
trung bình chiếm 4,17%, tham gia rất cao chiếm 13,33%, tham gia cao
45%.Nguyên nhân mà nông hộ không giúp hộ nghèo chiếm cao, vì do một
sốnguyên nhân: kinh tế hộ chỉ đủ đáp ứng nhu cầu trong gia đình, tâm lý
củangười dân phải có của dư mới giúp đỡ, lý do thứ hai các hộ cho rằng là
những hộ nghèo đã được nhà nước hỗ trợ và lý do thứ ba là cấp chính quyền
không kêu gọi nên cũng không biết để giúp. Cộng đồng dân cư trong khu vực
tương trợ cho các hộ nghèo theo 3 hình thức là cho vay vốn với 6 hộ trong 75 hộ
có tham gia giúp đỡ, giới thiệu việc làm cũng có 6 hộ trong 75 hộ chọn hình
58
thức này để giúp đỡ và cuối cùng là ủng hộ tiền hoặc gạo hoặc thuốc men cho hộ
ngèo là cách được đông đảo các hộ chọn nhất với 66 trong số 75 hộ chọn.
4.3.2.8Tiêu chí tỷ lệ lao động có việc làm thường xuyên
Bộ tiêu chí quốc gia xây dựng nông thôn mới quy định để đạt tiêu chí này
đòi hỏi tỷ lệ lao động có việc làm thường xuyên từ 90% trở lên, lao động có việc
làm thường xuyên là những người trong độ tuổi có khả năng lao động, có đăng
ký hộ khẩu thường trú tại xã, có thời gian làm việc bình quân 20 ngày
công/tháng trở lên trong và ngoài địa bàn xã.
Qua cuộc điều tra, đa số nông hộ nơi đây sống bằng nghề nông, công việc
này thường tập trung vào mùa vụ, do đó nông hộ có thời gian làm việc từ 3 – 6
tháng chiếm 56,5%, còn các hộ mua bán, kinh doanh, dịch vụ, cán bộ công viên
chức thì làm việc thường tr ên 9 tháng chiếm 5,84%, dưới 3 tháng chiếm 7,8%
chủ yếu là các hình thức làm thuê mùa vụ trong nông nghiệp. Nhìn chung, thời
gian tham gia lao động chủ yếu là dưới 6 tháng, tuy nhiên ngành nông nghiệp
thường làm theo tính chất thời vụ, nên đánh giá theo cách chủ quan thế này,
cũng là hạn chế nhỏ trong nghiên cứu.
Bảng 4.25: Thời gian làm việc trong năm của hộ
Thời gian Tần số Tỷ lệ (%)
Dưới 3 tháng
43 35,83
Từ 3 – 6 tháng
69 57,50
Từ 6 – 9 tháng
1 0,83
Trên 9 tháng
7 5,84
Tổng
120 100
Nguồn: Kết quả khảo sát, 2015
Vậy công tác xây dựng nông thôn mới không phải người dân mới bắt đầu
tham gia, mà là đã tham gia từ lâu. Điều đó cho thấy, chương trình xây dựng
nông thôn mới đa số các xã đều dựa trên nền tảng kế thừa, công tác nhận thức
của nông hộ chính là chất xúc tác để xây dựng nông thôn mới thành công.
4.3.2.9Tiêu chí giáo dục
Để đạt được tiêu chí giáo dục, cần thỏa 02 điều kiện sau: Đạt phổ cập trung
học cơ sở và đạt tỷ lệ học sinh tốt nghiệp THCS được tiếp tục học THPT và tỷ lệ
lao động qua đào tạo theo quy định của vùng. Kết quả điều tra, qua từng chỉ tiêu
được mô tả theo các bảng sau.
59
Bảng 4.26: Tình hình phổ cập giáo dục tại nông hộ
Tần số Tỷ lệ (%)
Hộ có thành viên đang học THCS 31 25,83
Hộ có thành viên trong độ tuổi học tiếp
THPT
24 20,00
Hộ có lao động đã được đào tạo nghề 6 5,00
Nguồn: Kết quả khảo sát, 2015
Kết quả ở bảng 4.26 cho thấy t ại thời điểm khảo sát có khoảng 25,83% số
hộ (tương đương 31 hộ trong 120 hộ được khảo sát) có con em đang theo học ở
bậc học THCS, trong khi đó số lượng hộ có con em học tiếp lên THPT trong quá
khứ chỉ là 20% số hộ (tương đương 24 hộ trong 120 hộ được khảo s át) và các
lao động hiện tại trong hộ chỉ có 6 trường hợp hộ được đào tạo thông qua các
lớp đào tạo nghề bao gồm may mặc, điện gia dụng và nuôi thủy sản.
4.3.2.10Tiêu chí y tế
Để đạt tiêu chí y tế, cần thỏa 2 điều kiện, 1là trạm y tế xã đạt chuẩn, 2 là tỷ
lệ người dân tham gia bảo hiểm y tế đạt từ 70% trở lên. Qua kh ảo sát điều tra,
thì 80% số hộ được khảo sát nhận định là xã đã có trạm y tế đạt chuẩn. Tuy
nhiên kết quả khảo sát ở bảng 4.18 cho thấy mức độ không tham gia qua nghiên
cứu chiếm đến 81,25%, tham gia vừa chiếm 8,33%, tham gia thấp chiếm 6,25%,
tham gia cao 3,12%, tham gia rất cao chiếm 1,05%. Còn lại có 20% số hộ được
khảo sát cho rằng xã chưa có trạm y tế đạt chuẩn và tỷ lệ sẵn lòng tham gia đóng
góp cũng là không cao với 83,3% số hộ này không tham gia, 4,17% tham gia ở
mức trung bình và 12,5% tham gia ở mức cao.
Bảng 4.27: Mức độ tham gia của cộng đồng dân cư vào tiêu chí y tế
Có trạm y tế đạt chuẩn Không có trạm y tế đạt chuẩn
Tần số Tỷ lệ (%) Tần số Tỷ lệ (%)
Không TG 78 81,25 20 83,33
TG thấp 6 6,25 0 0,00
TG trung bình 8 8,33 1 4,17
TG cao 3 3,12 3 12,50
TG rất cao 1 1,05 0 0,00
Tổng 96 100 24 100
Nguồn: Kết quả khảo sát, 2015
60
Nguyên nhân chung của việc không tham gia là do suy nghĩ vấn đề này
được nhà nước đầu tư, khoảng cách đến trạm xa nhà khó mà sử dụng dịch vụ y
tế tại đây nên không tham gia, cấp chính quyền không phổ biến và vận động nên
không biết và một số hộ không ý kiến khi họ không tham gia có thể họ chưa
nhận thức được vai trò đóng góp của họ trong tiêu chí y tế này. Thêm vào đó, do
sống ở nông th ôn nên nhu cầu chăm sóc sức khoẻ cũng như chất lượng chưa đòi
hỏi cao, nên hộ không quan tâm đến. Rõ ràng hơn là ý thức chăm sóc sức khỏe
của cộng đồng nơi đây chưa cao, được thể hiện qua việc còn 18,33% số hộ được
khảo sát (tương đương 22 trong số 120 h ộ được khảo sát) mà trong gia đình
không có thành viên nào có bảo hiểm y tế.
4.3.2.11Tiêu chí văn hóa
Xã được công nhận đạt tiêu chí văn hóa khi có từ 70% ấp trở lên được công
nhận và giữ vững danh hiệu “Ấp văn hóa” liên tục từ 5 năm trở lên. Đó là một
vấn đề khó mà đòi hỏi các cấp đoàn thể chính quyền, quần chúng và người dân
cùng tham gia đồng bộ. Theo kết quả điều tra, mức độ tham gia thấp chiếm
30,83%, tham gia vừa 26,67%, tham gia cao chiếm 13,33%, tham gia rất cao 5%
và không tham gia chiếm 24,17% với những lý do là cấp chính quyền không phổ
biến, sức khỏe không cho phép tham gia.
Hình thức tham gia của các hộ nơi đây phần lớn là chia sẻ trách nhiệm,
chiếm 62,5%, kế đó là cung cấp thông tin chiếm 27,5%, đóng góp bằng ngày
công và đóng góp tiền ở cùng mức 3,3%. Theo đó việc tham gia bằng hành
động chia sẻ trách nhiệm, được xã phát động thành nhiều phong trào như toàn
dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư, gương người tốt việc tốt,
gia đình văn hóa và tòan dân bảo vệ trật tự an ninh, trong đó phong trào gia
đình
văn hóa là được cộng đồng dân cư tham gia tích cực nhất với 94 trong 120 hộ
được khảo sát tham gia.
61
Bảng 4.28: Sự tham gia của cộng đồng dân cư trong tiêu chí văn hóa
Tần số Tỷ lệ (%)
Mức độ tham gia
Không tham gia
29 24,17
Tham gia thấp
37 30,83
Tham gia trung bình
32 26,67
Tham gia cao
16 13,33
Tham gia rất cao
6
5,00
Tổng 120 100
Hình thức tham gia
Cung cấp thông tin 33
27,50
Chia sẻ trách nhiệm 75
62,50
Đóng góp ngày công 4
3,33
Đóng góp tiền 4
3,33
Tổng 116
Nguồn: Kết quả khảo sát, 2015
4.3.2.12 Tiêu chí môi trường
Để đạt được tiêu chí này mỗi xã phải hoàn thành 5 chỉ tiêu sau: (1) Tỷ lệ hộ
được sử dụng nước sạch hợp vệ sinh theo quy chuẩn quốc gia (90% hợp vệ sinh
và 50% chuẩn quốc gia); (2) Tỷ lệ cơ sở SX-KD đạt tiêu chuẩn về môi trường;
(3) Không có các hoạt động gây suy giảm môi trường và có các hoạt động phát
triển môi trường xanh, sạch, đẹp; (4) Nghĩa trang được xây dựng theo quy
hoạch; (5) Chất thải, nước thải được thu gom và xử lý theo quy định. Có thể
thấy trong tiêu chí này cộng đồng dân cư có thể tham gia vào chỉ tiêu sử dụng
nước sạch và thu gom - xử lý chất thải, nước thải.
Nước để uống đa số hộ gia đình sử dụng nước máy chiếm 65%, kế đến là
sử dụng nước giếng chiếm 20,83%, nước mưa chiếm 11,67%, nước kênh rạch
chiếm 2,5%. Có thể thấy dân cư tại các xã đã ý thức, quan tâm đến vấn đề vệ
sinh an toàn, tỷ lệ sử dụng nước máy và nước giếng trên 80%.
62
Bảng 4.29: Nguồn nước sử dụng
Nước máy Nước giếng Nước kênh
rạch
Nước mưa
Tổng
Tần
số
Tỷ lệ
(%)
Tần
số
Tỷ lệ
(%)
Tần
số
Tỷ lệ
(%)
Tần
số
Tỷ lệ
(%)
Nước uống
78 65,00 25 20,83 3 2,50 14 11,67 120
Nước sinh hoạt
70 58,33 38 31,67 8 6,67 4 3,33 120
Nước để SXKD
4 4,94 2 2,47 75 92,59 0 0,00 81
Nguồn: Kết quả khảo sát, 2015
Tương tự, nước sinh ho ạt phục vụ vệ sinh cá nhân hàng ngày, thì hộ sử
dụng nước máy chiếm 58,33%, nước giếng 31,67%, nước kênh rạch 6,67%,
nước mưa chiếm 3,33%. Tập quán sinh hoạt của dân cư nông thôn thường chú
trọng vào nước mưa hơn tuy nhiên số lượng nước mưa dự trữ của hộ không đủ
để phục vụ sinh hoạt, nên hộ dân cư trên địa bàn nghiên cứu đa phần sử dụng
nước máy và nước giếng. Riêng nước sinh hoạt để sản xuất kinh doanh không sử
dụng nước máy nhiều vì loại nước này phải trả tiền theo khối lượng quy định
của nhà nước, nên chỉ chiếm 4,94% , nước giếng để sản xuất kinh doanh cũng
rất ít, chiếm 2,47%, ở địa phương, đa số nông hộ làm nghề trồng lúa là chính,
nên người dân chủ yếu sử dụng nước kênh rạch chiếm 92,59%.
Bảng 4.30: Phương thức xử lý chất thải
Tần số Tỷ lệ (%) Tần số Tỷ lệ (%)
Nhà vệ sinh
Tự hoại Khác
82 68,34 38 32,66
Rác thải
Thu gom Khác
37 30,84 83 69,16
Nguồn: Kết quả khảo sát, 2015
Bảng 4.30 trình bày về hiện trạng các phương thức xử lý chất thải tại địa
bàn nghiên cứu trong đó chỉ tiêu có nhà vệ sinh tự hoại chiếm 68,34% tổng số
hộ khảo sát (tương đương 82 trong số 120 hộ khảo sát) cò n lại 32,66% số hộ xử
lý theo các phương thức đào hố hay t hải ra sông hay ao cá. Về rác thải sinh
hoạt
hàng ngày thì chỉ có 30,84% số hộ sử dụng dịch vụ thu gom rác thải còn lại
69,16% số hộ phải chôn, đốt hay vứt xuống sông do không ai thu gom. Khi được
hỏi về việc tham gia phong trào phát triển môi trường xanh, sạch, đẹp tại địa
phương phát động thì có 62,5% số hộ được khảo sát cho là họ sẽ tham gia với
nhiều mức độ khác nhau và 37,5% số hộ sẽ không tham gia với một số nguyên
nhân là kinh tế khó khăn (hộ lo đi làm thuê, làm mướn, buôn bán kiếm kế sinh