Luận văn thạc sĩ khoa học ngữ văn " Truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1975 - 1985 "
3,410
16
117
hiện những nhận thức của nhà văn về con người, về cuộc đời trong chiều
sâu
triết lý nhân sinh. Dạng nhân vật này thường gắn với những chủ đề tự thú
hay xám hối. Có thể gặp dạng nhân vật này trong những truyện ngắn của
Nguyễn Minh Châu, Ma Văn Kháng, Dương Thu Hương…
Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975 đặc
biệt xuất hiện nhiều nhân vật tự nhân thức. Đó là người hoạ sỹ trong Bức
tranh, Nhĩ trong Bến Quê, Quỳ trong Người đàn bà trên chuyến tàu tốc
hành, nhà văn T trong Sắm vai…Quá trình tự nhận thức của người hoạ sỹ
diễn ra khá phức tạp và gay gắt trong hoàn cảnh hết sức khó xử, thậm chí là
trớ trêu. Lần thứ nhất (trong chiến tranh), sau khi vừa từ chối vẽ chân dung
cho người lính trưa hôm trước thì ngay sáng hôm sau chính người chiến sỹ
đó
nhận nhiệm vụ giúp hoạ sỹ qua chặng đường nguy hiểm. Lần thứ hai (trong
hoà bình) khi hoạ sỹ đã quên lời hứa đem bức tranh đến cho bà mẹ của
người
chiến sỹ kia khiến bà trở lên mù loà thì bỗng dưng gặp lại người chiến sỹ,
giờ
là thợ cắt tóc cho mình. Từ đây, quá trình đấu tranh nội tâm của người hoạ
sỹ
bắt đầu diễn ra gay gắt. Lúc đầu ông ta tìm cách tự biện minh cho mình: tôi
là
một nghệ sỹ chứ đâu phải là một anh thợ vẽ truyền thần. Công việc cuả
người
hoạ sỹ là phục vụ cả số đông, chứ không phải chỉ phục vụ một
người[11/127].
Nhưng chính ông ta cũng không thể chấp nhận được lí do này và quyết định
chạy trốn khỏi người thợ cắt tóc dù cho anh không một lần tính sổ chuyện 8
năm trước. Rồi ông lại nghĩ đến việc bí mật gửi tiền cho anh, cái số tiền đã
thu được nhờ bức ký hoạ đó. Nhưng lại một lần nữa lương tâm ông cất lời
phản đối không cho phép mình lấy đồng tiền để thay cho cái mặt
mình[11/130]. Cuối cùng ông quyết định phải chường cái mặt ra, chứ không
được lẩn tránh[11/131]. Cuộc tự vấn lương tâm bị đẩy lên đến đỉnh điểm
trong đoạn đối thoại mà người hoạ sỹ tưởng tượng ra. ở đó những thái cực
đối lập nhau có điều kiện tranh biện. Vì vậy nó giúp người hoạ sỹ nhận ra
trong con người tôi đang sống, lẫn lộn người tốt kẻ xấu, rồng phượng lẫn
rắn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-
tnu.edu.vn
92
rết, thiên thần và ác quỷ[11/133]. Có thể thấy, đó là một cuộc vật lộn ở bên
trong để ánh sáng con người được thắp lên từ sự xám hối chân thành, để cái
xấu, cái thấp hèn được bộc lộ phơi bày trước lương tâm nghiêm minh phán
xét[64/ 198].
Nhà văn T (Sắm vai) cũng là một phiên bản khác của nhân vật tự nhận
thức. Anh là một nhà văn có bề dày kinh nghiệm trong cuộc đời trong nghề
nghiệp. Có thời điểm anh từng tự tước bỏ đi hết mọi cái phù phiếm, những
lớp vỏ bề ngoài vô bổ, tất cả những cái gì lấp lánh có thể lừa dối mình và
người khác. Vậy mà cũng có lúc anh chấp nhận đóng vai một người chồng
hoàn hảo có gương mặt như còn hoá trang dở để vừa lòng cô vợ trẻ. Nhưng
rồi cuối cùng anh thấy mình là một diễn viên tồi, không thể cả cuộc đời đóng
trọn vai đó được. Anh tự nhìn thấy cái lố bịch của mình già rồi vẫn còn chơi
trống bỏi để rồi quyết tâm trở lại chính mình. Còn Quỳ (Người đàn bà trên
chuyến tàu tốc hành) cả cuộc đời lang thang đi tìm chân trời của những giá
trị tuyệt đối mới đau đớn nhận ra rằng tôi đã không coi họ là nhưng con
người
đang sống giữa cuộc đời mà lại đòi hỏi nơi họ một thánh nhân. Tôi đã đi tìm
cái tuyệt đối không bao giờ có[11/148]. Mặt khác, Quỳ đinh ninh rằng tình
yêu của tôi có thể cứu được hết tất cả mọi người nhưng thực tế tình yêu mà
tôi tưởng hết sức màu nhiệm, chẳng cứu sống được một ai cả[11/179]. Tuy
nhiên, cũng phải thấy rằng triết lý tự nhận thức trong một số truyện ngắn
của
Nguyễn Minh Châu đôi lúc còn lộ liễu. Điều đó cũng phần nào làm hạn chế
giá trị của truyện.
Với các nhân vật của Vũ Tú Nam, Ma Văn Kháng, Dương Thu Hương,
Xuân Thiều…quá trình tự nhận thức cũng là sự nghiền ngẫm, rút ra những
kinh nghiệm sống. Nó gắn liền với sự tự nhận thức của mỗi người về nhân
cách trong chiều sâu triết lý nhân sinh. Thể (Tháng ngày đã qua- Xuân
Thiều) đi gần hết cuộc đời mới nhận ra rằng được sống như chính mình
cũng
chẳng dễ dàng gì[60/143]. Còn nhân vật Từ (Kiểm- Chú bé - Con người-
Ma Văn Kháng) qua cuộc đời của chú bé Kiểm lại hiểu được Đau khổ cũng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-
tnu.edu.vn
93
có thể làm nảy sinh những nhân cách có tâm hồn phi thường[31/194]. Giọt
nước mắt muộn màng của Luyến (Mất điện- Ma Văn Kháng) cũng là sự
thức tỉnh chính mình về lối sống ích kỷ, thu mình, để cho những kẻ xấu
ngang nhiên chà đạp mà không một chút kháng cự. Sống với thời gian hai
chiều (Vũ Tú Nam) lại là bản kiểm chân thành và xúc động về cuộc đời của
ông An trước dòng chảy thời cuộc.
Có thể nói nhân vật tự nhận thức đã và đang xuất hiện ngày càng nhiều
trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975. Nó đánh dấu sự phát triển mạnh mẽ
trong quan niệm nghệ thuật về con người của nhà văn, đồng thời góp phần
phát hiện một bình diện chỉnh thể mới của con người- nhân cách hay con
người trong con người [50/47].
2.1.2 Nhân vật tính cách, số phận
Văn xuôi giai đoạn chiến tranh xem xét con người chủ yếu ở phương
diện đời sống chính trị, xã hội vì vậy việc phân loại nhân vật cũng theo quan
điểm giai cấp và dân tộc nên nhân vật mà nó tạo ra thường là những con
người trùng khít với bộ áo khoác xã hội của nó. Sau chiến tranh, với những
biểu hiện tư tưởng nghệ thuật mới về con người, con người phong phú phức
tạp, do đó cũng xuất hiện những nhân vật có cấu trúc nhân cách phức tạp,
không thể phân tuyến rạch ròi. Nhân vật không còn đại diện cho một kiểu,
một lớp người nào trong xã hội. Mỗi nhân vật trong truyện ngắn sau 1975
thường mang một số phận khác nhau. Kiểu nhân vật số phận này không mới
lạ trong văn xuôi Việt Nam, nhưng suốt thời kỳ 1945-1975 chúng hầu như
không có mặt. Bởi nguyên tắc xây dựng nhân vật ở giai đoạn này chủ yếu
tuân thủ phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa: xây dựng những tính cách
điển hình trong hoàn cảnh điển hình. Khi trở về với hiện thực đời thường đa
dạng, muôn màu muôn vẻ thì những nhân vật mang số phận riêng lại trở
thành đối tượng nhận thức chính. Con người được miêu tả trong truyện
ngắn
sau 1975 tuy chưa được miêu tả với đầy đủ những thăng trầm trong số phận
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-
tnu.edu.vn
94
như ở tiểu thuyết nhưng những cảnh ngộ, những bi kịch riêng thì đã hình
thành rõ nét.
Đó là số phận của người đàn bà làng chài trong Chiếc thuyền ngoài xa
của Nguyễn Minh Châu. Người đàn bà ấy đã từng là con một nhà khá giả,
nhưng vì xấu nên không có ai lấy. Sau đó chị có mang với một anh con trai
nhà hàng chài giữa phá và bắt đầu cuộc đời lênh đênh trên sông nước. Cuộc
sống dưới thuyền không xuôn xẻ gì lại thêm một lũ con nheo nhóc khiến anh
chồng từ một anh con trai cục tính nhưng hiền lành không bao giờ đánh đập
vợ con trở thành một kẻ vũ phu. Bi kịch của đàn bà ở chỗ cứ ba ngày bị
chồng đánh một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng vậy mà chị ta một mực
khăng khăng xin quý toà bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng
bắt con bỏ nó[11/342]. Tại sao một người bị chồng đánh một cách tàn nhẫn
lại không hề kêu một tiếng, không chống trả, cũng không tìm cách trốn
chạy?
Vì sao chị ta thà hàng ngày chịu đòn của chồng chứ nhất định không li dị
hắn? Thì ra, ngã chồng ấy là chỗ dựa quan trọng trong cuộc đời của người
đàn bà làng chài, nhất là những khi biển động. Hơn thế chị còn phải nuôi
những đứa con, chị đâu chỉ sống cho riêng mình, chị còn phải sống vì chúng
nữa. Mặt khác cuộc sống trên thuyền cũng có lúc bình yên, vợ chồng con cái
sống vui vẻ, thuận hoà. Dường như trong hoàn cảnh này, cách hành xử của
người đàn bà này là không thể khác. Giải pháp bỏ chồng mà ông chánh án
đưa ra cho trường hợp của chị là không khả thi. Bởi hơn ai hết người đàn
bà
ấy hiểu rằng chị đau đớn về thân thể nhưng không thể oán giận chồng. Số
phận của anh ta cũng nghiệt ngã chẳng kém gì chị. Anh ta đáng bị lên án
bởi
sự vũ phu và bởi tự cho phép mình cái quyền được hành hạ người khác để
thoả mãn những bực bội trong lòng. Nhưng anh ta cũng đáng nhận được sự
cảm thông bởi gánh nặng gia đình. Xét đến cùng anh ta chỉ là nạn nhân của
hoàn cảnh sống khắc nghiệt. ở đây Nguyễn Minh Châu nhìn nhận số phận
của con người trong cuộc sống không đơn giản mà đa diện, nhiều chiều. Bởi
thế người nghệ sĩ bao giờ cũng nhìn thấy đằng sau cái màu hồng của ánh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-
tnu.edu.vn
95
sương mai trong bức ảnh còn là hình ảnh người đàn bà làng chài bước ra
khỏi
tranh. Chị là hiện thân của những lam lũ khốn khó đời thường nhưng cũng
tiềm ẩn trong đó những vẻ đẹp bình dị của cuộc sống.
Số phận của chú bé Kiểm (Kiểm - chú bé- con người) của Ma
Văn Kháng lại khiến người đọc không khỏi day dứt. Bố mẹ bỏ nhau, Kiểm ở
với bố, mẹ kế và hai đứa em cùng cha khác mẹ. Trên thân thể em thường hằn
lên những dấu vết của những trận đòn và sự hành hạ từ bà mẹ kế. Bà dì vốn
cưng chiều con mình, để thoả mãn tình thương ấy bà phải hành hạ, trút cái
vất vả khổ cực lên đầu em. Thậm chí cả hai đứa trẻ cũng sớm bị ảnh hưởng
cái thói cay nghiệt, cái đặc quyền được đày đoạ con chồng nên đành hanh,
nhiều khi quái ác đổ tội lên thằng anh để nó lại phải hứng chịu đòn oan.
Một
đứa trẻ không may rơi vào cảnh ngộ éo le này, rất dễ trở nên cằn cỗi, thui
chột hết cái mầm nhân bản, hết khả năng yêu thương, thậm chí là lạnh lùng,
nhẫn tâm với đồng loại. Nhưng Kiểm không chai lì, không tàn nhẫn. Bị vùi
dập và dồn vào cảnh thiếu thốn cả vật chất lẫn tình cảm thì em vãn còn giữ
được một khoảng cách, chưa đồng hoá với cái xấu. Em yêu thương và chăm
sóc chu đáo cho hai đứa em cùng cha khác mẹ với tư cách là một người anh.
Em sẵn sàng giúp đỡ và chia sẻ với những người nghèo khó. Khi người mẹ
kế lâm bệnh, em đã tự nguyện trở về với một tình yêu vừa non tơ vừa quảng
đại và quả cảm. Bởi em nghĩ suốt đời làm người khác khổ thì mình có sung
sướng gì đâu. Kiểm là hệ quả của số phận rắc rối giao tiếp qua nhau, là hệ
quả những va đập dưới áp lực của những quan niệm đạo đức và dục vọng
khác nhau. Sự mưu cầu lợi ích vị kỷ, sức thôi thúc của dạ dầy và trái tim,
lầm
lỡ cả những tái tạo hồi sinh đã đảo lộn cơ tầng đời sống… làm nảy sinh
những đứa trẻ bơ vơ, mất nơi nương tựa và bẽ bàng[31/84].
Nhân vật Dì Út trong truyện ngắn cùng tên của Thanh Quế cũng là một
số phận mang đầy tính bi kịch. Đó là người phụ nữ phải chịu cả nỗi đau về
thể xác lẫn tinh thần. Sau khi tiễn chồng đi tập kết ở Miền Bắc, người phụ
nữ
này thường xuyên bị bọn Mỹ nguỵ bắt đi tù, đánh đạp tra khảo luôn. Đau
đớn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-
tnu.edu.vn
96
hơn cả là đứa con gái duy nhất cũng chết vì bệnh trong lúc chị đang ở tù.
Sau
ngày miền Nam giải phóng, chị vẫn nuôi mẹ chồng và chờ chồng nhưng
chồng chị thì không một lần trở lại. Hoá ra anh ta giờ đã là một quan chức,
lại sắp đi làm tuỳ viên kinh tế ở nước ngoài. Để leo lên được địa vị đó, anh
ta
sẵn sàng bịa ra một cái thư giả của một người đã chết vu oan, bêu xấu vợ để
lừa tổ chức. Khi vợ biết chuyện, anh ta một mặt đổ thừa cho hoàn cảnh, mặt
khác quỳ xuống van vỉ chị bỏ qua. Những người thân muốn chị vạch mặt kẻ
bội bạc dối trá kia nhưng chị giữ im lặng. Nếu làm như thế liệu vết thương
lòng của chị có thể nguôi ngoai hay chị sẽ chỉ nhận được nhiều ánh mắt cảm
thương hơn của người khác? Sự im lặng ấy là biểu hiện cuả lòng bao dung
hay sự chấp nhận thực tại phũ phàng? Số phận của con người đã đi qua
chiến
tranh không chỉ có vầng hào quang mà còn có cả những đau thương mất
mát.
Khi viết về cái đa đoan của con người trong cuộc sống, truyện ngắn
sau 1975 cũng xuất hiện kiểu nhân vật cô đơn. Trong những năm chiến
tranh
không có con người cô đơn mà chỉ có con người tập thể, con người quần
chúng. Xung quanh họ là bạn bè, đồng chí, dân tộc… con người không có
điều kiện để soi ngắm tâm hồn mình. Sau 1975, với quan niệm con người cá
thể, với sự thức tỉnh ý thức cá nhân thì kiểu nhân vật cô đơn không phải là
hiếm. Hơn nữa ở giai đoạn giao thời trong bề bộn cuộc sống thì thật - giả,
trắng - đen, tốt -xấu không phải lúc nào cũng minh bạch như hồi chiến
tranh.
Con người có lúc hoang mang trước nhiều lựa chọn. Vì thế con người cô
đơn
trở thành một điểm xoáy thu hút nhiều tác giả truyện ngắn. Bằng nhiều
cách,
mỗi nhà văn đã đi vào khám phá các phương diện khác của sự cô đơn.
Nguyễn Minh Châu đi vào nỗi bất hạnh của con người sau chiến tranh với
một khoảng trống trong tâm hồn không gì bù đắp nổi (Quỳ- Người đàn bà
trên chuyến tàu tốc hành). Dương Thu Hương lại xây dựng một kiểu nhân
vật cô đơn đi tìm kiếm hạnh phúc, thứ hạnh phúc không thể với được trong
tầm tay (Ngân- Những bông bần li). Nhân vật cô đơn trong truyện ngắn của
Ma Văn Kháng thì tìm cách thì chạy trốn quá khứ (ông Thiềng- Ngày đẹp
Số ____hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-
tnu.edu.vn
97
trời). Còn Nghĩa (Căn nhà ở phố- Nam Ninh) lại cô đơn lạc lõng ngay
chính
gia đình của mình. Đến nỗi anh phải tạo ra một kịch bản giả viết thư cho
chính mình để tìm một cái cớ hợp lý cho việc rời khỏi gia đình.
Nhiều nhân vật cô đơn trong truyện ngắn sau 1975 là những con
người vừa bước ra khỏi chiến tranh. Họ không dễ dàng hoà nhập với những
thay đổi trong cuộc sống hoà bình. Tuy nhiên ngày càng xuất hiện những
nhân vật cô đơn về trạng thái tâm hồn. Đó là sản phẩm của những va đập
trong cuộc sống đời thường, trong những quan niệm đạo đức nhân sinh
trong
cách ứng xử như nhân vật Đính trong Người không đi cùng chuyến tàu của
Nguyễn Quang Thân. Anh là một con người có tài năng và trách nhiệm cao
trong công việc. Anh luôn tìm ra một phương án tối ưu để sửa chữa cho
những dự án sai lầm. Đó là một công việc rất hữu ích nhưng không phải lúc
nào cũng được mọi người ủng hộ. Người cho rằng anh đang chống lại tập
thể,
người lại tưởng anh đang tranh chấp quyền lực, đến người anh yêu cũng
không dám ra mặt ủng hộ anh. Vì thế, cuộc sống của anh luôn vấp phải rất
nhiều những hiểu lầm, những lời chỉ trích gay gắt và suốt cuộc đời anh đã
luôn phải đấu tranh cho chân lý trong cô đơn.
Như vậy, cô đơn thực chất là chuyện của những số phận, những con
người cá nhân nhưng nó không phải là vấn đề riêng tư, nhỏ bé. Đi vào từng
mảnh đời cô độc là những vấn đề mang tính xã hội lớn lao. Thể hiện con
người cô đơn chính là biểu hiện của chủ nghĩa nhân đạo trong truyện ngắn
sau 1975 để góp phần giúp cho người đọc hiểu rõ hơn những tình cảm sâu
kín thuộc về vấn đề con người.
ở mỗi truyện ngắn sau chiến tranh là từng cá thể, từng mảnh đời thầm
lặng hay sôi động. Chân dung và số phận con người đã được thể hiện khá
sinh động sâu sắc, đa chiều. Đi sâu vào tâm hồn con người, nhà văn thấy
được ở mỗi số phận ấy từng niềm vui, nỗi buồn hay sự đau khổ, khao khát,
đam mê.
2.2. Những đổi mới bước đầu trong nghệ thuật xây dựng nhân vật
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-
tnu.edu.vn
98
Có ý kiến cho rằng truyện ngắn sống bằng nhân vật và nó bộc lộ đầy
đủ những đặc tính của thể loại, mở ra cho văn học những đề tài, những vấn
đề mới của đời sống bằng những hình tượng văn học. Nếu truyện ngắn
1945-
1975 thể hiện quan niệm con người tập thể, con người quần chúng nên nhân
vật thường được thể hiện trong các sự kiện, biến cố lịch sử thì truyện ngắn
sau 1975, trở về con người cá nhân. Nhân vật thường được thể hiện qua các
mối quan hệ đời thường, qua thế giới nội tâm, qua miền ý thức, vô thức đầy
bí ẩn, phức tạp. Với xu hướng khám phá, thể hiện con người mới mẻ như
vậy, truyện ngắn giai đoạn 1975- 1985 đã hình thành một số kiểu nhân vật
mới. Cách biểu hiện nhân vật cũng đang có những chuyển biến mới.
2.2.1. Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật
Văn học Việt Nam 30 năm chiến tranh xây dựng con người quần
chúng, con người hiện thân cho ý chí cách mạng. Đó là những con người
cầm
súng và quyết thắng lấn át con người bình thường, con người tinh thần, ý chí
nổi lên trên con người vật chất, con người vì nghĩa lớn lấn át con người
riêng tư[81/428].Việc đi sâu khai thác tâm lí con người chưa được coi là
một
thao tác bình thường trong văn học giai đoạn này. Tuy nhiên, khi văn học
trở
về với con người cá nhân, con người trong cuộc sống đời thường thì việc
miêu tả tâm lí con người lại như một lợi thế của văn xuôi nói chung. Bởi lẽ
khi các tác giả tập trung sự chú ý vào quá trình hình thành cá tính, tính cách
của con người tất yếu sẽ dẫn đến sự tăng cường yếu tố phân tích tâm lí và
khắc họa cá tính nhân vật.
Khảo sát truyện ngắn giai đoạn 1975- 1985 có thể nhận thấy, các nhà
văn đã khá nhạy bén trong việc miêu tả tâm lí, cá tính, tư tưởng của con
người. Tuy nhiên, đó mới chỉ là sự miêu tả những xung đột nội tâm, những
rung động trong cảm xúc, những biến đổi trong tâm lí nhân vật chứ chưa
hoàn toàn nắm bắt trọn vẹn một quá trình tâm lí, tư tưởng để xây dựng
những
hình tượng nghệ thuật có sức sống lâu bền.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-
tnu.edu.vn
99
Trong khi miêu tả tâm lí nhân vật, các tác giả thường để cho nhân vật
tự ý thức về bản thân mình trong những mối quan hệ với xung quanh, tự
mình bộc lộ với chính mình những suy nghĩ và cảm xúc chân thực nhất. ở đó
thủ pháp độc thoại nội tâm được sử dụng một cách hữu hiệu để nhân vật tự
bộc lộ những suy tư, trăn trở của bản thân. Những tiếng nói từ bên trong,
những lời tự vấn của người họa sĩ trong Bức tranh (Nguyễn Minh Châu)
chính là động lực thúc đẩy sự phát triển tính cách của anh ta. Lúc đầu, khi
phát hiện ra lỗi lầm do sự thất hứa của mình, anh ta đã day dứt: Tại sao
ngày
ấy tôi đã không dưa tấm ảnh đén cho gia đình anh? Tại sao tôi không giữ lời
hứa? Tôi đã hứa với anh và cả tôi nữa, đinh ninh và hùng hồn lắm, và cũng
thực tâm lắm chứ?[11/126]. Rồi chính anh lại tự biện minh cho việc làm của
mình: Tôi là một nghệ sĩ chứ có phải đâu là anh thợ vẽ truyền thần, công
việc
của người nghệ sĩ là phải phục vụ cả số đông, chứ không phải chỉ phục vụ
một người[11/127]. Những lời tư biện này chứng tỏ anh ta chưa thấy được
hết cái nguy hiểm của thói quen lấy lợi ích cộng đồng làm bình phong che
chắn cho hành vi thất hứa của mình. Vì thế, xung đột nội tâm của nhân vật
chưa dừng lại ở đó mà được đẩy cao hơn trong cuộc đối thoại tưởng tượng
với người thợ cắt tóc. Đó là một thứ trảm hình trong lòng nhân vật để anh ta
nhận ra cái bộ mặt thật của mình vừa được lột ra khỏi cái mặt nạ hàng
ngày.
Truyện ngắn này lôi cuốn người đọc bởi cách xoáy sâu vào tâm lí nhân vật
và
nghệ thuật tạo căng thẳng dần, siết chặt dần từ cảm giác ân hận bị dìm
xuống
đến lòng hối hận bùng lên, rồi một niềm ăn năn không dứt mãi không thôi
trong lòng nhân vật. ở đây, tác giả đã cố gắng đưa nhân vật đi đến tận cùng
sự phân tích bên trong để nhìn rõ chính nó.
ở Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Nguyễn Minh Châu tỏ ra
là cây bút có khả năng phân tích và thể hiện được những biến động tâm lí
khá
phức tạp của một tâm hồn không đơn giản như Quỳ. Nhà văn chọn cho câu
chuyện của mình bằng dạng thức tự kể của nhân vật chính. Đó là những lời
kể chân thành như lời tự thú của Quỳ. Rồi cứ thế cả thiên truyện dần dần
hiện
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-
tnu.edu.vn
100
ra cùng vói việc khám phá phần cốt lõi khó khăn phức tạp đầy biến động
nhất
của nội tâm, đó là các cuộc tình của Quỳ. Đúng là để xây dựng nhân vật
này,
Nguyễn Minh Châu đẫ phải huy động một khối lượng đậm đặc những chi
tiết,
những chi tiết buộc phải có nhiều kinh lịch trên đường viết văn, một quan
sát
tinh tế lắm, một vốn hiểu biết về nhân vật sâu sắc mói có thể có
được[81/311].
Mỗi nhà văn trong từng truyện ngắn của mình có những khám phá
riêng về đời sống tâm hồn của nhân vật. Nếu Vũ Tú Nam trong Đi đón cơn
mưa miêu tả thành công những xao động trong tâm hồn của một người thầy
giáo khi biết được tình cảm của một người phụ nữ có số phận bất hạnh dành
cho mình thì Thùy Linh lại đọc ra được một nghị lực ghê gớm, một sự thèm
khát tình yêu của bố mẹ trong đôi mắt vốn lạnh lùng của cậu bé Nguyên
(Mặt
trời bé con của tôi). Phạm Thị Minh Thư miêu tả những trạng thái tâm hồn
đầy tinh tế, thơ mộng và tràn đầy niềm tin của nhân vật trong một đêm tản
cư
mà có lẽ chẳng sự tàn bạo, khốc liệt nào đè bẹp nổi (Có một đêm như thế).
Dù rằng mỗi tác giả truyện ngắn mới chỉ đi vào miêu tả tâm lí nhân vật
trong từng thời khắc nhất định chứ chưa phải là toàn bộ quá trình tâm lí thì
điều này cũng đã góp phần làm cho nhân vật được soi chiếu ở nhiều bình
diện. Mặt khác khi đi vào miêu tả tâm lí nhân vật, các cây bút truyện ngắn
còn sử dụng yếu tố tâm linh như một biện pháp để khám phá sâu hơn nội
tâm
nhân vật. Với các hình thức giấc mơ, điềm báo, đối thoại giữa những mảng
tâm linh… nhờ đó chất người được bộ lộ đa chiều, đa diện hơn.
Dưới hình thức những cơn mộng du (Người đàn bà trên chuyến tàu
tốc hành) Nguyễn Minh Châu đã khắc họa sâu sắc những tình cảm của một
người đàn bà suốt đời lang thang đi tìm chân trời của những giá trị tuyệt
đối.
Cả thiên truyện dường như được bao bọc trong một bầu không khí phảng
phất màu sắc mộng mị, huyền thoại. Nhiều lần trên con tàu mộng du của
Quỳ
yếu tố tâm linh đã xuất hiện góp phần soi tỏ nội tâm nhân vật. Chẳng hạn
khi
gặp pho tượng Phật ngàn tay ngàn mắt ở một ngôi chùa trong một lần đi
công
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-
tnu.edu.vn
101
tác, Quỳ nghĩ ngay đến đôi bàn tay của người trung đoàn trưởng đã hi sinh.
Quỳ nâng vạt áo quân phục dính đầy dầu mỡ lên lau sạch những lớp bụi
bám
trên một bàn tay. Nhưng khi vừa chạm tới, vạt áo của chị đã ướt đẫm mồ
hôi,
y như mồ hôi người cứ dấp dính toát ra từ chất gỗ. Và cảm giác của nhân
vật
lúc này hoàn toàn được soi chiếu từ ánh sáng của tâm linh: Tôi sợ hãi lùi ra
xa, ngước nhìn khuôn mặt ấy: tự nhiên tôi bỗng hoảng hốt khi nhận ra đang
phảng phất trên cặp môi bằng gỗ, vẫn cái nụ cười ấy, cái nụ cười bí ẩn mà
tôi đã trông thấy rất nhiều lần hiện lên trên cặp môi anh ấy trước khi
chết[11/164].
Dưới hình thức của một giấc mơ, truyện ngắn Mai (Thanh Quế) lại bộc
lộ được những diễn biến tâm trạng nhân vật người cha sau nhiều ngày đi tìm
mộ con không đem lại kết quả gì. Một buổi sáng khi ông vừa định trở dậy thì
chẳng hiểu vì lí do bí ẩn nào một cơn buồn ngủ đến nhức cả mắt kéo ông
nằm
xuống. Ngay lập tức một cơn mơ lạ đến với ông. Trong giấc mơ, ông đã gặp
con gái mình trong một rừng dương. Kì lạ thay giấc mơ ấy lại trùng với
manh
mối để tìm ra mộ con ông. Ông thấy cái việc tìm mộ con có điều gì thật bí
ẩn, nó giông giống như trong giấc mơ. Phải chăng vong hồn cô con gái đã
mách bảo cho người cha? Hay đó chính là cái ánh sáng được phát ra từ thế
giới bên trong như một sự mác bảo của tâm linh? Bởi lẽ vốn từ xưa ông
không hề mê tín. Nhưng hôm nay, tự nhiên ông thấy trong lòng ông rao rực,
tai ông nóng bừng và chung quanh nhà ông lâu nay im ắng bỗng có một bầy
chim lạ về chao hót[67/273]. Diễn tả cái khoảnh khắc biến động trong tâm