Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng báo cáo tài chính tại đơn vị hành chính sự nghiệp trên địa bàn huyện Đức Huệ, tỉnh Long An
2,070
563
155
26
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Trong chương 1, tác giả đã trình bày khái quát tổng quan về các nghiên
cứu đã được công bố ở trong nước và nước ngoài có liên quan đến BCTC và các
nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng BCTC của thế giới và Việt Nam. Qua đó cho
chúng ta thấy chất lượng BCTC là một nội dung quan trọng vì nó đem lại những
thông tin kinh tế cần thiết và phù hợp cho người đứng đầu tổ chức ra quyết định.
Điều này lại càng quan trọng hơn đối với BCTC của các đơn vị HCSN vì những
đơn vị này đang sử dụng ngân sách cho việc thực thi các hoạt động.
Sau khi phân tích vấn đề nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu và kết quả
nghiên cứu của từng công trình, tác giả đã đưa ra những nhận xét và xác định
khoảng trống nghiên cứu. Tác giả chưa phát hiện ra có nghiên cứu nào về xác
định các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng BCTC tại đơn vị HCSN trên địa bàn
huyện Đức Huệ, tỉnh Long An, do đó luận văn dựa trên cơ sở các nghiên cứu
trước về chất lượng BCTC để xác định, kế thừa các nhân tố, phương pháp nghiên
cứu,...để xây dựng mô hình đánh giá mức độ tác động của từng nhân tố đến chất
lượng BCTC tại các đơn vị HCSN trên địa bàn huyện Đức Huệ, tỉnh Long An.
Chương 2, tác giả sẽ tiếp tục trình bày cơ sở lý thuyết của đề tài.
27
CHƯƠNG 2
CƠ SỞ LÝ THUYẾT
2.1. Cơ sở lý thuyết về đơn vị HCSN
2.1.1. Khái niệm
Theo Giáo trình kế toán hành chính sự nghiệp của Trường Đại học kinh tế
TP. HCM xuất bản năm 2012 do PGS.TS Võ Văn Nhị chủ biên, đơn vị HCSN là
những đơn vị sử dụng kinh phí NSNN để hoạt động chủ yếu trong các lĩnh vực
quản lý nhà nước và cung cấp dịch vụ công cho xã hội. Như vậy, các đơn vị
HCSN có thể chia làm hai loại:
Đơn vị hành chính: là các đơn vị hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực quản lý
Nhà nước (như các bộ, ủy ban nhân dân các cấp,..)
Đơn vị sự nghiệp: là các đơn vị hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực cung cấp
các dịch vụ công cho xã hội (như các bệnh viện công, trường học công lập,..)
2.1.2. Đặc điểm
Hoạt động theo dự toán được cấp có thẩm quyền giao và được NSNN cấp
toàn bộ hay cấp một phần dự toán được duyệt.
Các đơn vị HCSN chủ yếu hoạt động phi lợi nhuận. Tuy nhiên, đơn vị
HCSN vẫn có thể thực hiện một số hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm mục tiêu
khai thác tối đa các nguồn thu nhưng đây chỉ là hoạt động phụ.
Việc quản lý tài chính và thực hiện kế toán ở các đơn vị HCSN chịu sự chi
phối của Luật NSNN.
Có trách nhiệm thu thập, xử lý và cung cấp thông tin về hoạt động của đơn
vị để phục vụ cho đối tượng sử dụng theo quy định.
Đơn vị HCSN trong cùng một ngành theo một hệ thống dọc được phân
thành ba cấp:
+ Đơn vị dự toán cấp 1: trực tiếp nhận dự toán ngân sách năm, phân bổ dự
toán ngân sách cho cấp dưới, thực hiện quản lý kinh phí của cấp mình và các đơn
vị trực thuộc.
28
+ Đơn vị dự toán cấp 2: trực thuộc đơn vị dự toán cấp 1, nhận dự toán
ngân sách từ cấp 1 và phân bổ dự toán cho cấp 3, thực hiện quản lý kinh phí của
cấp mình và các đơn vị trực thuộc.
+ Đơn vị dự toán cấp 3: là đơn vị dự toán trực tiếp nhận dự toán ngân sách
từ đơn vị dự toán cấp 1 hoặc cấp 2, thực hiện quản lý kinh phí của mình và đơn
vị dự toán cấp dưới.
2.1.3. Cơ chế quản lý tài chính
Việc quản lý tài chính trong các đơn vị HCSN được thực hiện theo một
trong các phương pháp sau:
+ Phương pháp thu đủ, chi đủ: tất cả các khoản thu của đơn vị được
nộp hết vào ngân sách, Nhà nước sẽ cấp phát lại cho đơn vị sử dụng. Phương
pháp này thường được áp dụng cho đơn vị HCSN không có nguồn thu hoặc có
nguồn thu không đáng kể,
+ Phương pháp thu, chi chênh lệch: các khoản thu của đơn vị được giữ
lại tại đơn vị để sử dụng, nếu thiếu Nhà nước sẽ cấp thêm kinh phí cho đơn vị.
Phương pháp này thường được áp dụng cho đơn vị HCSN có nguồn thu thường
xuyên, lớn và ổn định.
+ Phương pháp quản lý theo định mức: các đơn vị được áp dụng
phương pháp này phải lập dự toán cho từng khoản mục chi và phải thực hiện chi
theo đúng dự toán. Phương pháp này được áp dụng nhằm quản lý vấn đề chi tiêu
tại các đơn vị.
+ Phương pháp khoán trọn gói: với các đơn vị hành chính, Nhà nước
thực hiện cơ chế khoán biên chế; với các đơn vị sự nghiệp, Nhà nước thực hiện
cơ chế tự chủ tài chính. Phương pháp này giúp các đơn vị tự chủ hơn trong chi
tiêu, thúc đẩy các đơn vị tiết kiệm và nâng cao hiệu quả hoạt động.
2.2. Báo cáo tài chính đơn vị HCSN
2.2.1. BCTC theo chế độ kế toán HCSN
2.2.1.1. Khái niệm
BCTC là những báo cáo tổng hợp nhất về tình hình tài sản, tình hình cấp
phát, tiếp nhận kinh phí của Nhà nước, kinh phí viện trợ, tài trợ và tình hình
sử
29
dụng từng loại kinh phí. Ngoài ra, các đơn vị sự nghiệp có hoạt động kinh doanh
còn phải tổng hợp tình hình thu, chi và kết quả của từng hoạt động sự nghiệp,
hoạt động kinh doanh trong kỳ kế toán. BCTC là phương tiện trình bày tình hình
tiếp nhận và sử dụng kinh phí cũng như khả năng sinh lời và thực trạng tài chính
của đơn vị cho những người quan tâm. Thông tin trình bày trên BCTC giúp
người sử dụng đánh giá được kết quả hoạt động trong quá khứ, đánh giá tình hình
tài chính hiện tại và dự đoán được sự thay đổi dòng tiền trong tương lai.
2.2.1.2. Mục đích
BCTC dùng để cung cấp thông tin về tình hình tài chính, kết quả hoạt
động tài chính và các luồng tiền từ hoạt động của đơn vị, cung cấp cho những
người có liên quan để xem xét và đưa ra các quyết định về các hoạt động tài
chính, ngân sách của đơn vị. Thông tin BCTC giúp cho việc nâng cao trách
nhiệm giải trình của đơn vị về việc tiếp nhận và sử dụng các nguồn lực theo quy
định của pháp luật.
2.2.1.3. Nguyên tắc lập và trình bày BCTC
BCTC khi lập và trình bày phải tuân thủ các nguyên tắc sau đây:
+ Hoạt động liên tục: BCTC phải được lập trên cơ sở đơn vị đang hoạt
động liên tục (ít nhất là 12 tháng) trừ khi đơn vị có ý định giải thể hoặc ngừng
hoạt động. Khi các BCTC không được lập dựa trên cơ sở hoạt động liên tục thì
phải giải trình trong thuyết minh.
+ Trình bày nhất quán: việc trình bày và phân loại các khoản mục trong
BCTC cần phải có sự nhất quán từ kỳ kế toán này sang kỳ kế toán khác.
+ Trọng yếu và tổng hợp: những khoản mục có tính chất trọng yếu được
trình bày riêng biệt trên BCTC, những khoản mục không trọng yếu được tập hợp
lại với những khoản mục có cùng tính chất hoặc chức năng.
+ Bù trừ: Tài sản và các khoản nợ phải trả không được bù trừ với nhau
trừ khi CMKT yêu cầu hoặc cho phép. Các khoản thu nhập và chi phí không
được bù trừ với nhau trừ khi CMKT cho phép.
30
+ Thông tin có thể so sánh: những thông tin bằng số có thể so sánh được
của kỳ kế toán phải được trình bày trên BCTC trừ trường hợp đó là kỳ kế toán
đầu tiên đơn vị mới thành lập.
2.2.1.4. Hệ thống BCTC
Theo Thông tư số 107/2017/TT-BTC ngày 10/10/2017 của Bộ Tài chính
ban hành quy định hệ thống BCTC gồm 4 báo cáo, cụ thể như sau:
Báo cáo tình hình tài chính: là BCTC tổng hợp, phản ánh tổng quát toàn
bộ giá trị tài sản hiện có và nguồn hình thành tài sản của đơn vị kế toán tại
thời
điểm 31/12 hàng năm, bao gồm tài sản hình thành từ nguồn NSNN cấp, nguồn
thu từ hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ, nguồn thu phí (phần được khấu
trừ để lại đơn vị theo quy định) và các nguồn vốn khác tại đơn vị.
Số liệu trên báo cáo tình hình tài chính cho biết toàn bộ giá trị tài sản hiện
có của đơn vị theo cơ cấu tài sản và cơ cấu nguồn vốn hình thành tài sản. Căn cứ
vào báo cáo tình hình tài chính có thể nhận xét, đánh giá khái quát tình hình
tài
chính của đơn vị.
Báo cáo kết quả hoạt động: phản ánh tình hình và kết quả hoạt động của
đơn vị, bao gồm kết quả hoạt động từ tất cả các nguồn lực tài chính hiện có của
đơn vị theo quy chế tài chính quy định.
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ: Xác định nguồn tiền vào, các khoản mục chi
ra bằng tiền trong năm báo cáo và số dư tiền tại ngày lập báo cáo, nhằm cung cấp
thông tin hữu ích về những thay đổi của tiền tại đơn vị.
Thông tin về lưu chuyển tiền tệ của đơn vị rất hữu ích trong việc cung cấp
cho người sử dụng BCTC về mục đích giải trình và ra quyết định, cho phép
người sử dụng BCTC đánh giá việc đơn vị tạo ra tiền để phục vụ cho các hoạt
động của mình và cách thức đơn vị sử dụng số tiền đó.
Thuyết minh BCTC: là một bộ phận hợp thành không thể tách rời của
BCTC bao gồm các thông tin bổ sung cho các thông tin trình bày trên báo cáo
tình hình tài chính, báo cáo kết quả hoạt động, báo cáo lưu chuyển tiền tệ cũng
như các thông tin cần thiết khác theo yêu cầu.
31
Thuyết minh cung cấp các diễn giải hoặc phân tích chi tiết các khoản mục
được trình bày trong các báo cáo trên và thông tin về các khoản mục không đáp
ứng tiêu chí được trình bày trong các báo cáo trên.
2.3. Chất lượng BCTC:
2.3.1. Khái niệm chất lượng:
Chất lượng là một phạm trù phức tạp và có nhiều định nghĩa khác nhau.
Có rất nhiều quan điểm khác nhau về chất lượng. Hiện nay có một số định nghĩa
về chất lượng được các chuyên gia chất lượng đưa ra như sau:
Theo Joseph M. Juran cho rằng “Chất lượng là sự phù hợp với nhu cầu”
Theo Philip B. Crosby cho rằng “ Chất lượng là sự phù hợp với các yêu
cầu hay đặc tính nhất định”.
Theo Edwards W. Deming cho rằng “Chất lượng được đo bởi sự thỏa mãn
nhu cầu của khách hàng. Nếu một sản phẩm mà không đáp ứng được nhu cầu
khách hàng thì dù sản phẩm đó có tốt đến mấy thì cũng bị xem là sản phẩm kém
chất lượng”.
Trong mỗi lĩnh vực khác nhau, với mục đích khác nhau, nên có nhiều
quan điểm khác nhau về chất lượng. Tuy nhiên, định nghĩa chất lượng được thừa
nhận ở phạm vi quốc tế đó là định nghĩa của Tổ chức tiêu chuẩn hóa quốc tế
(ISO). Theo điều 3.1.1 của tiêu chuẩn ISO 9000- 2005, định nghĩa “ Chất lượng
là mức độ của một tập hợp các đặc tính vốn có đáp ứng các yêu cầu”.
Như vậy, chất lượng là khái niệm đặc trưng cho khả năng thỏa mãn nhu
cầu của khách hàng hay người sử dụng sản phẩm, dịch vụ. Sản phẩm hay dịch vụ
nào không đáp ứng được nhu cầu của khách hàng thì bị coi là kém chất lượng
cho dù sản phẩm, dịch vụ đó được làm ra với trình độ công nghệ sản xuất có hiện
đại đi nữa. Đánh giá chất lượng cao hay thấp phải đứng trên quan điểm của người
sử dụng. Tương tự đối với thông tin được tạo ra từ BCTC được xem là có chất
lượng khi nó đáp ứng được nhu cầu ra quyết định của người sử dụng thông tin.
32
2.3.2. Đặc điểm chất lượng của BCTC
2.3.2.1. Theo quan điểm của CMKT Việt Nam
Theo Chuẩn mực kế toán Việt Nam số 01 ban hành năm 2002, các đặc
điểm chất lượng của thông tin được đề cập trong phần “các yêu cầu cơ bản đối
với kế toán” (VAS 01 đoạn 10 -15) như sau:
Trung thực: các thông tin và số liệu kế toán phải được ghi chép và báo
cáo trên cơ sở các bằng chứng đầy đủ, khách quan và đúng với thực tế về hiện
trạng, bản chất nội dung và giá trị của nghiệp vụ kinh tế phát sinh.
Khách quan: các thông tin và số liệu kế toán phải được ghi chép và báo
cáo đúng với thực tế, không bị xuyên tạc, không bị bóp méo.
Đầy đủ: mọi nghiệp vụ kinh tế, tài chính phát sinh liên quan tới kỳ kế toán
phải được ghi chép và báo cáo đầy đủ, không bị bỏ sót.
Kịp thời: các thông tin và số liệu kế toán phải được ghi chép và báo cáo
kịp thời, đúng hoặc trước thời hạn qui định, không được chậm trễ.
Có thể hiểu được: các thông tin và số liệu kế toán trình bày trong BCTC
phải rõ ràng, dễ hiểu đối với người sử dụng. Thông tin về những vấn đề phức tạp
trong BCTC phải được giải trình trong phần thuyết minh.
Có khả năng so sánh: các thông tin và số liệu kế toán cần được tính toán
và trình bày nhất quán. Trong trường hợp không nhất quán thì phải giải trình
trong phần thuyết minh để người sử dụng BCTC có thể so sánh và đánh giá.
2.3.2.2. Theo quan điểm của CMKT công quốc tế
Theo IPSAS và khuôn mẫu lý thuyết kế toán công, thì chất lượng TTKT là
chất lượng BCTC, thông tin trình bày trên BCTC là thông tin hữu ích cung cấp
cho người sử dụng thực hiện các quyết định. Các đặc điểm chất lượng của thông
tin trên BCTC gồm:
Tính dễ hiểu: Thông tin trình bày trên BCTC phải dễ hiểu để người sử
dụng thông tin có thể hiểu được ý nghĩa chung, hiểu được các hoạt động và môi
trường làm việc của đơn vị. BCTC của đơn vị công nên được trình bày bằng
ngôn ngữ đơn giản, dễ hiểu để đáp ứng nhu cầu và kiến thức của người sử dụng.
33
Người sử dụng BCTC khu vực công được giả định là có kiến thức nhất định để
có thể đọc, xem xét và phân tích thông tin được trình bày trên BCTC.
Tính phù hợp và đáng tin cậy: Để thông tin trên BCTC có ích cho người
sử dụng thì các thông tin trình bày trên BCTC phải thích hợp với người sử dụng
để nó có thể đánh giá được các sự kiện ở quá khứ, hiện tại và tương lai. Do đó,
thời gian cung cấp thông tin cần kịp thời, lợi ích từ việc sử dụng thông tin
phải
lớn hơn chi phí bỏ ra cho việc tìm kiếm thông tin.
Tính trung thực: Các thông tin trình bày trung thực các giao dịch và các
sự kiện phát sinh, không có các lỗi cơ bản hay bị bóp méo.
Tính khách quan: để BCTC có độ tin cậy cao thì thông tin trình bày trên
BCTC phải khách quan, không được xuyên tạc hoặc bóp méo một cách cố ý thực
trạng của đơn vị. BCTC sẽ không được xem là khách quan nếu việc lựa chọn
hoặc trình bày có ảnh hưởng đến việc ra quyết định hoặc xét đoán và cách lựa
chọn trình bày đó nhằm đạt đến kết quả mà người lập BCTC đã biết trước.
Tính so sánh được: các thông tin do BCTC cung cấp phải đảm bảo cho
người sử dụng có thể so sánh với các kỳ trước, kỳ kế hoạch để xác định được xu
hướng biến động thay đổi các sự kiện trong tương lai. Ngoài ra, người sử dụng
cũng có nhu cầu so sánh BCTC giữa các đơn vị để đánh giá công tác quản lý
cũng như so sánh thông tin khi có sự thay đổi về cơ chế chính sách, điều hành
của mỗi đơn vị áp dụng.
Tính kịp thời: là trạng thái thông tin sẵn sàng cho người sử dụng, kịp thời
cho mục đích ra quyết định và trách nhiệm giải trình; thiếu kịp thời làm cho
thông tin thiếu hữu ích.
Tính có thể kiểm chứng: nhằm đảm bảo thông tin trên BCTC được trình
bày trung thực các sự kiện kinh tế và các sự kiện khác, giúp cho người sử dụng
thông tin nhận được sự phù hợp của những giả định và phương pháp soạn thảo,
đo lường, trình bày và giải thích các thông tin. Có thể kiểm chứng có nghĩa là
một vài đo lường độc lập cũng đạt được kết quả đo lường kế toán mà đơn vị áp
dụng.
34
2.4. Lý thuyết nền sử dụng trong luận văn
2.4.1. Lý thuyết thông tin bất cân xứng (Asymmetric Information)
Lý thuyết thông tin bất cân xứng ra đời vào những năm 1970, lý thuyết
này giúp ba nhà nghiên cứu George Akerlof, Joseph Stiglitz, Micheal Spence
nhận được giải Nobel kinh tế vào năm 2001.
Năm 1970, G.A. Akerlof đưa ra lập luận đầu tiên về thông tin bất cân
xứng trong nghiên cứu “The Market of Lemons: Quality Uncertainty and the
Market Mechanism” . Trong nghiên cứu này, tác giả lấy bối cảnh thị trường mua
bán ô tô cũ tại Mỹ. Tác giả cho rằng trong thị trường này người bán biết rõ tình
trạng xe mình muốn bán còn người mua thì hoàn toàn không biết được không tin
gì. Chính vì điều này mà người mua đưa ra những mức giá thấp hơn giá người
bán muốn bán, kết quả là những người bán xe có chất lượng tốt lần lượt rút khỏi
thị trường để lại thị trường những chiếc xe có chất lượng xấu. Tác giả muốn
chứng minh rằng, khi mà thông tin bất cân xứng thì giao dịch khó có thể thực
hiện.
Năm 1973, Michael Spence (1973) đã đưa ra cơ chế phát tín hiệu
(Signaling) trong bài báo “Job-Market Signaling”. Theo ông thì ở thị trường lao
động, bên mua (người tuyển dụng) hoàn toàn không biết được năng lực của bên
bán (người ứng tuyển), vì vậy bên bán cần phải cung cấp thông tin về năng lực
của mình thông qua bằng cấp. Từ đó, thuật ngữ “Signaling” được dùng để mô tả
việc người bán đưa ra những thông tin cần thiết cho người mua để làm giảm bớt
sự bất cân xứng thông tin giữa hai bên.
Từ những nội dung cơ bản về lý thuyết thông tin bất cân xứng, có thể thấy
thông tin bất cân xứng là tình trạng mà các bên tham gia giao dịch không có được
thông tin như nhau, thông tin không đầy đủ, không kịp thời, không tin cậy, không
chính xác và không tạo điều kiện để tiếp cận dễ dàng đối với các đối tượng sử
dụng thông tin trên BCTC. Như vậy, cần đưa ra những giải pháp như tăng mức
độ tham gia rộng rãi của người dân trong việc ra quyết định và tăng cường mức
độ giám sát của cơ quan quản lý về tài chính của đơn vị HCSN. Tăng cường việc
công khai thông tin BCTC đơn vị HCSN ra bên ngoài sẽ giúp cho nhà đầu tư,
35
thanh tra, kiểm toán, người dân… có nhiều thông tin hơn khắc phục tình trạng
thông tin bất cân xứng, nâng cao tính minh bạch của thông tin trên BCTC.
Ngoài ra, lý thuyết này còn tác động đến nhân tố Hệ thống pháp lý. Bằng
việc quản lý, kiểm soát bằng các văn bản pháp luật, chất lượng thông tin trên
BCTC sẽ được minh bạch hơn, góp phần giảm thiểu các rủi ro.
2.4.2. Lý thuyết đại diện (Agency theory)
Lý thuyết đại diện được phát triển bởi Jesen & Meckling trong một công
bố năm 1976. Lý thuyết này nghiên cứu mối quan hệ giữa 2 đối tượng đó là
người ủy quyền (chủ sở hữu - principals) và người được ủy quyền (người đại
diện - agents). Mối quan hệ đại diện còn thể hiện trong mối quan hệ giữa nhà
quản lý cấp cao với các nhà quản lý cấp thấp hơn trong hệ thống phân quyền,
giữa nhà quản lý với người trực tiếp sử dụng các nguồn lực của tổ chức. Người
ủy quyền (chủ sở hữu) giao phó công việc cho người được ủy quyền (người đại
diện) thông qua một hợp đồng. Lý thuyết này cho rằng, nếu chủ sở hữu và người
đại diện đều muốn tối đa hóa lợi ích của mình, thì có cơ sở để tin rằng người
đại
diện sẽ không luôn luôn hành động vì lợi ích tốt nhất cho người chủ sở hữu. Lý
thuyết cũng cho rằng xung đột sẽ phát sinh khi có thông tin không đầy đủ và bất
cân xứng giữa chủ sở hữu và người đại diện trong tổ chức. Lý thuyết này đặt ra
vấn đề cần có sự quản lý của người chủ sở hữu đối với người đại diện, cần có hệ
thống giám sát cũng như cơ chế khen thưởng thích hợp để người đại diện phục
vụ vì lợi ích tối đa của chủ sở hữu. Tuy nhiên, đây là vấn đề không hề dễ dàng
và
hao tốn một khoản chi phí gọi là chi phí đại diện.
Đối với khu vực công Việt Nam, nhìn dưới góc độ lý thuyết này thì chủ sở
hữu là nhân dân, người đại diện là Nhà nước, Quốc hội, Chính phủ. Nhân dân
trao quyền cho Nhà nước trong việc sử dụng nguồn lực và NSNN để thực thi
công vụ trong quyền hạn của mình nhằm mang lại lợi ích cho người dân. Đồng
thời, họ cũng có trách nhiệm giải trình về các khoản thu, chi, phân bổ NSNN
cùng kết quả hoạt động cũng như chịu trách nhiệm về các hoạt động này. Các cơ
quan hành chính Nhà nước có thể vì lợi ích cá nhân mà cung cấp thông tin chưa
đầy đủ, chưa chính xác. Trong khi đó, Quốc hội và Chính phủ lại cần những