Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Chiến lược tài chính hỗ trợ phát triển xuất nhập khẩu hàng hóa của doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Đồng Nai đến năm 2010
942
896
92
71
71
Các cơ quan chức năng của tỉnh Đồng Nai nghiên cứu cách thức hoạt động
cụ thể nhằm mục đích giảm phí bảo hiểm cho doanh nghiệp để làm giảm giá thành
của hàng hóa xuất khẩu. Trước mắt có thể nghiên cứu triển khai hình thức quỹ bảo
hiểm tín dụng xuất nhập khẩu do Nhà nước đầu tư vốn là chính, ngoài ra cần huy
động vốn của các công ty bảo hiểm và các nguồn khác.
3.3 Kiến nghị khác:
Nhằm hỗ trợ phát triển xuất nhập khẩu hàng hóa của các doanh nghiệp trên
địa bàn tỉnh Đồng Nai nói riêng và của cả nước nói chung, Nhà nước cần thực hiện
những giải pháp sau để phát huy tối đa vai trò của hoạt động xuất nhập khẩu hàng
hoá đối với sự phát triển của nền kinh tế đất nước:
3.3.1 Tạo môi trường pháp lý thuận lợi để doanh nghiệp hoạt
động xuất khẩu,
nhập khẩu:
Để tạo thông thoáng và thuận lợi cho các doanh nghiệp trong hoạt động xuất
nhập khẩu, theo quyết định của Chính phủ, Bộ Thương mại đã ủy quyền cấp giấy
phép xuất nhập khẩu cho các địa phương và các ban quản lý các khu chế xuất, khu
công nghiệp tập trung. Về thực chất là Bộ Thương mại đã rơi vào tình trạng không
thể kiể
m soát nổi việc xử lý công việc hàng ngày của các đơn vị được phân cấp,
không có thông tin cập nhật, lại phải đi xin thông tin của các ban ngành, địa
phương.
Để tránh tình trạng lúc nắm quá chặt, lúc lại buông lỏng hoàn toàn trong
chức năng quản lý Nhà nước hoạt động xuất nhập khẩu của Bộ Thương mại cần làm
rõ:
Thứ nhất, quy định rõ trách nhiệm của Bộ Thương mại là cơ quan
đầu mối
duy nhất và chịu trách nhiệm trước Chính phủ về hoạt động xuất nhập khẩu của các
doanh nghiệp FDI.
Thứ hai, Tổng cục Hải quan có trách nhiệm theo dõi, giám sát hoạt động xuất
nhập khẩu và báo cáo số liệu tình hình hàng tháng, hoặc hàng tuần với Bộ Thương
mại. Tuy nhiên, vì Bộ Thương mại là cơ quan quản lý Nhà nước về xuất nhập khẩu
nên không thể khoán trắng cho Tổng cục H
ải quan mà cần phải có sự phối hợp nhịp
nhàng giữa Bộ Thương mại và Tổng cục Hải quan. Sự phối hợp này cần cụ thể hoá
72
72
bằng văn bản của Chính phủ và được phổ biến tới từng bộ phận, từng cơ sở và nhân
viên của hai cơ quan.
Nhà nước cần bảo đảm sự ổn định của pháp luật và chính sách đối với đầu tư
nước ngoài, cần làm rõ hơn nữa giữa thực hiện các cam kết trong tiến trình hội
nhập
kinh tế quốc tế với việc bảo hộ s
ản xuất trong nước như hiện nay.
Nhiều doanh nghiệp FDI thường muốn được bảo hộ sản phẩm của mình và
độc quyền tiêu thụ trên thị trường Việt Nam. Điều đó trái với xu thế hội nhập và
làm chậm tiến trình hội nhập kinh tế của Việt Nam với khu vực và thế giới.
Việc bãi bỏ bảo hộ sẽ buộc các doanh nghiệp FDI phải cọ sát với s
ản phẩm
trên thị trường thế giới, trực tiếp cạnh tranh với sản phẩm thế giới. Như vậy
mới
giúp chúng ta chủ động được trong việc thu hút công nghệ cao và nhanh chóng thu
hẹp khoảng cách tụt hậu của Việt Nam với các nước trong khu vực.
Công khai hoá các cam kết quốc tế như cắt giảm thuế nhập khẩu, loại bỏ các
biện pháp phi thuế quan theo quy định của AFTA, APEC và các Hệp định th
ương
mại song phương với lộ trình cụ thể để các doanh nghiệp thuộc các thành phần
kinh
tế làm căn cứ hoạch định chiến lược kinh doanh của mình.
3.3.2 Đổi mới, hoàn thiện chính sách xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá:
3.3.2.1 Đổi mới, hoàn thiện chính sách xuất khẩu hàng hoá:
- Hoàn thiện chính sách thị trường xuất khẩu theo hướng nâng cao vai trò
chủ động và trách nhiệm của Chính phủ và các cơ quan chức năng (trước hết là B
ộ
Thương mại) trong tổ chức và hỗ trợ các doanh nghiệp tìm kiếm, thâm nhập thị
trường mới, bảo vệ và mở rộng thị trường hiện có, phát triển thị trường mới theo
chiều sâu. Chủ động thâm nhập thị trường quốc tế và chủ yếu là vấn đề của các
doanh nghiệp, khi sức cạnh tranh của doanh nghiệp còn yếu thì vai trò chủ động
của
Nhà nước trong chiến l
ược phát triển thị trường, tổ chức thâm nhập thị trường, hỗ
trợ các doanh nghiệp về thông tin thị trường, về kết nối quan hệ bạn hàng, về
đào
tạo nhân lực,… có ý nghĩa rất quan trọng.
Quán triệt quan điểm và nguyên tắc về chủ động thâm nhập thị trường quốc
tế ở cả hai phía là Nhà nước và các doanh nghiệp trong hoạch định chính sách thị
trường xuất kh
ẩu sẽ khắc phục được đồng thời cả hai biểu hiện: "phó mặc cho
73
73
doanh nghiệp" và "ỷ lại vào Nhà nước" trong giải quyết vấn đề thị trường xuất
khẩu
của nước ta.
- Hoàn thiện chính sách mặt hàng xuất khẩu theo hai hướng cơ bản là cần
phân loại các nhóm mặt hàng theo tiêu thức khả năng cạnh tranh để định hướng cho
các doanh nghiệp lựa chọn mặt hàng kinh doanh xuất khẩu phù hợp với năng lực
cạnh tranh của từng doanh nghiệp và có giải pháp hỗ trợ
cho từng nhóm doanh
nghiệp.
Chính sách mặt hàng xuất khẩu phải trên cơ sở bảo đảm thực hiện nguyên tắc
hiệu quả quốc gia trong xuất khẩu, thống nhất giữa mục tiêu nâng cao sức cạnh
tranh của nền kinh tế với sức cạnh tranh của các doanh nghiệp. Theo đó, cần
khuyến
khích các doanh nghiệp tạo ra những mặt hàng xuất khẩu mới đạt giá trị gia tăng
cao và tìm được thị tr
ường xuất khẩu cho những mặt hàng đó. Từng bước chuyển
dịch cơ cấu mặt hàng xuất khẩu từ các mặt hàng có giá trị gia tăng thấp sang các
mặt hàng có giá trị gia tăng cao.
- Hoàn thiện chính sách hỗ trợ và khuyến khích xuất khẩu của Nhà nước
thông qua sử dụng các công cụ, biện pháp kinh tế:
Chính sách hỗ trợ và khuyến khích xuất khẩu của Nhà nước đối với các
doanh nghiệp gồm 3 bộ
phận cơ bản: hỗ trợ và khuyến khích đầu tư phát triển sản
xuất hàng xuất khẩu có giá trị gia tăng cao; hỗ trợ các doanh nghiệp về thông
tin thị
trường, về tiếp cận thị trường và đào tạo nhân lực; hỗ trợ khuyến khích về tài
chính
- tín dụng thông qua sử dụng các công cụ, biện pháp kinh tế như thuế xuất khẩu,
quỹ hỗ trợ xuất khẩu, qu
ỹ bảo hiểm xuất khẩu, quỹ hỗ trợ xúc tiến thương mại,…
Trong bối cảnh hầu hết các quốc gia khi thực hiện chiến lược kinh tế hướng về
xuất
khẩu, để khuyến khích xuất khẩu đều áp dụng mức thuế suất thuế xuất khẩu bằng
0% đối với tất cả các ngành hàng thì việc nâng cao hiệu quả sử dụng các loại quỹ
v
ề
hỗ trợ, khuyến khích, bảo hiểm cho hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp có
vai trò ngày càng quan trọng.
Hiện nay, Quỹ hỗ trợ xuất khẩu do Bộ Tài chính thành lập từ năm 1999 chưa
đáp ứng được nhu cầu hiện tại của các doanh nghiệp tham gia hoạt động xuất khẩu.
Trong thời gian tới, cần đổi mới hoàn thiện quy chế và cơ chế sử dụng Quỹ hỗ
trợ
74
74
xuất khẩu, bám sát các tiêu chí của Luật khuyến khích đầu tư trong nước để trợ
giúp
các doanh nghiệp có tiềm năng, thông qua việc cấp tín dụng ưu đãi với lãi suất
ưu
đãi, bảo lãnh tiền vay và cấp tín dụng xuất khẩu cho người mua (nước ngoài),
tiến
tới thành lập Ngân hàng xuất nhập khẩu.
Cùng với việc hình thành và phát triển các biện pháp tài trợ xuất khẩu, bảo
lãnh hoạt động xuất khẩu thì vi
ệc đổi mới chính sách hỗ trợ khuyến khích xuất khẩu
theo hướng chia sẻ và giảm thiểu rủi ro trong hoạt động xuất khẩu của các doanh
nghiệp có ý nghĩa rất quan trọng trong thúc đẩy và hỗ trợ các doanh nghiệp tiếp
cận
thị trường mới, các thị trường có độ rủi ro cao trong xuất khẩu (Trung Đông, Tây
Nam Á, Châu Phi,…). Vì vậy, Chính phủ cần sớm thành lập Quỹ bảo hiểm xuất
khẩu ho
ặc bảo hiểm rủi ro cho các doanh nghiệp khi tiếp cận thị trường mới, nhất là
trong khâu thanh toán,…; đồng thời, cần hình thành các Quỹ bảo hiểm rủi ro của
các Hiệp hội ngành hàng.
Chính sách hỗ trợ xuất khẩu cũng cần khuyến khích thực hiện dưới các hình
thức tài trợ xuất khẩu như bao thanh toán, bao tiêu,…
3.3.2.2 Đổi mới, hoàn thiện chính sách nhập khẩu hàng hoá:
Chính sách mặt hàng và chính sách thương nhân tham gia nhập khẩu trong
thời kỳ
2006 trở đi được quy định cụ thể tại Nghị định số 12/2006/NĐ-CP ngày
23/01/2006 của Chính phủ Quy định chi tiết thi hành Luật thương mại về hoạt động
mua bán hàng hoá và các hợp đồng đại lý mua, bán, gia công và quá cảnh hàng hoá
với nước ngoài. Tuy nhiên, cùng với việc thực hiện theo danh mục hàng hóa cấm
nhập khẩu, hàng hóa nhập khẩu theo giấy phép của Bộ Thương mại, hàng hóa nhập
khẩu thuộc diện quản lý chuyên ngành, hàng hóa nhậ
p khẩu theo quy định riêng
(gỗ, xăng dầu, phân bón, linh kiện lắp ráp ô tô,…), chính sách mặt hàng nhập
khẩu
cần tiếp tục đổi mới theo hướng chuyển nhanh từ quản lý bằng các biện pháp hành
chính sang sử dụng các công cụ, biện pháp kinh tế để điều chỉnh hàng hóa nhập
khẩu, nâng cao trình độ bảo hộ sản xuất trong nước, cần áp dụng hạn ngạch thuế
quan và thuế tuyệt đối, thuế chố
ng phá giá, thuế chống trợ cấp và các biện pháp
chống chuyển giá; nghiên cứu thiết kế các công cụ, biện pháp kinh tế cũng như
75
75
hàng rào kỹ thuật, hàng rào phi thuế để bảo hộ sản xuất trong nước phù hợp với
tiến
trình hội nhập quốc tế của thương mại Việt Nam.
Trên thực tế, hầu hết các doanh nghiệp tham gia nhập khẩu hàng hóa cũng
đều tham gia hoạt động xuất khẩu. Vì vậy, việc Nhà nước chuyển sang sử dụng
ngày càng phổ biến hơn các công cụ, biện pháp kinh tế để điều tiế
t nhập khẩu sẽ tạo
mội trường chính sách và cơ hội cho các doanh nghiệp được tự do hơn trong lựa
chọn phương án và quyết định kinh doanh phù hợp với khả năng cạnh tranh và lợi
ích của chính doanh nghiệp mình. Mặt khác, cùng với việc thực hiện chính sách
mặt
hàng nhập khẩu theo Nghị định số 12/2006/NĐ-CP ngày 23/01/2006 của Chính phủ
thì việc xây dựng hàng rào kỹ thuật phi thuế có ý nghĩa rất lớn trong việ
c tạo ra lợi
thế cho các doanh nghiệp Việt Nam trong cạnh tranh nhập khẩu hàng hóa với các
doanh nghiệp nước ngoài hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam (lợi thế của nước chủ
nhà trong cạnh tranh).
Chính sách thị trường nhập khẩu cần tiếp tục đổi mới theo hướng hình thành
các cặp thị trường xuất - nhập khẩu trọng điểm, gắn thị trường xuất khẩu với thị
tr
ường nhập khẩu công nghệ nguồn và máy móc thiết bị hiện đại nhằm nâng cao
hiệu quả xuất khẩu. Việc gắn thị trường nhập với thị trường xuất sẽ vừa tiết
kiệm
được nguồn lực đầu tư cho nghiên cứu và thâm nhập thị trường của các doanh
nghiệp, vừa tạo được khả năng mở rộng và phát triển thị trường nước ngoài theo
chi
ều sâu cho các doanh nghiệp.
3.3.2.3 Đổi mới, hoàn thiện cơ chế quản lý và điều hành hoạt động xuất, nhập
khẩu hàng hoá:
- Tiếp tục tách chức năng quản lý kinh doanh xuất nhập khẩu ra khỏi chức
năng, nhiệm vụ của các cơ quan quản lý Nhà nước về xuất nhập khẩu như: Bộ
Thương mại, các Sở Thương mại, Tổng cục Hải quan,… nhằm tiế
n tới xoá bỏ hẳn
cơ chế chủ quản, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp được tự do hoạt động xuất
nhập khẩu theo giấy phép và giấy đăng ký kinh doanh.
- Song song với quá trình chuyển dần quyền lực hành chính trong quản lý
Nhà nước về xuất nhập khẩu từ các cơ quan Nhà nước Trung ương về các địa
phương như đăng ký kinh doanh xuất nhập khẩu, xét duyệt kế hoạ
ch xuất nhập khẩu
76
76
của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, phân bổ hạn ngạch xuất nhập khẩu
cho các doanh nghiệp ở địa phương,… cần khắc phục tình trạng chồng chéo chức
năng nhiệm vụ của các cơ quan Nhà nước theo ngành dọc với các cơ quan Nhà
nước quan hệ ngang ở cả Trung ương và địa phương trong kiểm tra, thanh tra
thương mại, gây phiền hà, khó khăn cho các doanh nghiệp thương mại.
- Để tạ
o điều kiện và căn cứ cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu xây dựng
được tốt chiến lược và kế hoạch kinh doanh xuất nhập khẩu, cần:
+ Xây dựng chính sách xuất nhập khẩu ổn định cho nhiều năm với tầm nhìn
10-20 năm, từ đó cụ thể hoá bằng cách hoạch định chiến lược phát triển xuất nhập
khẩu từng giai đoạn 5 năm, 10 nă
m, 20 năm; các Bộ, Ngành sớm hoàn thành quy
hoạch 10 năm, 20 năm về phát triển sản xuất kinh doanh các ngành hàng, mặt hàng
xuất khẩu; xây dựng cơ cấu mặt hàng xuất nhập khẩu và xác định rõ lộ trình
chuyển
dịch cơ cấu mặt hàng xuất, nhập khẩu cho từng năm, 5 năm và cả thời kỳ.
+ Ngay từ thời điểm hiện nay, khi mới bắt đầu thực hiện cơ chế
điều hành
xuất nhập khẩu cho giai đoạn 2006-2010, cần nghiên cứu, chuẩn bị các nội dung
điều hành xuất nhập khẩu cho những năm tiếp theo đến năm 2020. Trong đó, Nhà
nước cần sớm công bố dự kiến về hàng hoá cấm xuất nhập khẩu; theo hạn ngạch và
bằng giấy phép; hàng hoá xuất nhập khẩu thuộc diện quản lý chuyên ngành cho thời
kỳ 2010-2020 để các doanh nghiệp chủ
động xây dựng trước các chương trình kế
hoạch kinh doanh gắn với việc chuẩn bị nguồn lực của doanh nghiệp cho thực hiện
các chiến lược kinh doanh cạnh tranh trung hạn, dài hạn. Tuy nhiên, để tránh sự
xơ
cứng, không thích hợp với tình hình thực tế biến động do thực thi chính sách và
chiến lược xuất nhập khẩu dài hạn, các cơ quan chức năng quản lý nhà nước về
xuất
nhập khẩ
u một mặt cần nhất quán với mục tiêu định hướng dài hạn đã đặt ra, mặt
khác phải năng động, nhạy bén với tình hình thực tế để kịp thời điều chỉnh, bổ
sung
cơ chế điều hành xuất nhập khẩu theo từng quý, từng năm khi tình hình biến động.
3.3.3 Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, đẩy mạnh các hoạt độ
ng liên kết với các
tỉnh, thành phố trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, mở rộng quan hệ
kinh tế đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế:
Tỉnh Đồng Nai cần ưu tiên đầu tư và hoàn thiện kết cấu hạ tầng các khu, cụm
công nghiệp hiện có. Quy hoạch và đầu tư xây dựng các khu, cụm công nghiệp mới
77
77
ở những huyện chưa có khu, cụm công nghiệp và dọc các trục giao thông quan
trọng. Các khu công nghiệp trên địa bàn Tỉnh phải hướng tới mục tiêu phát triển
bền vững (gắn khu công nghiệp với khu dân cư, khu thương mại - dịch vụ, hình
thành khu công nghiệp đô thị hoàn chỉnh). Xây dựng khu công nghiệp kỹ thuật cao
và khu nông nghiệp kỹ thuật cao. Nghiên cứu bổ sung Quy chế quản lý các khu
công nghiệp. Ban hành Quy chế quản lý các cụm công nghiệp. Tăng c
ường công tác
quản lý xây dựng và quản lý đô thị.
Phát triển mạnh và đồng bộ hệ thống kết cấu hạ tầng trên địa bàn tỉnh phải gắn
kết với hệ thống kết cấu hạ tầng vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Tập trung đầu
tư xây dựng các tuyến quốc lộ, đường cao tốc, các tuyến giao thông nội tỉnh,
tuyến
đường sắt, hệ thố
ng cảng, sân bay, cơ sở vật chất kỹ thuật ngành bưu chính viễn
thông, điện lực, thủy lợi, cấp thoát nước, nhà ở, trường học, khám, chữa bệnh,
các
thiết chế văn hóa, thể dục, thể thao theo quy hoạch được duyệt.
Tập trung cải tạo, chỉnh trang các đô thị lớn: thành phố Biên Hòa, thị xã Long
Khánh. Đồng thời, phát triển các đô thị mới theo quy hoạch: Nhơn Trạch, Tam
Phước, Gò Dầu, Phước Thái, Thạnh Phú, Dầu Giây, La Ngà, Phương Lâm, Long
Giao; chỉnh trang, nâng cấp các đô thị hiện có: thị trấn Long Thành, Gia Ray,
Vĩnh
An, Tân Phú, Định Quán, Trảng Bom theo hướng đảm bảo các tiêu chí về quy
hoạch, kiến trúc đô thị, tiện ích công cộng theo hướng đô thị hiện đại. Đồng
thời
xây dựng thiết chế quản lý đô thị để kiểm soát chặt chẽ kiến trúc đô thị theo
các tiêu
chí đã đề
ra.
Cần giải quyết cơ bản vấn đề nhà ở tại những địa phương có khu công
nghiệp, nâng cao điều kiện sống của dân đô thị, công nhân các khu công nghiệp,
bảo đảm trật tự và vệ sinh đô thị.
Cần nâng cao khả năng khai thác, quản lý sử dụng có hiệu quả các nguồn
vốn trong nước để tập trung xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế - xã
h
ội. Đẩy mạnh hoạt động liên kết với các địa phương trong cả nước, đặc biệt là
các
địa phương vùng Đông Nam bộ, vùng kinh tế trọng điểm phía Nam từ khâu quy
hoạch đến kế hoạch thực hiện các dự án đầu tư trên các lĩnh vực kinh tế - xã
hội,
78
78
đặc biệt là phát triển kết cấu hạ tầng đường giao thông, mạng lưới cấp điện, cấp
nước, thông tin liên lạc, bảo vệ môi trường, đào tạo nguồn nhân lực.
Xây dựng chiến lược tổng thể về hội nhập kinh tế và mở rộng hợp tác quốc
tế gắn với chiến lược phát triển của Tỉnh từ nay đến năm 2010 và tầm nhìn đến n
ăm
2020. Xây dựng hệ thống thông tin kinh tế đối ngoại và tiến tới thành lập trung
tâm
thông tin đủ mạnh để thu thập và xử lý mọi nguồn thông tin về thương mại và đầu
tư trên thị trường thế giới.
3.3.4 Phát triển nhanh nguồn nhân lực có chất lượng cao:
Cho đến nay, ngoài lợi thế so sánh sẵn có về tài nguyên, nguồn nhân lực và
khoa học công nghệ là những yếu tố quyết định trong cuộc cạnh tranh kinh t
ế.
Thắng lợi sẽ thuộc về những quốc gia có chính sách đầu tư phát triển giáo dục và
khoa học công nghệ đúng mức.
Kinh nghiệm từ thất bại của một số nước châu Mỹ Latinh cho thấy, nếu chỉ
đầu tư hiện đại hóa hạ tầng cơ sở trong nước dựa vào thiết bị và bí quyết kỹ
thuật
nhập khẩu mà không có chiến lược học hỏ
i, cải tiến, thay thế công nghệ nhập khẩu
thì sẽ dẫn đến hậu quả là: tuy khoảng cách công nghệ giữa các nước này và các
nước phát triển giảm xuống đáng kể, nhưng năng lực công nghệ trong nước lại tỏ
ra
tụt hậu. Các linh kiện sản xuất trong nước được thay bằng các bộ linh kiện nhập
khẩu. Các công ty con thuộc các công ty đa quốc gia giảm dần sản xuất trong nước
và chuyển sang lắp ráp bộ linh kiện nhập khẩu.
Để làm chủ được công nghệ nhập khẩu, sáng tạo ra công nghệ mới để phát
triển hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, các cơ quan chức năng
của tỉnh Đồng Nai cần có chính sách đào tạo và nuôi dưỡng năng lực sách chế phục
vụ giai đoạn trước mắt cũng như chuẩn bị cho lâu dài.
Như vậ
y, để thành công trong chiến lược hỗ trợ phát triển hoạt động xuất
nhập khẩu của các doanh nghiệp, các cơ quan chức năng của tỉnh Đồng Nai cần có
bước đột phá thu hút hơn nữa đầu tư phát triển giáo dục và khoa học công nghệ.
Bên cạnh đó, cần mời gọi các nhà chuyên môn, các chuyên gia, kỹ sư sống ở nước
ngoài về nước, tạo điều kiện để các trườ
ng đại học lớn ở nước ngoài xây dựng cơ sở
79
79
đào tạo trên địa bàn Tỉnh, tổ chức hội thảo công nghệ, tham quan nhà máy, tham
gia
hội chợ ngành công nghiệp,….
Kết luận chương III
Trong chương 3, tác giả tập trung đề xuất một số giải pháp nhằm thực hiện
chiến lược tài chính hỗ trợ hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu của các doanh nghiệp
trên địa bàn tỉnh Đồng Nai như: các giải pháp về thuế, giải pháp ổn đị
nh tài chính,
tiền tệ và kiểm soát lạm phát, các giải pháp huy động vốn và việc sử dụng vốn.
Tác
giả cũng nêu ra một số kiến nghị về việc tạo môi trường pháp lý thuận lợi; việc
đổi
mới, hoàn thiện chính sách xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá và việc đổi mới, hoàn
thiện các chính sách tài chính, tiền tệ. Tất cả nhằm mục tiêu thực hiện thành
công
chiến lược tài chính hỗ trợ hoạ
t động xuất khẩu, nhập khẩu của các doanh nghiệp
trên địa bàn tỉnh Đồng Nai.
80
80
KẾT LUẬN
Trước thềm hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, từ nay đến năm 2010 là
chặng đường mang tính quyết định để đưa hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu của tỉnh
Đồng Nai lên một tầm cao mới, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh nói
riêng và của cả nước nói chung. Để đạt được những mục tiêu kinh tế, chính trị đã
đề
ra đối với hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, tỉnh Đồng Nai cần vận dụng các chiến
lược tài chính một cách linh hoạt và phù hợp để đẩy mạnh thu hút vốn, phân bổ và
sử dụng vốn một cách hợp lý nhất. Bên cạnh đó, các chiến lược tài chính áp dụng
phải thể hiện được khả năng cạnh tranh của nền kinh tế, phù hợp với xu hướng
phát
tri
ển của đất nước.
Luận văn này được thực hiện trên cơ sở phân tích lý thuyết tài chính kết hợp
với tình hình thực tiễn của ngành công nghiệp tỉnh Đồng Nai. Luận văn tập trung
nghiên cứu hệ thống lý luận về chiến lược tài chính và phát triển của ngành công
nghiệp, đặc biệt là tình hình phát triển mạnh mẽ về ngành công nghiệp của tỉnh
Đồng Nai hiện nay trong bối cảnh nền kinh tế
đất nước đang chuyển đổi. Đồng thời
đánh giá những cơ hội và thách thức của các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Đồng
Nai trong quá trình gia nhập WTO của Việt Nam. Trên cơ sở đó đề xuất các chiến
lược tài chính và các giải phác khác nhằm hỗ trợ hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu
của các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Đồng Nai.
Các chiến lược tài chính được áp dụng phải đồng b
ộ và ngày càng mang tính
thị trường hơn, phải được vận dụng linh hoạt phù hợp với tình hình thực tiễn của
nền kinh tế đất nước trong từng giai đoạn. Từ đó mới phát huy tối đa hiệu quả
hoạt
động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, góp phần phát triển kinh tế của
Tỉnh nói riêng và của cả nước nói chung.