Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Chiến lược tài chính hỗ trợ phát triển xuất nhập khẩu hàng hóa của doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Đồng Nai đến năm 2010
943
896
92
41
41
Hầu hết các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư trên địa bàn tỉnh Đồng Nai là
các doanh nghiệp đầu tư để sản xuất hàng xuất khẩu. Do đó kim ngạch xuất khẩu
chủ yếu tập trung vào sản phẩm xuất khẩu được sản xuất từ nguồn nguyên liệu nhập
khẩu. Bên cạnh đó, mặt hàng xuất khẩu của Tỉnh theo loại hình xuất kinh doanh
(sản phẩm xuất kh
ẩu từ nguồn nguyên liệu trong nước) và xuất gia công cũng tăng
lên đáng kể qua các năm.
Bảng 2.7: Cơ cấu hàng xuất khẩu chia theo mặt hàng
ĐVT: Triệu USD
Mặt hàng
Hàng
nông sản
Hàng
điện tử,
linh kiện
điện tử
Hàng dệt
may, giày
dép
Hàng gỗ,
thủ công
mỹ nghệ
Hàng hóa
khác
Tổng kim
ngạch
Năm 2001 88,51 410,23 408,70 11,65 399,12 1.318,21
Năm 2002 35,92 222,94 506,54 9,20 542,18 1.316,78
Năm 2003 42,49 261,38 618,54 8,01 650,45 1.580,87
Năm 2004 88,04 466,52 839,27 76,44 651,67 2.121,94
Năm 2005 101,32 538,36 1.013,01 111,02 961,71 2.725,42
(Nguồn: Báo cáo xuất khẩu theo mặt hàng của Cục Hải quan Đồng Nai)
Bảng 2.8: Tốc độ tăng của hàng xuất khẩu chia theo mặt hàng
Mặt hàng
Hàng
nông sản
Hàng điện
tử, linh
kiện điện
tử
Hàng dệt
may, giày
dép
Hàng gỗ,
thủ công
mỹ nghệ
Hàng hóa
khác
Tổng kim
ngạch
Năm 2001
Năm 2002 40,58% 54,35% 123,94% 78,97% 135,84% 99,89%
Năm 2003 118,29% 117,24% 122,11% 87,07% 119,97% 120,06%
Năm 2004 207,20% 178,48% 135,69% 954,31% 100,19% 134,23%
Năm 2005 115,08% 115,40% 120,70% 145,24% 147,58% 128,44%
(Nguồn: Tính toán theo số liệu tại bảng 07)
Từ cơ cấu hàng xuất khẩu phân theo nhóm hàng cho thấy các mặt hàng xuất
khẩu chủ yếu của Đồng Nai là hàng dệt may, giày dép, hàng linh kiện điện tử và
điện tử. Tốc độ tăng hàng năm của hàng dệt may và giày dép tăng nhanh hơn tốc độ
tăng chung của cả nước. Bên cạnh đó sự gia tăng về kim ngạch hàng điện t
ử, linh
kiện điện tử và tốc độ tăng hàng năm của các mặt hàng này cho thấy thế mạnh của
ngành công nghiệp tỉnh Đồng Nai ngày càng được phát huy mạnh mẽ, điều này
được minh chứng khi có các tập đoàn lớn của nước ngoài đầu tư tại Đồng Nai ngày
càng nhiều như tập đoàn Nike, tập đoàn Formosa,….
42
42
Sự gia tăng kim ngạch và tốc độ tăng trưởng của các loại hàng hóa xuất khẩu
khác như gỗ và sản phẩm gỗ, sản phẩm chất dẻo, sản phẩm đá quý và kim loại quý,
xe đạp, dây cáp điện,… cũng gia tăng đáng kể qua các năm. Đặc biệt trong 02 năm
qua, các nhà đầu tư tại tỉnh Đồng Nai đã đa dạng hóa các ngành nghề đầu tư.
2.2.4 Cơ cấu hàng nh
ập khẩu của tỉnh Đồng Nai:
Bảng 2.9: Cơ cấu hàng nhập khẩu chia theo loại hình
ĐVT: Triệu USD
Loại hình
Nhập kinh
doanh
Nhập
đầu tư
Nhập
gia công
Nhập
sản xuất
xuất khẩu
Nhập
khác
Tổng cộng
Năm 1996 101,19 86,16 49,02 182,97 1,41 420,75
Năm 1997 144,19 99,16 61,84 490,09 2,01 797,29
Năm 1998 215,28 135,24 52,06 604,07 6,51 1.013,06
Năm 1999 268,47 129,13 56,82 740,53 4,67 1.199,62
Năm 2000 397,81 139,26 54,28 910,91 5,08 1.507,35
Năm 2001 466,38 130,13 55,77 716,59 7,84 1.376,71
Năm 2002 628,46 168,77 89,45 712,47 16,13 1.615,28
Năm 2003 745,22 403,32 107,64 870.48 28,12 2.154,78
Năm 2004 1.057,22 329,57 158,70 1.203,57 19,36 2.768,42
Năm 2005 1.287,31 517,97 206,87 1.507,80 29,82 3.549,77
(Nguồn: Báo cáo nhập khẩu hàng năm của Cục Hải quan Đồng Nai)
Trong những năm qua, hàng nhập khẩu của tỉnh Đồng Nai chủ yếu là nhập
khẩu theo loại hình nhập kinh doanh và nhập nguyên liệu để sản xuất hàng xuất
khẩu. Điều này đảm bảo cho nguồn nguyên liệu để sản xuất hàng xuất khẩu, và đặc
điểm này cho thấy đặc trưng của ngành công nghiệp Đồng Nai là t
ập trung vào sản
xuất hàng xuất khẩu.
Hầu hết các doanh nghiệp tại Đồng Nai có thời gian đầu tư rất dài, thông
thường từ 30 đến 50 năm. Điều này đảm bảo cho sự ổn định về phát triển kinh tế,
cũng như có thể định ra các chiến lược, các sách lược lâu dài để thực hiện.
2.2.5 Thị trường xuất khẩu của tỉnh Đồng Nai:
43
43
Bảng 2.10: Thị trường xuất khẩu hàng hóa của Tỉnh Đồng Nai
ĐVT: triệu USD
Khu vực
Năm
2001
Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005
Châu Á
794,88 712,38 810,99 1.084,31 1.449,92
Tỷ trọng (%)
60,3 54,1 51,3 51,1 53,2
Đông Nam Á
253,10 200,15 238,71 324,66 501,48
Tỷ trọng (%) 19,2
15,2 15,1 15,3 18,4
Châu Âu
334,83 306,81 357,28 468,95 555,99
Tỷ trọng (%)
25,4 23,3 22,6 22,1 20,4
EU
292,64 260,72 309,85 401,05 493,30
Tỷ trọng (%) 22,2
19,8 19,6 18,9 18,1
Châu Mỹ
116,00 200,15 292,46 398,92 479,67
Tỷ trọng (%)
8,8 15,2 18,5 18,8 17,6
Châu Phi
14,50 9,22 12,65 23,34 16,35
Tỷ trọng
1,1 0,7 0,8 1,1 0,6
Châu Đại Dương
58,00 88,22 107,50 146,41 223,48
Tỷ trọng (%)
4,4 6,7 6,8 6,9 8,2
Tổng cộng
1.318,21 1.316,78 1.580,87 2.121,94 2.725,42
(Nguồn: Báo cáo xuất khẩu của Cục Hải quan Đồng Nai)
Trong 05 năm qua, các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Đồng Nai chủ yếu
xuất khẩu vào thị trường Châu Á. Tuy nhiên trong thời gian gần đây xu hướng xuất
khẩu vào thị trường này bị giảm do tình hình bất ổn về chính trị, chính sách tài
chính của các nước thay đổi,…
Tỷ trọng xuất khẩu hàng hóa của các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Đồng
Nai vào thị trường Châu Âu cũng chi
ếm tỷ trọng đáng kể. Năm 2001 tỷ trọng xuất
khẩu chiếm 22,2% trong tổng lượng hàng hóa xuất khẩu của tỉnh, nhưng đến những
năm gần đây tỷ trọng hàng hóa xuất khẩu bị giảm xuống do các yêu cầu về chất
lượng, kỹ thuật,… nghiêm ngặt hơn.
Hàng hóa xuất khẩu vào thị trường Châu Mỹ ngày càng gia tăng, đây là
thành quả của Hiệp
định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ đã được ký kết. Trong thời
gian tới, với việc Việt Nam gia nhập WTO đây sẽ là thị trường hấp dẫn đối với
các
doanh nghiệp Việt Nam.
44
44
2.2.6 Thị trường nhập khẩu của tỉnh Đồng Nai :
Bảng 2.11: Thị trường nhập khẩu hàng hóa của các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh
Đồng Nai
ĐVT: triệu USD
Khu vực
Năm
2001
Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005
Châu Á
820,52 982,09 1.262,70 1.727,49 2.222,16
Tỷ trọng (%)
59,6 60,8 58,6 62,4 62,6
Đông Nam Á
276,72 379,59 394,32 548,15 713,50
Tỷ trọng (%)
20,1 23,5 18,3 19,8 20,1
Châu Âu
334,54 345,67 443,88 537,07 670,91
Tỷ trọng (%)
24,3 21,4 20,6 19,4 18,9
EU
282,23 313,36 407,25 492,78 592,81
Tỷ trọng (%)
20,5 19,4 18,9 17,8 16,7
Châu Mỹ
132,16 200,29 305,98 404,19 525,37
Tỷ trọng (%)
9,6 12,4 14,2 14,6 14,8
Châu Đại Dương
89,49 87,23 142,22 99,66 131,34
Tỷ trọng (%)
6,5 5,4 6,6 3,6 3,7
Tổng cộng
1.376,71 1.615,28 2.154,78 2.768,42 3.549,77
(Nguồn: Báo cáo nhập khẩu của Cục Hải quan Đồng Nai)
Tương tự như thị trường xuất khẩu, hàng hóa nhập khẩu của các doanh
nghiệp trên địa bàn tỉnh Đồng Nai chủ yếu từ thị trường Châu Á, Châu Âu và Châu
Mỹ. Trong đó thị trường Châu Á chiếm tỷ trọng cao nhất (trung bình chiếm khoảng
60% tổng lượng hàng hóa nhập khẩu), đây là thị trường rộng lớn, đa dạng và nhiều
tiềm năng. Các doanh nghiệp nhập khẩu chủ yếu các loại nguyên liệu để sản xuất
hàng xuất khẩu, các loại nguyên liệu này có giá rẻ hơn so với các thị trường
khác
trên thế giới nhưng đáp ứng đủ các yêu cầu về chất lượng và nguồn cung ứng.
2.3 CHIẾN LƯỢC TÀI CHÍNH HỖ TRỢ HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU
HÀNG HÓA CỦA CÁC DOANH NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐỒNG NAI
TRONG THỜI GIAN QUA
Trong thời gian qua, cùng thực hiện chủ trương, chính sách chung của Đảng
và Nhà nước về việc phát huy mọi nguồn lực để phát triển kinh tế đất nước. Tỉnh
Đồng Nai đã phát huy lợi thế của mình, nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường
trong nước, khu vực và thế giới. Bên cạnh việc đàm phán với các nước, xúc tiến
45
45
thương mại, thì chiến lược tài chính đóng vai trò quan trọng vào việc hỗ trợ
hoạt
động xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá của các doanh nghiệp trên địa bàn Tỉnh.
Chính sách tài chính - tiền tệ thực hiện chung trong cả nước trong những
năm qua và hiện nay được định hướng tập trung khuyến khích mạnh mẽ hoạt động
xuất khẩu, nhập khẩu, nhanh chóng tiếp cận và hoà nhập với sự phát triển của nề
n
kinh tế thế giới. Các chiến lược tài chính hỗ trợ hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu
của
các doanh nghiệp trên địa bàn Tỉnh bao gồm các chiến lược sau:
2.3.1 Chiến lược huy động và sử dụng vốn đầu tư:
Việc huy động, bố trí cơ cấu và sử dụng nguồn vốn có hiệu quả là nhân tố
quyết định khả năng cạnh tranh và tăng hiệu quả
của hoạt động xuất khẩu, nhập
khẩu, liên quan trực tiếp đến sự tăng trưởng của nền kinh tế trong quá trình hội
nhập. Chính sách đầu tư trong thời gian qua của tỉnh Đồng Nai đã phát huy khai
thác nội lực, tranh thủ tối đa ngoại lực, khuyến khích đầu tư, đa dạng hoá các
hình
thức đầu tư phát triển. Chuyển dịch cơ cấu đầu tư, cơ c
ấu kinh tế trên cơ sở khai
thác các thế mạnh, các lợi thế so sánh của Tỉnh (nông sản, may mặc, giày da,
điện
tử…), gắn với thị trường để nâng cao năng lực sản xuất và sức cạnh tranh hàng
xuất
khẩu. Tăng cường sự chỉ đạo và huy động các nguồn lực cần thiết để đẩy nhanh tốc
độ công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Công nghiệp của Tỉnh vừa phát tri
ển các ngành
sử dụng nhiều lao động, vừa đi nhanh vào một số ngành, lĩnh vực có công nghệ
hiện
đại, công nghệ cao. Chú trọng phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ, xây dựng
một số tập đoàn doanh nghiệp lớn đi đầu trong cạnh tranh và hiện đại hoá. Phát
triển mạnh và nâng cao chất lượng các ngành dịch vụ thương mại, tài chính, ngân
hàng,…. Xây dựng đồng bộ và từng bước hiện đại hoá hệ thố
ng kết cấu hạ tầng
giao thông, điện nước.
2.3.1.1 Chiến lược huy động vốn:
Nguồn vốn đầu tư tại tỉnh Đồng Nai đa dạng, gồm: vốn ngân sách Nhà nước,
vốn tín dụng Nhà nước, vốn các doanh nghiệp Nhà nước, vốn đầu tư khu vực tư
nhân và nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), vốn ODA. Nguồn vốn đầu tư
lớn nh
ất tại tỉnh Đồng Nai là nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Nhà nước điều
hành trực tiếp vốn ngân sách và tín dụng Nhà nước, can thiệp có mức độ vào vốn
46
46
đầu tư của doanh nghiệp Nhà nước, điều hành gián tiếp thông qua cơ chế chính
sách
đối với khu vực tư nhân và FDI.
Thu hút vốn đầu tư trong nước
Việc huy động vốn đầu tư trong nước trên địa bàn Tỉnh từ năm 2001 đến
năm 2005 đạt 22.129 tỷ đồng, tăng gấp 3,35 lần thời kỳ 1996-2000, chiếm 47,6%
tổng vốn đầu tư xã hội.
Từ năm 2001 đến 2005 tỉ
nh Đồng Nai đã tập trung huy động vốn đầu tư
trong nước đạt kết quả cao. Vốn ngân sách Nhà nước cho đầu tư phát triển được
tăng cường hơn trước; 5 năm qua thực hiện đạt 3.840 tỷ đồng, chiếm 17% vốn đầu
tư trong nước và mức tăng trưởng bình quân 34%. Vốn tín dụng đầu tư đạt 9.194 tỷ
đồng, chiếm 41,4% vốn đầu tư trong nước. Các nguồn vố
n khác như vốn huy động
của doanh nghiệp Nhà nước, vốn huy động của dân cư, vốn đầu tư của kinh tế ngoài
quốc doanh cũng đạt kết quả cao và chiếm 41,6% vốn trong nước. Nhờ huy động có
kết quả nguồn vốn đầu tư trong nước nên đã tập trung đầu tư phát triển cơ sở hạ
tầng trên địa bàn Tỉnh, đầu tư chiều sâu, đổi mới thi
ết bị công nghệ, nâng cao sức
cạnh tranh của các doanh nghiệp Nhà nước, tăng năng lực sản xuất của các ngành
kinh tế.
Cơ cấu đầu tư trên địa bàn Tỉnh phù hợp với nhu cầu vốn đầu tư của quá
trình công nghiệp hoá, có 60,8% vốn đầu tư vào ngành công nghiệp, 35,6% đầu tư
vào ngành vận tải và bưu chính viễn thông, ngành giáo dục, y tế, văn hoá, quản
lý
Nhà nước,… còn lại 3,6% đầu tư vào nông nghiệ
p.
Thu hút vốn đầu tư nước ngoài
Công tác thu hút vốn đầu tư nước ngoài từ 2001 đến 2005 đạt kết quả cao, nhờ
sự chỉ đạo tích cực của Tỉnh ủy, UBND tỉnh và sự phấn đấu nỗ lực của các cơ quan
chức năng trong việc triển khai thực hiện nhiều biện pháp xúc tiến đầu tư nhằm
tăng
cường tiếp thị, đàm phán trực ti
ếp, cải tiến môi trường đầu tư thông thoáng, đơn
giản hoá thủ tục hành chính trong cấp phép đầu tư, rút ngắn thời gian làm thủ
tục
cấp phép, giảm giá thuê đất, thực hiện một số chính sách ưu đãi cho nhà đầu tư.
Đến cuối năm 2005, có 698 dự án đầu tư nước ngoài với vốn đăng ký 8,0 tỷ
USD, vốn thực hiện trên 4,45 tỷ USD, chiếm 55,6% vốn đăng ký. Các dự án đầu tư
47
47
nước ngoài chủ yếu tập trung vào lĩnh vực công nghiệp (90% dự án), về hình thức
đầu tư có 70% dự án đầu tư 100% vốn nước ngoài. Hiện nay đã có 31 Quốc gia và
vùng lãnh thổ có dự án đầu tư vào Đồng Nai, trong đó dẫn đầu là Đài Loan, Hàn
Quốc, Nhật Bản, Thái Lan,….
2.3.1.2 Sử dụng vốn đầu tư:
Tổng vốn đầu tư trong lĩnh vực công nghiệp đã tăng tỷ trọng t
ừ 48,42% (thời
gian 1996-2000) lên 60,76% (2001-2005). Tỉnh Đồng Nai đã có sự tăng cường đầu
tư mới, đầu tư chiều sâu ở cả 3 khu vực: doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp tư
nhân và khu vực FDI. Vốn đầu tư trong công nghiệp đã được định hướng tăng cho
những ngành công nghệ cao, có khả năng cạnh tranh và xuất khẩu như: sản phẩm
giày dép, hàng dệt may, hàng điện tử,… Thực hiện Nghị
định 36/1997/CP ngày
24/04/1997 về quy chế khu chế xuất, khu công nghệ cao được thực hiện theo
phương thức các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế được Nhà nước giao
hoặc cho thuê đất để đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng đã tạo điều kiện thuận lợi
cho
xuất khẩu với những ưu đãi về thuế, tiền sử dụng đất, thủ tục xu
ất nhập khẩu,…
Đầu tư vào lĩnh vực kết cấu hạ tầng chủ yếu được tài trợ bằng vốn ngân sách,
góp phần quyết định vào khả năng cạnh tranh và xuất khẩu của các thành phần kinh
tế, chiếm 14% tổng vốn đầu tư trên toàn Tỉnh giai đoạn 1996-2000 lên 15,11% giai
đoạn 2001-2005.
Lĩnh vực đào tạo, giáo dục, khoa học công nghệ và một số lĩnh vự
c khác:
trong 5 năm qua từ năm 2001 đến năm 2005, đầu tư hơn 1.000 tỷ đồng, chiếm tỷ
trọng 4,52% tổng vốn đầu tư huy động trong nước nhưng vẫn còn rất nhỏ, chưa đáp
ứng yêu cầu thực tế.
Trong lĩnh vực nông nghiệp, tỉnh Đồng Nai đang thực hiện việc giảm dần cơ
cấu đầu tư từ 9% tổng nguồn vốn huy
động trong Tỉnh năm 2000 xuống còn 5% đến
cuối năm 2006.
Đến nay, các cơ quan chức năng trong Tỉnh ngày càng xác định rõ thế mạnh
và tiềm năng của Tỉnh mình để vạch ra chiến lược đầu tư hợp lý, cụ thể cho từng
lĩnh vực, từng ngành nghề, không đầu tư tràn lan vào những lĩnh vực, ngành nghề
hoạt động kém hiệu quả. Tỉnh Đồng Nai đang đặt ra những chi
ến lược tài chính cụ
48
48
thể nhằm làm tăng hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp và phát triển hoạt
động
xuất khẩu, nhập khẩu.
2.3.2 Chính sách tài chính trong thời gian qua:
Cùng thực hiện thống nhất chính sách tài chính trong cả nước, thời gian qua
tỉnh Đồng Nai đã gặp những thuận lợi và khó khăn sau:
2.3.2.1 Chính sách thuế:
Bên cạnh một số thành quả đáng khích lệ, chính sách thuế giai đoạn 2001-
2005 còn có nhiều tồn tại làm hạn chế
tác dụng của công cụ thuế. Trước hết, tồn tại
của hệ thống chính sách thuế giai đoạn này là còn phức tạp, chưa rõ ràng, chưa
phù
hợp với trình độ và điều kiện của người thu thuế và người nộp thuế, chưa thực sự
tạo điều kiện thuận lợi cho đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh. Chính sách
thuế
cũng chưa khuyến khích, h
ướng dòng vốn đầu tư vào những ngành công nghiệp
then chốt.
Thứ hai, các chính sách thuế cụ thể được ban hành còn tách rời nhau, chưa
gắn bó hỗ trợ nhau để phát huy tác dụng đồng bộ của cả hệ thống chính sách thuế.
Thuế doanh thu bị trùng lặp, chồng chéo qua các khâu, gây áp lực đẩy giá lên
cao,
ảnh hưởng đến người tiêu dùng và tăng gánh nặng cho sản xuất. Thuế xuất khẩu,
thuế nhập khẩu còn bộc lộ nhi
ều tồn tại. Thuế suất dàn trải quá rộng. Thuế xuất
khẩu có 11 mức từ 0% đến 45%, thuế nhập khẩu có 36 mức cho hơn 3000 mã nhóm
hàng với mức thuế từ 0% đến 150% làm cho cơ cấu thuế trở nên phức tạp. Trong đó
có hơn 50% mặt hàng chịu thuế thấp hơn 5% làm cho kết quả thu ngân sách bị hạn
chế. Thuế suất cao và quá cao đánh vào một số mặt hàng trong nước chư
a sản xuất
được hoặc sản xuất chưa hiệu quả, chưa thoả mãn nhu cầu trong nước làm gia tăng
buôn lậu và gian lận thương mại.
Thứ ba, một số quy định về miễn giảm thuế của các sắc thuế không rõ ràng
và cụ thể, đôi khi bị áp dụng tuỳ tiện, tạo điều kiện phát sinh các tiêu cực.
Việc thực
thi các chính sách thuế còn tình trạng phân biệt đối xử, ch
ưa đảm bảo tính bình
đẳng giữa các thành phần kinh tế.
49
49
Trong thời gian qua, Luật thuế giá trị gia tăng đã khuyến khích mạnh mẽ
xuất khẩu. Hàng hoá xuất khẩu không phải đóng thuế giá trị gia tăng mà còn được
khấu trừ thuế đầu vào. Ngoài ra, luật thuế giá trị gia tăng còn giúp quản lý
thuế chặt
chẽ, tạo ra cơ chế kiểm soát từ xã hội về số thuế nộp cho Nhà nước.
Quốc hội đã thông qua một số luật thu
ế sửa đổi, bổ sung các Luật thuế giá trị
gia tăng, Luật thuế thu nhập doanh nghiệp, Luật thuế tiêu thụ đặc biệt. Điểm nổi
bật
của Luật thuế giá trị gia tăng sửa đổi là giảm số mức thuế suất từ 4 mức xuống
còn
3 mức là 0%, 5%, 10%, bỏ quy định khấu trừ khống, quy định điều kiện thanh toán
qua ngân hàng là điều kiệ
n bắt buộc khi xem xét hoàn thuế đầu vào đối với hàng
hoá xuất khẩu, bổ sung một số mặt hàng vào diện chịu thuế giá trị gia tăng và bổ
sung một số mặt hàng vào diện không chịu thuế giá trị gia tăng.
Thực hiện áp dụng chung về mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp với
mức thuế suất cơ bản là 28% thống nhất cho cả doanh nghiệp trong nước và doanh
nghiệ
p có vốn đầu tư nước ngoài, tăng mức khống chế các khoản chi phí quảng cáo,
tiếp thị, khuyến mãi của doanh nghiệp từ 5% hoặt 7% lên 10%. Riêng các doanh
nghiệp đầu tư xây dựng dây chuyền sản xuất mới, mở rộng quy mô, đổi mới công
nghệ đều được miễn hoặc giảm thuế thu nhập doanh nghiệp cho phần thu nhập tăng
thêm do đầu tư này mang lại.
Cải cách chính sách thuế trong thời gian qua đ
ã góp phần tích cực vào việc
khai thác các tiềm năng về vốn trong nền kinh tế để đầu tư phát triển sản xuất
kinh
doanh. Đến nay, đã hình thành một hệ thống chính sách thuế tương đối đầy đủ, hợp
lý áp dụng thống nhất và bình đẳng với mọi thành phần kinh tế, mọi loại hình
doanh
nghiệp, không phân biệt nguồn vốn chủ sở hữu. Hệ thống thuế Việt Nam đã t
ừng
bước tiến đến sự tương đồng với thông lệ quốc tế, đáp ứng được chính sách phát
triển kinh tế đối ngoại trong thời kỳ đổi mới.
Tuy nhiên, chính sách thuế nhập khẩu của Việt Nam trong quá trình hội nhập
sẽ gặp khó khăn do mâu thuẫn giữa bảo hộ công nghiệp nội địa và nâng cao sức
cạnh tranh hàng công nghiệp Việt Nam. Sức cạnh tranh của sản phẩm công nghi
ệp
Việt Nam còn hạn chế. Nếu không bảo hộ thì công nghiệp nội địa sẽ không phát
50
50
triển được vì không đủ sức cạnh tranh với hàng ngoại. Nếu tiếp tục bảo hộ ngành
công nghiệp nội địa thì chính các ngành này sẽ mất dần khả năng cạnh tranh. Làm
thế nào để vừa nuôi dưỡng, vừa nâng cao khả năng cạnh tranh của những ngành
công nghiệp non trẻ để đáp ứng đòi hỏi cạnh tranh trong thời gian hội nhập sắp
tới
thực sự là một thách thức. M
ặt khác, thuế nhập khẩu được phân loại dựa vào công
dụng đã tạo ra kẽ hở cho gian lận và tiêu cực.
Bên cạnh đó, chính sách thuế giá trị gia tăng hiện nay vẫn còn một số điểm
cần tiếp tục hoàn thiện. Thuế giá trị gia tăng được kê khai theo hai phương pháp
(phương pháp trực tiếp và phương pháp khấu trừ) và còn nhiều mức thuế suất làm
cho việc kê khai, khấu trừ, quyết toán thu
ế, quản lý thuế rất phức tạp. Mặt khác, quy
định về thanh toán qua ngân hàng đối với hàng xuất khẩu là chưa phù hợp với điều
kiện thực tiễn ở Việt Nam. Ngoài ra, một trong những tồn tại lớn của ngành thuế
hiện nay là chưa có đủ các điều kiện cần thiết để đảm bảo tính khả thi của chính
sách thuế, đặc biệt là về công tác quản lý theo dõi báo cáo thuế, thu thu
ế, công tác
quản lý đội ngũ cán bộ ngành thuế,….
2.3.2.2 Chính sách tỷ giá hối đoái:
Có thể coi chính sách tỷ giá trong điều kiện hội nhập như một trong những
cánh của để đóng, mở, hạn chế hoặc đón nhận các luồng vốn và hàng hoá dịch vụ từ
trong nước ra nước ngoài và ngược lại. Vì vậy, chính sách tỷ giá cần thận trọng
nhưng hết sức mềm dẻo, tuân theo quy lu
ật kinh tế thị trường.
Sau khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực năm 1997, Việt Nam đã lựa chọn
cơ chế tỷ giá thả nổi có điều tiết, từ bỏ cơ chế tỷ giá neo mềm. Theo đó, tỷ giá
thị
trường được giao dịch quanh tỷ giá chính thức do Ngân hàng nhà nước (NHNN)
công bố và một biên độ được ấn định sẵn. Việc thay thế tỷ giá chính thức bằ
ng tỷ
giá bình quân liên ngân hàng cho thấy tỷ giá do NHNN công bố phản ánh mức tỷ
giá do thị trường quyết định. NHNN tham gia vào thị trường bằng hoạt động mua
bán ngoại tệ trên thị trường này.
Trước quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới, trên nền tảng cơ chế tỷ giá
đã lựa chọn, việc điều hành chính sách tỷ giá của NHNN đang thực hiện theo hướng
ngày càng linh hoạt hơn. Trong thời gian qua, NHNN đ
ã thực thi lộ trình linh hoạt