Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Đánh giá tác động của các biến kinh tế vĩ mô đến thị trường chứng khoán Việt Nam
9,138
279
88
12
rằng tồn tại một mối quan hệ cùng chiều giữa tỷ suất sinh lợi của cổ phiếu và
thay đổi trong cung tiền nhưng lại có mối quan hệ ngược chiều giữa tỷ suất sinh
lợi của cổ phiếu với sự thay đổi của lạm phát, lãi suất ngắn hạn, lãi suất dài
hạn
và tỷ giá.
Ibrahim and Yusoff (2001): nghiên cứu sự tương tác động giữa các biến giá cổ
phiếu trên TTCK Malaysia (KLCI), cung tiền (M2), sản xuất công nghiệp (IP),
lạm phát (CPI) và tỷ giá (EXC), sử dụng phương pháp đồng liên kết Johansen-
Juselius và VAR. Kết quả: KLCI có phản ứng cùng chiều với M2 trong ngắn
hạn nhưng lại có mối quan hệ ngược chiều trong dài hạn. Trong khi đó, KLCI và
EXC có mối quan hệ ngược chiều trong dài hạn
Ibrahim and Aziz (2003): phân tích mối quan hệ nhân quả và sự liên kết động
giữa giá cổ phiếu và 04 biến kinh tế vĩ mô (chỉ số sản xuất công nghiệp, cung
tiền M2, lạm phát, tỷ giá USD-Ringgit) trong trường hợp của Malaysia. Phương
pháp phân tích dựa trên các kỹ thuật chuẩn và được chấp nhận rộng rãi là đồng
kết hợp (cointegration) và tự hồi quy vector (vector autoregression) để phát
hiện
quan hệ dài hạn và sự tác động ngắn hạn giữa các biến.
Kết quả: Tồn tại mối quan hệ cùng chiều dài hạn giữa KLCI và IP, tương tự với
kết quả nghiên cứu của Fama (1990) tại USA, Mukherjee and Naka (1995) tại
Nhật, Kwon and Shin (1999) tại Hàn Quốc, Maysami and Koh (2000) tại
Singapore. Có mối quan hệ cùng chiều giữa KLCI và CPI trong dài hạn, phù hợp
với nghiên cứu của Khil và Lee (2000). Trong khi đó KLCI và M2 có mối quan
hệ ngược chiều, tương tự kết quả của Kwon and Shin (1999), trong khi theo
Mukherjee and Naka (1995) và Maysami and Koh (2000) chỉ ra mối quan hệ
cùng chiều dài hạn trong trường hợp của Singapore và Nhật Bản. Ngoài ra, thực
hiện nghiên cứu tại năm quốc gia công nghiệp (Canada, Đức, Ý, Nhật Bản và
Mỹ), Chung and Ng (1998) cho thấy rằng, mối quan hệ giữa M2 và giá chứng
khoán là cùng chiều ở Canada nhưng ngược chiều ở Nhật Bản và Mỹ. Trong
trường hợp của Đức và Ý thì mối quan hệ này là không xác định vì có nhiều hơn
13
một vector đồng liên kết và mối quan hệ giữa hai biên phụ thuộc vào vector
đồng liên kết nào được sử dụng. Cuối cùng, kết quả nghiên cứu cho thấy có một
mối quan hệ ngược chiều giữa KLCI và EXC, giống như trường hợp của Hàn
Quốc (Kwon and Shin, 1999) và Singapore (Maysami and Koh, 2000). Tuy
nhiên, ước lượng các hệ số tương quan trên chỉ liên quan đến mối quan hệ trong
dài hạn, không chỉ ra được mối quan hệ trong ngắn hạn giữa các biến. Theo đó,
tác giả sử dụng phương pháp phân rã phương sai và hàm phản ứng (Impulse-
Response Functions) dựa trên đặc điểm kỹ thuật của mô hình VAR để giải thích
sự tương tác động trong ngắn hạn giữa các biến.
Tunah (2010): Phân tích mối quan hệ giữa các biến kinh tế vĩ mô và lợi nhuận
cổ phiếu ở TTCK Thổ Nhĩ Kỳ (ISEI-100), sử dụng mô hình VAR, dữ liệu tháng
từ tháng 01/2002 đến tháng 08/2008. Kết quả cho thấy có mối quan hệ dài hạn
giữa các biến kinh tế vĩ mô và lợi nhuận cổ phiếu ở các mức độ khác nhau.
Trong nghiên cứu, tác giả sử dụng 11 biến: Lợi nhuận cổ phiếu ở TTCK Thổ
Nhĩ Kỳ (SRISEI-100), Chỉ số công nghiệp bình quân Dow Jones (DJIA), Tỷ giá
hối đoái – USD, Lãi suất tiết kiệm 01 tháng, Giá vàng (USD/ounce), Chỉ số sản
xuất công nghiệp (IPI), Chỉ số giá sản xuất (PPI), Giá dầu thô quốc tế (ICOP),
Total credit volume (TCV), Cung tiền M2 (M2Y), Dự trữ ngoại hối ròng
(NFER), Nhập khẩu (IMP). Tác giả kiểm tra tính dừng của các chuỗi số liệu
bằng kiểm định ADF, xác định độ trễ thích hợp bằng AIC và kiểm định đồng
liên kết bằng phương pháp Johansen – Juselius để xác định số vector đồng liên
kết. Kết quả: tồn tại các mối quan hệ dài hạn giữa SRISEI-100 và tất cả các biến
khác.
Ahmet (2010): phân tích tác động của các biến kinh tế vĩ mô lên TTCK Thổ Nhĩ
Kì (ISEI-100). Trong nghiên cứu này, tác giả sử dụng các 07 biến vĩ mô, bao
gồm: chỉ số giá tiêu dùng, lãi suất, giá vàng, chỉ số sản xuất công nghiệp, giá
dầu, tỷ giá hối đoái, cung tiền. Dữ liệu được sử dụng là dữ liệu tháng, từ
01/2003
đến 03/2010. Mô hình hồi quy đa biến được sử dụng để kiểm tra mối quan hệ
14
giữa ISEI-100 và 07 biến vĩ mô trên. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng lãi suất,
chỉ
số sản xuất công nghiệp, giá dầu, tỷ giá hối đoái có tác động ngược chiều lên
ISEI-100 trong khi cung tiền có tác động cùng chiều. Lạm phát và giá vàng
không có ảnh hưởng đến ISEI-100.
Sohail and Hussain (2011): nghiên cứu mối quan hệ ngắn hạn và dài hạn giữa
chỉ số KSE100 và 05 biến kinh tế vĩ mô là chỉ số giá tiêu dùng (CPI), chỉ số sản
xuất công nghiệp (IPI), tỷ giá hối đoái thực (REER), cung tiền (M2) và lãi suất
Trái phiếu kho bạc 03 tháng (TTBR). Dữ liệu được sử dụng từ 11/1991 đến
06/2008. Kết quả: tìm thấy 03 mối quan hệ dài hạn giữa KSE100 và các biến
kinh tế vĩ mô, trong đó CPI, IPI, REER có mối quan hệ đồng biến với tỷ suất
sinh lợi của cổ phiếu, ngược lại M2 và TTBR có tác động ngược chiều với tỷ
suất sinh lợi của cổ phiếu. Mô hình VECM chỉ ra rằng, mất nhiều hơn 04 tháng
để điều chỉnh sự mất cân bằng của thời kỳ trước đó. Kết quả của kỹ thuật phân
rã phương sai cho thấy KSE100 giải thích được khoảng 39% phương sai sai số
dự báo của chính nó, trong khi CIP, IPI, REER, M2 và TTBR lần lượt giải thích
được 46%, 0.54%, 5.41%, 7.33% và 2.18% phương sai của KSE100. Trong các
biến, CPI là biến có mức độ biến thiên lớn nhất. Do đó, nghiên cứu cho rằng,
kiểm soát tốt lạm phát thì có thể giảm được mức độ biến động của TTCK.
Mehmet, Ismail and Omer (2012): phân tích mối quan hệ nhân quả giữa giá cổ
phiếu ở TTCK Istanbul (ISE) và các biến kinh tế vĩ mô là tỷ giá hối đoái, chỉ số
giá tiêu dùng, lãi suất và sản xuất công nghiệp. Dữ liệu hàng tháng từ tháng
01/2005 đến tháng 07/2011. Các phương pháp được sử dụng bao gồm: kiểm
định đồng liên kết Johansen-Juselius và mô hình VECM. Kết quả nghiên cứu
cho thấy, không có mối quan hệ dài hạn giữa ISE và lãi suất, tỷ giá, chỉ số giá
tiêu dùng.
2.3 Các nghiên cứu ở nhóm các quốc gia
Cheung and Ng (1998) nghiên cứu mối tương quan giữa giá chứng khoán với
các nhân tố vĩ mô gồm giá dầu, tổng tiêu dùng cá nhân, cung tiền M1 và GNP ở
15
một nhóm các quốc gia bao gồm Đức, Canada, Ý, Nhật Bản và Mỹ. Sử dụng
phương pháp kiểm định đồng liên kết Johansen. Kết quả: sau khi điều chỉnh
những sai lệch trong mẫu nghiên cứu, tác giả tìm thấy rằng: ở Canada, Japan và
US, tồn tại một mối quan hệ đồng liên kết giữa tỷ suất sinh lợi và các biến kinh
tế vĩ mô, trong khi ở thị trường Đức và Ý tồn tại hai mối quan hệ đồng liên kết.
Họ tìm thấy mối tương quan nghịch biến giữa giá dầu và giá chứng khoán ở
Canada, Ý và Nhật Bản nghĩa là giá dầu tăng tác động tiêu cực đến tỷ suất sinh
lợi cả trong ngắn hạn lẫn dài hạn, điều này phù hợp với quan sát kinh nghiệm
cho thấy khi giá dầu tăng dẫn đến chi phí sản xuất tăng và giảm các hoạt động
kinh tế. Tuy nhiên, tương quan giữa giá chứng khoán và nhu cầu tiêu dùng là
đồng biến. Ngược lại, mối tương quan giữa GNP thực và cung tiền thực đến giá
chứng khoán lại không rõ ràng. Dựa trên mô hình hiệu chỉnh sai số ECM, tác giả
cho rằng các thành phần sai số hiệu chỉnh ở Ðức và Ý ít có thay đổi bất thường,
tuy nhiên ở Nhật lại biến động lớn. Thành phần sai số hiệu chỉnh, độ trễ trong
tỷ
suất sinh lợi, thay đổi trong giá dầu và thay đổi trong cung tiền có ảnh hưởng
đến biến động giá chứng khoán, tuy nhiên thay đổi trong tiêu dùng và GNP lại
giải thích kém cho mô hình.
Robert and Gay (2008) phân tích ảnh hưởng của các nhân tố vĩ mô đến chỉ số
giá chứng khoán cho 4 nước Brazil, Ấn Độ, Trung Quốc và Nga. Các biến kinh
tê vĩ mô bao gồm lạm phát, lãi suất. Phương pháp nghiên cứu được sử dụng là
ARIMA để xác định mối quan hệ giữa biến phụ thuộc là chỉ số giá chứng khoán
và các biến độc lập là tỷ giá, lãi suất. Dữ liệu được sử dụng là dữ liệu hàng
tháng
trong giai đoạn từ 03/1999-06/2006. Nghiên cứu đặt giả thiết là tồn tại mối quan
hệ đồng biến giữa tỷ giá và chỉ số giá chứng khoán và mối quan hệ nghịch biến
giữa giá dầu và chỉ số giá chứng khoán. Sử dụng phương pháp Dickey Fuller để
kiểm tra tính dừng, kết quả cả 3 biến vĩ mô đều dừng ở sai phân bậc 1 với cùng
mức ý nghĩa, sử dụng phương pháp Ljung Box Q Statistics và Dubin Watson để
kiểm tra tính tự tương quan. Trong phương pháp ARIMA sử dụng các trung bình
16
trượt là MA(1), MA(3), MA(6) và MA(12). Kết quả của nghiên cứu: tỷ giá hối
đoái và giá dầu không có quan hệ đáng kể nào, trong khi các biến kinh tế vĩ mô
còn lại có vai trò quyết định đối với chỉ số giá chứng khoán
Mahmood và Dinniah (2009) đánh giá mối quan hệ giữa giá cổ phiếu và các
biến kinh tế vĩ mô tại 06 quốc gia trong khu vực Châu Á Thái Bình Dương là
Thái Lan, Malaysia, Hàn Quốc, HongKong, Nhật Bản và Australia. Trong
nghiên cứu này, tác giả sử dụng dữ liệu tháng từ tháng 01/1993 đến tháng
12/2002. Các biến bao gồm chỉ số giá cổ phiếu, tỷ giá hối đoái, chỉ số giá tiêu
dùng và chỉ số sản xuất công nghiệp. Cụ thể, tác giả tập trung phân tích sự cân
bằng dài hạn và quan hệ nhân quả trong ngắn hạn giữa các biến. Các phương
pháp được sử dụng trong bài nghiên cứu: kiểm định đồng liên kết Engle và
Granger (1987), Johansen và Juselius (1990) để kiểm tra sự cân bằng dài hạn
giữa các biến; kiểm định ADF để kiểm tra tính dừng của các chuỗi dữ liệu; mô
hình ECM. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng tồn tại mối quan hệ cân bằng dài hạn
giữa các biến tại 04 quốc gia Nhật Bản, Hàn Quốc, Hongkong và Australia. Tồn
tại một vài mối quan hệ giữa các biến trong ngắn hạn tại các quốc gia trên trừ
HongKong và Thái Lan. Đối với trường hợp của HongKong chỉ có mối quan hệ
giữa tỷ giá hối đoái và giá cổ phiếu, trong khi trường hợp của Thái Lan chỉ có
mối quan hệ đáng kể giữa chỉ số sản xuất công nghiệp và giá cổ phiếu.
Hosseini, Ahmad and Lai (2011): nghiên cứu mối quan hệ giữa chỉ số TTCK và
04 biến kinh tế vĩ mô gồm giá dầu thô (COP), cung tiền (M2), sản xuất công
nghiệp (IP) và lạm phát (IR) ở Trung Quốc và Ấn Độ. Dữ liệu được sử dụng
trong khoảng thời gian từ 01/1999 đến tháng 01/2009. Sử dụng phương pháp
ADF để kiểm định tính dừng của các chuỗi dữ liệu, kiểm định đồng liên kết
Johansen-Juselius và mô hình VECM. Kết quả nghiên cứu cho thấy tồn tại mối
quan hệ ngắn hạn và dài hạn giữa các biến ở cả 02 quốc gia nói trên. Trong dài
hạn, tác động của giá dầu thô lên giá cổ phiếu ở Trung Quốc là cùng chiều
nhưng ngược chiều đối với Ấn Độ. Tác động của cung tiền M2 đối với giá cổ
17
phiếu ở Ấn Độ là ngược chiều, nhưng cùng chiều đối với Trung Quốc. Sản xuất
công nghiệp IP chỉ có tác động ngược chiều ở Trung Quốc, trong khi lạm phát
có tác động cùng chiều đối với chỉ số chứng khoán ở cả 02 quốc gia. Trong ngắn
hạn, giá dầu có tác động cùng chiều đến chỉ số chứng khoán ở Ấn Độ nhưng
cùng chiều ở Trung Quốc. Cung tiền M2 có tác động cùng chiều ở Trung Quốc
nhưng ngược chiều ở Ấn Độ, tuy nhiên những tác động này là không đáng kể.
Tác động của lạm phát trong trường hợp của Trung Quốc là cùng chiều và đáng
kể, trong khi đối với Ấn Độ là ngược chiều và không đáng kể.
2.4 Các nghiên cứu ở Việt Nam
Nguyễn Hữu Tuấn (2012): tác giả đã thực hiện một phân tích định lượng đo
lường mức độ ảnh hưởng của các biến số vĩ mô là cung tiền, lãi suất, tỷ giá, lạm
phát và sản lượng công nghiệp đến VNI giai đoạn năm 2005-2011. Tác giả dùng
kỹ thuật kiểm định đồng liên kết để kiểm định mối cân bằng dài hạn giữa các
biến trong mô hình. Kết quả nghiên cứu định lượng cho thấy trong dài hạn tồn
tại mối tương quan thuận giá trị sản lượng công nghiệp và cung tiền M2 với VN-
Index và tương quan nghịch giữa các biến chỉ số giá tiêu dùng, lãi suất và tỷ
giá
có tương quan nghịch đến VN-Index, trong đó chỉ số giá tiêu dùng có mức tác
động mạnh nhất trong các biến. Tuy nhiên, ở góc độ thống kê nghiên cứu chỉ
chấp nhận mối tương quan giữa VN-Index với biến chỉ số giá tiêu dùng và biến
cung tiền M2 với mức ý nghĩa α = 10%, các biến còn lại không có ý nghĩa thống
kê.
Phan Thị Bích Nguyệt và Phạm Dƣơng Phƣơng Thảo (2013): Bài nghiên cứu
này nhằm mục tiêu kiểm định tại VN có tồn tại mối tương quan giữa những nhân
tố kinh tế vĩ mô với thị trường chứng khoán VN hay không? Bài nghiên cứu áp
dụng kiểm định đồng tích hợp theo phương pháp kiểm định nghiệm đơn vị phần
dư Engle Granger để xác định liệu các biến số kinh tế vĩ mô được lựa chọn có
mối tương quan với thị trường chứng khoán tại VN hay không. Ngoài ra, để
tránh hiện tượng hồi quy giả, kiểm định nghiệm đơn vị cũng được sử dụng để
18
xem xét tính dừng của các biến số. Sau khi kiểm định, bài nghiên cứu dùng
phương trình ước lượng hồi quy bội để phản ánh mối tương quan Kết quả
nghiên cứu cho thấy các biến: cung tiền, lạm phát, sản lượng công nghiệp (đại
diện cho hoạt động kinh tế thực), giá dầu thế giới thể hiện mối tương quan cùng
chiều với TTCK; còn các biến lãi suất và tỉ giá hối đoái giữa VND/USD thể hiện
mối tương quan ngược chiều với TTCK.
Tổng hợp các nhân tố vĩ mô sẽ được tập hợp lại như những biến độc lập trong
nghiên cứu này bao gồm:
Bảng 2.1: Tổng hợp các biến sử dụng trong nghiên cứu trƣớc
Biến vĩ mô
Các nghiên cứu trƣớc
Chỉ số sản xuất
công nghiệp
(IP)
Maghyereh (2003): IP được phản ánh trong giá cổ phiếu tại
TTCK Jordanian.
Sulianman (2009): IP không có ảnh hưởng quan trọng đến giá
cổ phiếu tại TTCK Karachi.
Chen, Roll, Ross (1986), Mukherjee và Naka (1995), Ibrahim
và Aziz (2003), Mansor và Hassanuddee (2003), Phan Thị Bích
Nguyệt và Phạm Dương Phương Thảo (2013): có mối quan hệ
cùng chiều giữa giá cổ phiếu và IPI
Lạm phát - Chỉ
số giá tiêu dùng
(CPI)
Chen, Roll, Ross (1986), Mukherjee và Naka (1995), Durai and
Bhaduri (2009), Nguyễn Hữu Tuấn (2012): lạm phát có tác
động ngược chiều lên TTCK.
Abdullah và Hayworth (1993), Kandir (2008), Phan Thị Bích
Nguyệt và Phạm Dương Phương Thảo (2013) cho rằng có mối
quan hệ cùng chiều giữa tỷ suất sinh lợi của chứng khoán và
lạm phát
19
Lãi suất
Maghyereh (2003): lãi suất được phản ánh trong giá cổ phiếu tại
TTCK Jordanian.
Sulianman (2009): lãi suất có ảnh hưởng quan trọng đến giá cổ
phiếu tại TTCK Karachi (Pakistan)
Maysami và Koh (2000). Phan Thị Bích Nguyệt và Phạm
Dương Phương Thảo (2013): lãi suất và giá chứng khoán có
mối quan hệ ngược chiều.
Mukherjee và Naka (1995): mối tương quan cùng chiều giữa tỷ
suất sinh lợi của chứng khoán và lãi suất ngằn hạn CMI (call
money interest)
Cung tiền (M2)
Mukherjee và Naka (1995), Maysami và Koh (2000), Nguyễn
Hữu Tuấn (2012): có mối quan hệ cùng chiều giữa M2 và tỷ
suất sinh lợi của chứng khoán
Sulianman (2009), Phan Thị Bích Nguyệt và Phạm Dương
Phương Thảo (2013): M2 có ảnh hưởng quan trọng và ngược
chiều với giá cổ phiếu.
Tỷ giá
Ibrahim và Aziz (2003), Phan Thị Bích Nguyệt và Phạm Dương
Phương Thảo (2013): tỷ giá và tỷ suất sinh lợi của cổ phiếu có
mối quan hệ ngược chiều.
Frimpong (2009) tìm thấy mối quan hệ đồng biến giữa tỷ giá và
tỷ suất sinh lợi ở Ghana.
3. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1 Dữ liệu
Trong nghiên cứu này, tác giả sử dụng dữ liệu hàng tháng. Khoảng thời gian
chọn dữ liệu là từ tháng 01/2006 đến tháng 07/2012, lý do:
20
Khoảng thời gian từ 2000- 2005 quy mô thị trường khá nhỏ với có 32
doanh nghiệp niêm yết và phần lớn là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, không
mang tính đại diện cho ngành, giá trị vốn hóa/GDP chưa đến 1% (2003 là
0.39%, 2004 là 0.54% và năm 2005 là 0.8%). Trong 5 năm đầu tiên (2000-
2005) thị trường không thực sự thu hút được sự quan tâm của đông đảo công
chúng và các diễn biến tăng giảm của thị trường chưa tạo ra tác động xã hội
mở rộng để có thể ảnh hưởng tới sự vận hành của nền kinh tế cũng như tới
cuộc sống của mỗi người dân. Bảng số liệu sau có thể cho thấy việc sử dụng
số liệu thời kì này cũng kém hiệu quả.
Bảng 3.1: Số liệu TTCK Việt Nam giai đoạn 2000-2005
Năm
2000
2001
2002
2003
2004
2005
Số CT NY/ĐKGD
5
5
20
22
26
32
Mức vốn hoá
TTCP (% GDP)
0.28
0.34
0.48
0.39
0.84
1.21
Số lượng CTCK
3
8
9
11
13
14
(Nguồn: http://www.bsc.com.vn/News/2010/7/18/103156.aspx)
Giai đoạn 2006-2011: TTCK trải qua giai đoạn tăng trưởng nhanh (giai đoạn
2006-2007) và sụt giảm mạnh (năm 2008-2011), thời gian này cũng là thời
điểm chính sách tiền tệ có nhiều thay đổi để ứng phó với khủng hoảng kinh
tế và kiềm chế lạm phát.
Các biến sử dụng trong mô hình:
Trong các nghiên cứu ở các nước phát triển khuyến nghị một số nhân tố ảnh
hưởng đến TTCK bao gồm: lạm phát, cung tiền, tăng trưởng GDP, tỷ giá,
tiêu dùng nội địa, tỷ lệ thất nghiệp, cán cân thương mại, nhập khẩu. Tuy
nhiên, việc lựa chọn các biến dựa trên các nghiên cứu ở các quốc gia mới nổi
ở khu vực Châu Á phù hợp với đặc điểm biến động mạnh và có nền kinh tế
tương đồng với Việt Nam như nghiên cứu tại thị trường Malaysia của
21
Mansor H Ibrahim và Hassanudden (2003) sử dụng 4 biến GDP, CPI, cung
tiền M2 và tỷ giá; nghiên cứu Rajen Mookerjee, Qiao Yu (1997) ở Singapore
sử dụng biến cung tiền M1 và M2, tỷ giá thực và dự trữ ngoại hối; Tarun K
Mukherjee và Atsuyuki Naka (1995) sử dụng 6 biến lạm phát, tỷ giá, cung
tiền, sản xuất công nghiệp, lãi suất trái phiếu chính phủ dài hạn và lãi suất
vay nợ CMR; Mansor H. Ibrahim (1999) sử dụng 3 biến vĩ mô CPI, tăng
trưởng tín dụng và dự trữ ngoại hối ở Malaysia.
Dựa trên khung lý thuyết nêu trên cũng như để phù hợp với đặc thù về thông
tin và kinh tế VN, 05 nhân tố vĩ mô sau đây được chọn để xem xét tương
quan với thị trường chứng khoán: Cung tiền, Lạm phát, GDP, Lãi suất, Tỉ giá
hối đoái.
Trên thị trường Việt Nam có 02 chỉ số giá mang tính đại diện là chỉ số VN-
Index và chỉ số HNX-Index. Với quy mô vốn hóa, thời gian hoạt động, số
doanh nghiệp niêm yết, số lượng nhà đầu tư tham gia lớn hơn gấp nhiều lần
nên chọn VN-Index làm đại diện cho TTCK Việt Nam.
Biến lãi suất trong hầu hết các nghiên cứu được sử dụng là lãi suất T-bill kỳ
hạn 3 tháng, nhưng dữ liệu Việt Nam từ nguồn IMF không có tính liên tục
theo tháng, nên dựa vào nghiên cứu của Halil Tunalı (2010), tác giả chọn lãi
suất huy động do ngân hàng nhà nước công bố hàng tháng làm đại diện cho
biến lãi suất.
Tăng trưởng trong giá trị sản xuất công nghiệp được nhiều nghiên cứu trên
thế giới sử dụng như là thước đo để thay thế cho biến số tăng trưởng GDP. Ở
Việt Nam, GDP được thống kê theo quý nên không thể thu thập số liệu hàng
tháng. Do đó bài nghiên cứu sử dụng chỉ số sản xuất công nghiệp làm biến
đại diện. Chỉ số sản lượng công nghiệp của Việt Nam được tính theo giá so
sánh năm 1994, bao gồm các giá trị tạo ra của các ngành công nghiệp như
khai khoáng, chế biến, chế tạo, hàng tiêu dùng,….