Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Vận dụng quan điểm giao tiếp trong dạy văn miêu tả lớp 6 THCS ở Lào (từ kinh nghiệm dạy học của Việt Nam)

7,431
427
133
4
bố cục của bài văn. Về cách thức dạy học vẫn chủ yếu, dạy theo phương pháp
truyền thống: đó thầy cung cấp thông tin, trò nhận tin, trong hoạt động dạy học
chỉ có thầy nói và trò nghe, ghi chép thông tin, mang tính áp đặt một chiều.
Việc dạy làm văn theo quan điểm giao tiếp
Lào, việc dạy học Tiếng theo quan điểm giao tiếp vẫn còn mới mẻ chưa
được nói tới, cả phương diện nghiên cứu lẫn phương diện giảng dạy. Nói cách
khác vấn đề này vẫn chưa được quan tâm đến.
Trong khi đó ở Việt Nam đã có khá nhiều nhà nghiên cứu nói về cách vận dụng
quan điểm giao tiếp trong dạy học Tiếng như:
Giáo trình Phương pháp dạy học TV (2001), (tập 2) do nhóm tác giả:
Nguyễn Trí Lê A Lê Phương Nga biên soạn (có tất cả 8 chương), trong đó các
tác giả dành hẳn một chương để nói về quan điểm giao tiếp trong dạy học Tiếng
Việt. Chương một nhằm làm rõ về giao tiếp và hoạt động giao tiếp. Những sở
của quan điểm giao tiếp trong dạy học Tiếng Việt. Sự thể hiện của quan điểm giao
tiếp trong việc dạy học Tiếng Việt. Nội dung của chương này được chúng tôi lấy
làm cơ sở khoa học, tiền đề lý luận cho đề tài nghiên cứu của mình.
Vấn đề “giao tiếp” cũng được Bùi Minh Toán và Nguyễn Ngọc San đề cập
trong Giáo trình Tiếng Việt (2002), (tập 3, Nxb GD), với các nội dung cụ thể như:
Các chức năng của ngôn ngữ
chức năng giao tiếp. Hoạt động giao tiếp bằng
ngôn ngữ. Các yếu tố của hệ thống ngôn ngữ trong hoạt động giao tiếp. Nguyên tắc
hệ thống và quan điểm giao tiếp trong dạy học Tiếng việt. Bùi Minh Toán và
Nguyễn Ngọc San khẳng định: "Quan điểm giao tiếp trong việc dạy học ngôn
ngữ (Tiếng Việt) xuất phát từ đặc trưng bản chất của đối tượng và phù hợp với đối
tượng. [...] Ngôn ngữ [...] cần phải hoạt độn để thực hiện chức năng giao tiếp.
Trong hoạt động giao tiếp, ngôn ngữ vừa là phương tiện, vừa tạo ra các sản phẩm
phục vụ cho sự giao tiếp".
Nguyễn Quang Ninh trong "Một số vấn đề luận của việc dạy Tiếng
(2009)" (Thông báo Khoa học, ĐH SPHN, số 2) cũng đã khẳng định: mục đích của
việc dạy Tiếng phát triển năng lực giao tiếp. Vì vậy, “trong giảng dạy người ta
chú trọng đến việc sử dụng ngữ pháp phát ngôn (thay cho ngữ pháp câu trong
truyền thống) nhằm làm cho ngôn ngữ thực hiện được chức năng giao tiếp của
mình”.
4 bố cục của bài văn. Về cách thức dạy học vẫn chủ yếu, dạy theo phương pháp truyền thống: đó là thầy cung cấp thông tin, trò nhận tin, trong hoạt động dạy học chỉ có thầy nói và trò nghe, ghi chép thông tin, mang tính áp đặt một chiều.  Việc dạy làm văn theo quan điểm giao tiếp Ở Lào, việc dạy học Tiếng theo quan điểm giao tiếp vẫn còn mới mẻ chưa được nói tới, cả ở phương diện nghiên cứu lẫn phương diện giảng dạy. Nói cách khác vấn đề này vẫn chưa được quan tâm đến. Trong khi đó ở Việt Nam đã có khá nhiều nhà nghiên cứu nói về cách vận dụng quan điểm giao tiếp trong dạy học Tiếng như: Giáo trình Phương pháp dạy học TV (2001), (tập 2) do nhóm tác giả: Nguyễn Trí − Lê A − Lê Phương Nga biên soạn (có tất cả 8 chương), trong đó các tác giả dành hẳn một chương để nói về quan điểm giao tiếp trong dạy học Tiếng Việt. Chương một nhằm làm rõ về giao tiếp và hoạt động giao tiếp. Những cơ sở của quan điểm giao tiếp trong dạy học Tiếng Việt. Sự thể hiện của quan điểm giao tiếp trong việc dạy học Tiếng Việt. Nội dung của chương này được chúng tôi lấy làm cơ sở khoa học, tiền đề lý luận cho đề tài nghiên cứu của mình. Vấn đề “giao tiếp” cũng được Bùi Minh Toán và Nguyễn Ngọc San đề cập trong Giáo trình Tiếng Việt (2002), (tập 3, Nxb GD), với các nội dung cụ thể như: Các chức năng của ngôn ngữ − chức năng giao tiếp. Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ. Các yếu tố của hệ thống ngôn ngữ trong hoạt động giao tiếp. Nguyên tắc hệ thống và quan điểm giao tiếp trong dạy − học Tiếng việt. Bùi Minh Toán và Nguyễn Ngọc San khẳng định: "Quan điểm giao tiếp trong việc dạy − học ngôn ngữ (Tiếng Việt) xuất phát từ đặc trưng bản chất của đối tượng và phù hợp với đối tượng. [...] Ngôn ngữ [...] cần phải hoạt độn để thực hiện chức năng giao tiếp. Trong hoạt động giao tiếp, ngôn ngữ vừa là phương tiện, vừa tạo ra các sản phẩm phục vụ cho sự giao tiếp". Nguyễn Quang Ninh trong "Một số vấn đề lí luận của việc dạy Tiếng (2009)" (Thông báo Khoa học, ĐH SPHN, số 2) cũng đã khẳng định: mục đích của việc dạy Tiếng là phát triển năng lực giao tiếp. Vì vậy, “trong giảng dạy người ta chú trọng đến việc sử dụng ngữ pháp phát ngôn (thay cho ngữ pháp câu trong truyền thống) nhằm làm cho ngôn ngữ thực hiện được chức năng giao tiếp của mình”.
5
Tác giả cho rằng “chính việc coi trọng giao tiếp ngôn ngữ trong việc dạy
Tiếng đã kéo theo sự biến đổi trong việc biên soạn tài liệu dạy Tiếng, cách chọn
ngữ liệu, phân bố ngữ liệu, phương pháp dạy và vị trí của người GV học viên
trong quá trình giảng dạy. Việc xem hoạt động ngôn ngữ trong giao tiếp mục
đích của việc dạy Tiếng đã làm cho cách tổ chức giảng dạy phải xây dựng được
những tình huống giao tiếp thực”.
Ở đây, quan điểm dạy Tiếng trong môi trường giao tiếp, bằng phương pháp
giao tiếp và hướng tới mục đích giao tiếp đã được khẳng định và nhấn mạnh.
Tính đúng đắn của quan điểm này càng thể hiện rõ khi các nhà nghiên cứu đưa giao tiếp
trở thành một trong những nguyên tắc và phương pháp dạy học tiếng mẹ đẻ nói chung
mà chúng tôi sẽ vận dụng khi dạy học tiếng Lào nói riêng. Đó là vấn đề mang tính
bản và thiết yếu nhất mà luận văn hướng tới.
Trong giáo trình “Phương pháp dạy học tiếng mẹ (1989 xbGD)” (dùng cho
sinh viên và GV Ngữ văn các trường ĐH Sư phạm), tác giả Lê A đã nêu rõ:
Ngôn ngữ hệ thống hoạt động chức năng, tách khỏi hoạt động chức
năng thì không còn sức sống, trở thành một hệ thống khô cứng. Nói cách khác,
ngôn ngữ phải được thể hiện trong các dạng lời nói khác nhau, mọi quy luật, cấu
trúc và hoạt động của hệ thống ngôn ngữ chỉ được rút ra trên sở nghiên cứu lời
nói sinh động. Mặt khác, muốn hình thành các kĩ năng và kĩ xảo ngôn ngữ, HS phải
trực tiếp tham gia vào hoạt động giao tiếp”
Cuối năm 2001 - 2002, bên cạnh quan điểm tích hợp, quan điểm giao tiếp đã
được Bộ GD ĐT xem là một trong những nguyên tắc chỉ đạo cho việc xây dựng
chương trình SGK Ngữ văn bậc Tiểu học THCS. Đây sự ứng dụng các
thành tựu ngôn ngữ học hiện đại, đặc biệt là ứng dụng kết quả nghiên cứu của
thuyết giao tiếp ngôn ngữ và lí thuyết hội thoại vào việc dạy Tiếng. Nguyên tắc này
hiện nay đã được thực hiện rộng rãi trong chương trình dạy tiếng mẹ đẻ cho HS
tất cả các nước trên thế giới trong đó có khu vực Đông Nam Á.
Quan điểm này đã chi phối mạnh mẽ đến sự lựa chọn và sắp xếp về nội
dung dạy học, về phương pháp, hình thức tổ chức dạy học bộ môn. Nguồn ngữ
liệu để dạy Tiếng của các nước nói chung tiếng Lào nói riêng cũng đã được mở
rộng. Đó là những vấn đề mang tính thời sự, liên quan mật thiết tới đời sống của
HS như môi trường (tự nhiên, xã hội), hòa bình, dân số, kinh tế, văn hóa… Nội dung
của những đề tài này chính sự gợi ý để định hướng nguồn ngữ liệu cho HS
5 Tác giả cho rằng “chính việc coi trọng giao tiếp ngôn ngữ trong việc dạy Tiếng đã kéo theo sự biến đổi trong việc biên soạn tài liệu dạy Tiếng, cách chọn ngữ liệu, phân bố ngữ liệu, phương pháp dạy và vị trí của người GV và học viên trong quá trình giảng dạy. Việc xem hoạt động ngôn ngữ trong giao tiếp là mục đích của việc dạy Tiếng đã làm cho cách tổ chức giảng dạy phải xây dựng được những tình huống giao tiếp thực”. Ở đây, quan điểm dạy Tiếng trong môi trường giao tiếp, bằng phương pháp giao tiếp và hướng tới mục đích giao tiếp đã được khẳng định và nhấn mạnh. Tính đúng đắn của quan điểm này càng thể hiện rõ khi các nhà nghiên cứu đưa giao tiếp trở thành một trong những nguyên tắc và phương pháp dạy học tiếng mẹ đẻ nói chung mà chúng tôi sẽ vận dụng khi dạy học tiếng Lào nói riêng. Đó là vấn đề mang tính cơ bản và thiết yếu nhất mà luận văn hướng tới. Trong giáo trình “Phương pháp dạy học tiếng mẹ (1989 xbGD)” (dùng cho sinh viên và GV Ngữ văn các trường ĐH Sư phạm), tác giả Lê A đã nêu rõ: “Ngôn ngữ là hệ thống hoạt động chức năng, tách khỏi hoạt động chức năng thì nó không còn sức sống, trở thành một hệ thống khô cứng. Nói cách khác, ngôn ngữ phải được thể hiện trong các dạng lời nói khác nhau, mọi quy luật, cấu trúc và hoạt động của hệ thống ngôn ngữ chỉ được rút ra trên cơ sở nghiên cứu lời nói sinh động. Mặt khác, muốn hình thành các kĩ năng và kĩ xảo ngôn ngữ, HS phải trực tiếp tham gia vào hoạt động giao tiếp” Cuối năm 2001 - 2002, bên cạnh quan điểm tích hợp, quan điểm giao tiếp đã được Bộ GD − ĐT xem là một trong những nguyên tắc chỉ đạo cho việc xây dựng chương trình và SGK Ngữ văn bậc Tiểu học và THCS. Đây là sự ứng dụng các thành tựu ngôn ngữ học hiện đại, đặc biệt là ứng dụng kết quả nghiên cứu của lí thuyết giao tiếp ngôn ngữ và lí thuyết hội thoại vào việc dạy Tiếng. Nguyên tắc này hiện nay đã được thực hiện rộng rãi trong chương trình dạy tiếng mẹ đẻ cho HS ở tất cả các nước trên thế giới trong đó có khu vực Đông Nam Á. Quan điểm này đã chi phối mạnh mẽ đến sự lựa chọn và sắp xếp về nội dung dạy học, về phương pháp, và hình thức tổ chức dạy học bộ môn. Nguồn ngữ liệu để dạy Tiếng của các nước nói chung và tiếng Lào nói riêng cũng đã được mở rộng. Đó là những vấn đề mang tính thời sự, có liên quan mật thiết tới đời sống của HS như môi trường (tự nhiên, xã hội), hòa bình, dân số, kinh tế, văn hóa… Nội dung của những đề tài này chính là sự gợi ý để định hướng nguồn ngữ liệu cho HS
6
trong quá trình giao tiếp - nghĩa HS không chỉ được rèn luyện các năng
nghe, nói, đọc, viết qua đó còn có thêm vốn sống, sự hiểu biết nhất định về
văn hoá, đời sống, xã hội để biết xử lý linh hoạt các tình huống cuộc sống vốn đa
dạng và phức tạp.
Đó là các đề tài: Một số dạng bài tập rèn luyện năng sử dụng từ ngữ cho
HS lớp 4,5 theo hướng giao tiếp (2000) của Doãn Thị Ngoan (Luận văn Thạc sĩ,
ĐH SPHN, HN); Xây dựng hệ thống bài tập luyện câu cho HS lớp 4 theo hướng
giao tiếp (2005)” của Ngô Hiền Tuyên (Luận văn Thạc sĩ, ĐH SPHN, HN); Xây
dựng hệ thống bài tập dạy học từ láy theo hướng giao tiếp cho HS THPT (2005)”
của Nguyễn Hồng Hải (Luận văn Thạc sĩ, ĐH SPHN, HN)...
Phần lớn các đề tài này đều thiên về xây dựng hệ thống bài tập rèn luyện
năng theo hướng giao tiếp và mới dừng lại ở việc khảo sát đơn vị từ, câu.
b) Một vài nhận xét
Chương trình SGK phần làm văn miêu tả bậc phổ thông đã đáp ứng
được yêu cầu sử dụng phương pháp dạy học mới. Nội dung chương trình vừa giúp
GV tổ chức được hoạt động giảng dạy theo quan điểm giao tiếp, giảng dạy theo
phương pháp tích cực: giúp HS tìm tòi, phát hiện và chiếm lĩnh được những tri thức
mới trong những tình huống giao tiếp cụ thể, rất thiết thực và hiệu quả.
Trong cuốn Từ điển Tiếng Việt do Hoàng Phê (năm-chủ biên), "Miêu tả
dùng ngôn ngữ hoặc một phương tiện nghệ thuật nào đó làm cho người khác có thể
hình dung được cụ thể sự vật, sự việc hoặc thế giới nội tâm của con người...[34-
37..]" Còn Đào Duy Anh (2003), trong cuốn Hán Việt tự điển cho rằng: "Miêu tả là
lấy nét vẽ hoặc câu văn để biểu hiện cái chân tướng của sự vật ra [tr57-69. .]" .
Phạm Hổ từ kinh nghiệm của nhà văn đã giải thích:
"Miêu tả giỏi là khi đọc những gì chúng ta viết, người đọc thấy như những
cái đó hiện ra trước mắt mình: một con người, một dòng sông, một con vật... Người
đọc có thể hình dung được cả tiếng nói, tiếng kêu, tiếng nước chảy. Thậm chí còn
ngửi được cả mùi mồ hôi, mùi sữa, mùi hương hoa hay mùi rêu, mùi ẩm mốc...
Nhưng đó chỉ là miêu tả bên ngoài, còn có sự miêu tả bên trong nữa, nghĩa là miêu
tả về tâm trạng vui, buồn, yêu, ghét của con người, con vật và cỏ cây [15-23...]"
6 trong quá trình giao tiếp - nghĩa là HS không chỉ được rèn luyện các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết mà qua đó còn có thêm vốn sống, sự hiểu biết nhất định về văn hoá, đời sống, xã hội để biết xử lý linh hoạt các tình huống cuộc sống vốn đa dạng và phức tạp. Đó là các đề tài: Một số dạng bài tập rèn luyện kĩ năng sử dụng từ ngữ cho HS lớp 4,5 theo hướng giao tiếp (2000) của Doãn Thị Ngoan (Luận văn Thạc sĩ, ĐH SPHN, HN); Xây dựng hệ thống bài tập luyện câu cho HS lớp 4 theo hướng giao tiếp (2005)” của Ngô Hiền Tuyên (Luận văn Thạc sĩ, ĐH SPHN, HN); Xây dựng hệ thống bài tập dạy học từ láy theo hướng giao tiếp cho HS THPT (2005)” của Nguyễn Hồng Hải (Luận văn Thạc sĩ, ĐH SPHN, HN)... Phần lớn các đề tài này đều thiên về xây dựng hệ thống bài tập rèn luyện kĩ năng theo hướng giao tiếp và mới dừng lại ở việc khảo sát đơn vị từ, câu. b) Một vài nhận xét Chương trình – SGK phần làm văn miêu tả ở bậc phổ thông đã đáp ứng được yêu cầu sử dụng phương pháp dạy học mới. Nội dung chương trình vừa giúp GV tổ chức được hoạt động giảng dạy theo quan điểm giao tiếp, giảng dạy theo phương pháp tích cực: giúp HS tìm tòi, phát hiện và chiếm lĩnh được những tri thức mới trong những tình huống giao tiếp cụ thể, rất thiết thực và hiệu quả. Trong cuốn Từ điển Tiếng Việt do Hoàng Phê (năm-chủ biên), "Miêu tả dùng ngôn ngữ hoặc một phương tiện nghệ thuật nào đó làm cho người khác có thể hình dung được cụ thể sự vật, sự việc hoặc thế giới nội tâm của con người...[34- 37..]" Còn Đào Duy Anh (2003), trong cuốn Hán Việt tự điển cho rằng: "Miêu tả là lấy nét vẽ hoặc câu văn để biểu hiện cái chân tướng của sự vật ra [tr57-69. .]" . Phạm Hổ từ kinh nghiệm của nhà văn đã giải thích: "Miêu tả giỏi là khi đọc những gì chúng ta viết, người đọc thấy như những cái đó hiện ra trước mắt mình: một con người, một dòng sông, một con vật... Người đọc có thể hình dung được cả tiếng nói, tiếng kêu, tiếng nước chảy. Thậm chí còn ngửi được cả mùi mồ hôi, mùi sữa, mùi hương hoa hay mùi rêu, mùi ẩm mốc... Nhưng đó chỉ là miêu tả bên ngoài, còn có sự miêu tả bên trong nữa, nghĩa là miêu tả về tâm trạng vui, buồn, yêu, ghét của con người, con vật và cỏ cây [15-23...]"
7
Về phương pháp, dạy học theo quan điểm giao tiếp là một phương pháp mới
trong hoạt động dạy học, HS được đối thoại với thầy cô và đối thoại với nhau từ đó
làm cho môn học sinh động hơn, dễ tiếp thu hơn.
Về hiệu quả, dạy học theo quan điểm giao tiếp đã đạt được hiệu quả khả
quan, vì hoạt động dạy học theo cách này HS được xem trung tâm và được đối
thoại với nhau về một mục đích nào đó. Từ đó người học sẽ chủ động tìm ra những
kiến thức mình cần một cách hứng thú hơn chỉ thụ động thu nhận một chiều
từ phía người dạy. Điều này còn nghĩa DH theo quan điểm giao tiếp là sự phối
hợp giữa nội dung DH với PP giao tiếp, cụ thể sự phối hợp giữa nội dung thực
hành LV miêu tả với HTDH và phương tiện DH.
Ví dụ về một đề văn: "Em hãy tả lại cảnh biển vào những ngày hè rực nắng
ở bãi biển nhân dịp đi nghỉ mát hoặc một bãi biển em từng biết". Trong đề tài
này, phần mở bài, thầy có thể đặt câu hỏi cho trò trả lời như: Em được đi nghỉ
mát ở biển vào dịp nào? Ở đâu?; Phần thân bài thầy có thể đặt câu hỏi như: Cảnh
biển khi nhìn xa thấy như thế nào?, Cảnh biển sáng, trưa, chiều, tối gì khác
nhau?; phần kết bài thầy có thể hỏi HS về những cảm nghĩ của mình trong dịp đi
chơi đó. Từ đó thầy và trò sẽ thảo luận với nhau về câu hỏi, nhưng trong hoạt động
này HS sẽ trở thành trung tâm dưới sự hướng dẫn của thầy. Người học nắm vai trò
chủ động còn thầy là người chủ đạo. Theo đó, GV cần hướng dẫn HS hoạt động tìm
ý, chọn lọc, sắp xếp ý diễn đạt theo suy nghĩ liên tưởng của mình bằng hệ
thống câu hỏi nhận thức. Khi nói về điều này, Bùi Minh Toán (2005...) trong cuốn
Tiếng Việt thực hành (NxbGD....) đã cho rằng: “Trước khi viết một văn bản nào đó,
cần định hướng rõ rệt cho văn bản. Việc định hướng này chính là việc xác định các
nhân tố giao tiếp của văn bản” [84-92...].
Bài làm văn của HS là một dạng văn bản phục vụ cho hoạt động giao tiếp vì
vậy nó cũng không nằm ngoài sự chi phối của nguyên tắc này. “Chính thế, khi
làm bài văn trong nhà trường cần thiết phải phân tích kĩ đề bài để xác định được
chính xác các nhân tố giao tiếp đã được quy định. Trên sở đó tạo lập được
một văn bản đáp ứng đúng các yêu cầu của đề bài và đạt được hiệu quả giao tiếp
cao” [114-127].
7 Về phương pháp, dạy học theo quan điểm giao tiếp là một phương pháp mới trong hoạt động dạy học, HS được đối thoại với thầy cô và đối thoại với nhau từ đó làm cho môn học sinh động hơn, dễ tiếp thu hơn. Về hiệu quả, dạy học theo quan điểm giao tiếp đã đạt được hiệu quả khả quan, vì hoạt động dạy học theo cách này HS được xem là trung tâm và được đối thoại với nhau về một mục đích nào đó. Từ đó người học sẽ chủ động tìm ra những kiến thức mà mình cần một cách hứng thú hơn là chỉ thụ động thu nhận một chiều từ phía người dạy. Điều này còn có nghĩa DH theo quan điểm giao tiếp là sự phối hợp giữa nội dung DH với PP giao tiếp, cụ thể là sự phối hợp giữa nội dung thực hành LV miêu tả với HTDH và phương tiện DH. Ví dụ về một đề văn: "Em hãy tả lại cảnh biển vào những ngày hè rực nắng ở bãi biển nhân dịp đi nghỉ mát hoặc một bãi biển mà em từng biết". Trong đề tài này, ở phần mở bài, thầy có thể đặt câu hỏi cho trò trả lời như: Em được đi nghỉ mát ở biển vào dịp nào? Ở đâu?; Phần thân bài thầy có thể đặt câu hỏi như: Cảnh biển khi nhìn xa thấy như thế nào?, Cảnh biển sáng, trưa, chiều, tối có gì khác nhau?; phần kết bài thầy có thể hỏi HS về những cảm nghĩ của mình trong dịp đi chơi đó. Từ đó thầy và trò sẽ thảo luận với nhau về câu hỏi, nhưng trong hoạt động này HS sẽ trở thành trung tâm dưới sự hướng dẫn của thầy. Người học nắm vai trò chủ động còn thầy là người chủ đạo. Theo đó, GV cần hướng dẫn HS hoạt động tìm ý, chọn lọc, sắp xếp ý và diễn đạt theo suy nghĩ và liên tưởng của mình bằng hệ thống câu hỏi nhận thức. Khi nói về điều này, Bùi Minh Toán (2005...) trong cuốn Tiếng Việt thực hành (NxbGD....) đã cho rằng: “Trước khi viết một văn bản nào đó, cần định hướng rõ rệt cho văn bản. Việc định hướng này chính là việc xác định các nhân tố giao tiếp của văn bản” [84-92...]. Bài làm văn của HS là một dạng văn bản phục vụ cho hoạt động giao tiếp vì vậy nó cũng không nằm ngoài sự chi phối của nguyên tắc này. “Chính vì thế, khi làm bài văn trong nhà trường cần thiết phải phân tích kĩ đề bài để xác định được chính xác các nhân tố giao tiếp đã được quy định. Trên cơ sở đó mà tạo lập được một văn bản đáp ứng đúng các yêu cầu của đề bài và đạt được hiệu quả giao tiếp cao” [114-127].
8
Đinh Trọng Lạc (nxbGD) trong cuốn “Phong cách học tiếng Việt”
(NxbGD...), khi đề cập đến “mục đích thực tiễn trong giao tiếp” cũng đã khẳng
định: trong quá trình làm văn, “nhân tố mục đích thực tiễn trong giao tiếp thường ít
được HS chú ý, cho nên những bài làm của HS phần nhiều một hình thức diễn
đạt chung chung, chỉ cốt nhắc lại những kiến thức đã học. Hiện tượng thường thấy
HS đưa nguyên xi vào bài làm cả những câu văn, đoạn văn trong SGK, có
nguyên nhân không phải chỉ vì kiến thức không nhuần nhuyễn mà còn vì không có ý
thức đầy đủ về các nhân tố ngoài ngôn ngữ quy định sự lựa chọn ngôn ngữ” [71-
85]
Tác giả đã nhấn mạnh: các nhân tố giao tiếp và trước hết là mục đích thực tiễn
trong giao tiếp ảnh hưởng quyết định đến sự lựa chọn ngôn ngữ trong quá trình
giao tiếp. Điều đó cũng đồng nghĩa với ý kiến cho rằng việc xác định các nhân tố
giao tiếp để định hướng cho bài làm văn là việc làm vô cùng quan trọng và cần thiết.
Nguyễn Quang Ninh (2005) trong chuyên đề “Đưa kết quả nghiên cứu ngữ
pháp văn bản vào việc dạy làm văn” cũng đã đề cập đến việc rèn luyện cho HS
năng giao tiếp bằng văn bản. Nghĩa là trong việc dạy làm văn, khi rèn luyện cho HS
viết văn, GV không chỉ dạy cách xây dựng bài văn như một đơn vị ngôn ngữ ở bậc
cao nhất còn phải dạy cho HS cách xây dựng bài văn như một đơn vị dùng dể
giao tiếp. Quan điểm y đã được chính tác giả phát triển hệ thống lại trong
“Một số vấn đề dạy ngôn bản nói viết tiểu học theo hướng giao tiếp” (Sách
bồi dưỡng thường xuyên chu kì 1997 2000 cho GVTH).
Khi vận dụng quan điểm giao tiếp trong dạy học làm văn miêu tả, chúng tôi
hướng đến đối tượng HS lớp 6 THCS của tỉnh Cham Pa Sác ở Lào. Đặc biệt về mặt
nhận thức và đặc điểm tâm lý thì không những phù hợp mà còn đạt hiệu quả cao vì
HS trao đổi và học hỏi lẫn nhau. Nếu so sánh với phương pháp cũ thì cách dạy theo
hướng đối thoại có những hiệu quả khả quan hơn. Nhược điểm trong cách DH cũ
(truyền thống)GV “nói” quá nhiều, lạm dụng từ ngữ trong giảng bài, theo kiểu
“nói cho HS” nghe – chép – thuộc, chứ không phải “nói với HS” để hướng dẫn các
em cách suy nghĩ, vận dụng và thực hành (đây điểm khác nhau bản giữa hai
cách dạy mà hiện nay chúng ta phải thay đổi theo hướng tích cực).
Chính vậy, khi vận dung quan điểm giao tiếp trong việc dạy văn thì cần
phải nhiều năng lực như: năng lực tổ chức, năng lực giao tiếp, năng lực xây
dựng, năng lực nghiên cứu và năng lực đàm thoại, năng lực quan sát… Bởi vì, đối
8 Đinh Trọng Lạc (nxbGD) trong cuốn “Phong cách học tiếng Việt” (NxbGD...), khi đề cập đến “mục đích thực tiễn trong giao tiếp” cũng đã khẳng định: trong quá trình làm văn, “nhân tố mục đích thực tiễn trong giao tiếp thường ít được HS chú ý, cho nên những bài làm của HS phần nhiều có một hình thức diễn đạt chung chung, chỉ cốt nhắc lại những kiến thức đã học. Hiện tượng thường thấy ở HS là đưa nguyên xi vào bài làm cả những câu văn, đoạn văn trong SGK, có nguyên nhân không phải chỉ vì kiến thức không nhuần nhuyễn mà còn vì không có ý thức đầy đủ về các nhân tố ngoài ngôn ngữ quy định sự lựa chọn ngôn ngữ” [71- 85] Tác giả đã nhấn mạnh: các nhân tố giao tiếp và trước hết là mục đích thực tiễn trong giao tiếp có ảnh hưởng quyết định đến sự lựa chọn ngôn ngữ trong quá trình giao tiếp. Điều đó cũng đồng nghĩa với ý kiến cho rằng việc xác định các nhân tố giao tiếp để định hướng cho bài làm văn là việc làm vô cùng quan trọng và cần thiết. Nguyễn Quang Ninh (2005) trong chuyên đề “Đưa kết quả nghiên cứu ngữ pháp văn bản vào việc dạy làm văn” cũng đã đề cập đến việc rèn luyện cho HS kĩ năng giao tiếp bằng văn bản. Nghĩa là trong việc dạy làm văn, khi rèn luyện cho HS viết văn, GV không chỉ dạy cách xây dựng bài văn như một đơn vị ngôn ngữ ở bậc cao nhất mà còn phải dạy cho HS cách xây dựng bài văn như một đơn vị dùng dể giao tiếp. Quan điểm này đã được chính tác giả phát triển và hệ thống lại trong “Một số vấn đề dạy ngôn bản nói và viết ở tiểu học theo hướng giao tiếp” (Sách bồi dưỡng thường xuyên chu kì 1997 − 2000 cho GVTH). Khi vận dụng quan điểm giao tiếp trong dạy học làm văn miêu tả, chúng tôi hướng đến đối tượng HS lớp 6 THCS của tỉnh Cham Pa Sác ở Lào. Đặc biệt về mặt nhận thức và đặc điểm tâm lý thì không những phù hợp mà còn đạt hiệu quả cao vì HS trao đổi và học hỏi lẫn nhau. Nếu so sánh với phương pháp cũ thì cách dạy theo hướng đối thoại có những hiệu quả khả quan hơn. Nhược điểm trong cách DH cũ (truyền thống) là GV “nói” quá nhiều, lạm dụng từ ngữ trong giảng bài, theo kiểu “nói cho HS” nghe – chép – thuộc, chứ không phải “nói với HS” để hướng dẫn các em cách suy nghĩ, vận dụng và thực hành (đây là điểm khác nhau cơ bản giữa hai cách dạy mà hiện nay chúng ta phải thay đổi theo hướng tích cực). Chính vì vậy, khi vận dung quan điểm giao tiếp trong việc dạy văn thì cần phải có nhiều năng lực như: năng lực tổ chức, năng lực giao tiếp, năng lực xây dựng, năng lực nghiên cứu và năng lực đàm thoại, năng lực quan sát… Bởi vì, đối
9
với việc dạy văn nói chung văn miêu tả nói riêng, muốn học trò tả đúng theo
mục đích tả hay thì GV phải dạy cho trò biết cách quan sát về đối tượng
mình sẽ miêu tả. Phải nắm vững kĩ năng quan sát; quan sát là nhìn, là xem xét, nhận
biết một vật, một người, một cảnh...nào đó để phát hiện những cái khác biệt của nó.
Nếu quan sát kỹ lưỡng, cụ thể thì bài viết sẽ sâu sắc, hấp dẫn, lôi cuốn...
Tác giả còn khẳng định: “Bất một ngôn bản nào cũng phục vụ cho việc
giao tiếp. Bài tập làm văn của HS trong nhà trường được coi một ngôn bản
dạng nói hoặc viết… Cũng vì vậy, bài tập làm văn của HS được giả định phục vụ cho
việc giao tiếp - cũng phải tính toán tới các nhân tố giao tiếp: nội dung giao tiếp, đối
tượng giao tiếp, hoàn cảnh giao tiếp….”
Nguyễn Quang Ninh đã định hướng cụ thể cho việc dạy tập làm văn nói
viết theo quan điểm giao tiếp. Trên cơ sở lý thuyết hội thoại, lý thuyết giao tiếp, tác
giả nhấn mạnh: việc dạy học làm văn nói, viết cho HS theo hướng giao tiếp trước hết
phải rèn luyện cho các em kĩ năng xác định các nhân tố giao tiếp chi phối đến bài
làm văn (như mục đích giao tiếp, nhân vật tham gia giao tiếp, cách thức giao
tiếp…) Bên cạnh đó, GVcũng phải biết tạo cho HS nhu cầu giao tiếp, môi trường
giao tiếp tốt trong các giờ học làm văn thông qua các tình huống giao tiếp giả định.
Cho đến nay, việc dạy học làm văn theo hướng giao tiếp đặc biệt là đối
với việc dạy học văn miêu tả vẫn còn "mảnh đất" chưa được khai phá
nhiều. Chỉ một số ít ý kiến của các nhà nghiên cứu, nhà phạm, một vài bài
báo và đề tài nghiên cứu liên quan đến vấn đề này.
Thị Thanh (2003) trong Phương pháp dạy học tập làm văn nói theo
hướng giao tiếp cho HS lớp 2 (Luận văn Thạc sĩ, ĐH SPHN, HN) đã xây dựng
được hệ thống cơ sở thuyết, nội dung dạy học tập làm văn nói, các năng cần
rèn luyện cho HS phương pháp dạy học từng kiểu bài trong chương trình lớp 2
một cách khá cụ thể. Tuy nhiên, đề tài mới dừng lại việc tổ chức dạy học một
phần nhỏ trong phân môn làm văn là tập làm văn nói, nhằm phát triển lời nói theo
trình độ tư duy cho HS lớp 2.
Khi bàn về việc tổ chức dạy học làm văn miêu tả theo quan điểm giao tiếp,
lâu nay các nhà nghiên cứu thường tập trung vào khâu rèn luyện cho HS các kĩ năng
miêu tả cơ bản, cách lập luận trong đoạn văn, kĩ năng xây dựng đoạn…, tức là hướng
tới mục tiêu giúp HS biết tổ chức các đơn vị ngôn ngữ thành bài văn miêu tả một
cách hệ thống, mạch lạc ... mà chưa nói đến mục đích giao tiếp và đối tượng giao tiếp
9 với việc dạy văn nói chung và văn miêu tả nói riêng, muốn học trò tả đúng theo mục đích và tả hay thì GV phải dạy cho trò biết cách quan sát về đối tượng mà mình sẽ miêu tả. Phải nắm vững kĩ năng quan sát; quan sát là nhìn, là xem xét, nhận biết một vật, một người, một cảnh...nào đó để phát hiện những cái khác biệt của nó. Nếu quan sát kỹ lưỡng, cụ thể thì bài viết sẽ sâu sắc, hấp dẫn, lôi cuốn... Tác giả còn khẳng định: “Bất kì một ngôn bản nào cũng phục vụ cho việc giao tiếp. Bài tập làm văn của HS trong nhà trường được coi là một ngôn bản ở dạng nói hoặc viết… Cũng vì vậy, bài tập làm văn của HS được giả định phục vụ cho việc giao tiếp - cũng phải tính toán tới các nhân tố giao tiếp: nội dung giao tiếp, đối tượng giao tiếp, hoàn cảnh giao tiếp….” Nguyễn Quang Ninh đã định hướng cụ thể cho việc dạy tập làm văn nói và viết theo quan điểm giao tiếp. Trên cơ sở lý thuyết hội thoại, lý thuyết giao tiếp, tác giả nhấn mạnh: việc dạy học làm văn nói, viết cho HS theo hướng giao tiếp trước hết phải rèn luyện cho các em kĩ năng xác định các nhân tố giao tiếp chi phối đến bài làm văn (như mục đích giao tiếp, nhân vật tham gia giao tiếp, cách thức giao tiếp…) Bên cạnh đó, GVcũng phải biết tạo cho HS nhu cầu giao tiếp, môi trường giao tiếp tốt trong các giờ học làm văn thông qua các tình huống giao tiếp giả định. Cho đến nay, việc dạy học làm văn theo hướng giao tiếp đặc biệt là đối với việc dạy học văn miêu tả vẫn còn là "mảnh đất" chưa được khai phá nhiều. Chỉ có một số ít ý kiến của các nhà nghiên cứu, nhà sư phạm, một vài bài báo và đề tài nghiên cứu liên quan đến vấn đề này. Lê Thị Thanh Hà (2003) trong Phương pháp dạy học tập làm văn nói theo hướng giao tiếp cho HS lớp 2 (Luận văn Thạc sĩ, ĐH SPHN, HN) đã xây dựng được hệ thống cơ sở lí thuyết, nội dung dạy học tập làm văn nói, các kĩ năng cần rèn luyện cho HS và phương pháp dạy học từng kiểu bài trong chương trình lớp 2 một cách khá cụ thể. Tuy nhiên, đề tài mới dừng lại ở việc tổ chức dạy học một phần nhỏ trong phân môn làm văn là tập làm văn nói, nhằm phát triển lời nói theo trình độ tư duy cho HS lớp 2. Khi bàn về việc tổ chức dạy học làm văn miêu tả theo quan điểm giao tiếp, lâu nay các nhà nghiên cứu thường tập trung vào khâu rèn luyện cho HS các kĩ năng miêu tả cơ bản, cách lập luận trong đoạn văn, kĩ năng xây dựng đoạn…, tức là hướng tới mục tiêu giúp HS biết tổ chức các đơn vị ngôn ngữ thành bài văn miêu tả một cách hệ thống, mạch lạc ... mà chưa nói đến mục đích giao tiếp và đối tượng giao tiếp
10
tác động quan trọng tới việc tổ chức bài viết của HS như thế nào. Trong khi đó điều
này vô cùng quan trọng chỉ khi các em đã xác định được đối tượng mục đích
giao tiếp một cách ràng thì mới có thể định ra chiến lược giao tiếp cụ thể “đến
lượt mình, chiến lược giao tiếp sẽ quyết định hướng lựa chọn các phương tiện ngôn
ngữ, cách thức tổ chức chúng như thế nào cho có hiệu quả nhất” [96-103].
Như vậy có thể thấy, việc dạy học làm văn miêu tả theo hướng giao tiếp
ở Lào cho đến nay vẫn chưa được tập trung nghiên cứu một cách có hệ thống
và cụ thể trong khi đây là phần chiếm dung lượng lớn nhất trong chương trình
làm văn bậc THCS và THPT. Vấn đề đặt ra ở đây là chúng tôi trên sở những
định hướng, thành tựu của các nhà nghiên cứu đi trước kết hợp với cái nhìn khoa
học, biện chứng lối duy logic sẽ tiếp tục triển khai đề tài này sao cho
hiệu quả, khả thi, nhằm góp phần vào việc nâng cao chất lượng dạy học tiếng
Lào trong nhà trường hiện nay.
3. Phạm vi và nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài Vận dụng quan điểm giao tiếp trong dạy văn miêu tả lớp 6 THCS
Lào (từ kinh nghiệm dạy học của Việt Nam) mục đích trình bày một cách hệ
thống về qui trình và các phương pháp rèn luyện năng làm văn miêu tả Lào
theo quan điểm giao tiếp cho HS lớp 6. Để có thể đạt được mục đích trên chúng tôi
cần làm rõ những yêu cầu cụ thể như sau:
- Xác định cơ sở thuyết và thực tiễn của việc dạy học thực hành làm văn
miêu tả lớp 6 ở Lào theo quan điểm giao tiếp.
- Xây dựng quy trình dạy học thực hành các kĩ năng làm văn miêu tả lớp 6 ở
Lào theo quan điểm giao tiếp, hướng đến cách ra đề, cách kiểm tra, đánh giá HS
theo quan điểm giao tiếp.
- Thiết kế một số giáo án dạy thực hành làm văn miêu tả theo quan điểm
giao tiếp để thể nghiệm quy trình dạy thực hành các năng làm văn miêu tả, dựa
trên sự đối chứng để rút ra những kết luận sư phạm đối với việc dạy học phân môn
làm văn trong nhà trường.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là việc tổ chức dạy học phân môn làm văn
miêu tả theo quan điểm giao tiếp cho HS lớp 6 trong nhà trường hiện nay. Như chúng
tôi đã khẳng định, dạy học làm văn miêu tả là nội dung rất quan trọng trong quá trình
dạy học tiếng mẹ đẻ. Bài làm văn của HS là sự thể hiện tập trung nhất chất lượng dạy
10 tác động quan trọng tới việc tổ chức bài viết của HS như thế nào. Trong khi đó điều này vô cùng quan trọng vì chỉ khi các em đã xác định được đối tượng và mục đích giao tiếp một cách rõ ràng thì mới có thể định ra chiến lược giao tiếp cụ thể và“đến lượt mình, chiến lược giao tiếp sẽ quyết định hướng lựa chọn các phương tiện ngôn ngữ, cách thức tổ chức chúng như thế nào cho có hiệu quả nhất” [96-103]. Như vậy có thể thấy, việc dạy học làm văn miêu tả theo hướng giao tiếp ở Lào cho đến nay vẫn chưa được tập trung nghiên cứu một cách có hệ thống và cụ thể trong khi đây là phần chiếm dung lượng lớn nhất trong chương trình làm văn bậc THCS và THPT. Vấn đề đặt ra ở đây là chúng tôi trên cơ sở những định hướng, thành tựu của các nhà nghiên cứu đi trước kết hợp với cái nhìn khoa học, biện chứng và lối tư duy logic − sẽ tiếp tục triển khai đề tài này sao cho có hiệu quả, khả thi, nhằm góp phần vào việc nâng cao chất lượng dạy và học tiếng Lào trong nhà trường hiện nay. 3. Phạm vi và nhiệm vụ nghiên cứu Đề tài Vận dụng quan điểm giao tiếp trong dạy văn miêu tả lớp 6 THCS ở Lào (từ kinh nghiệm dạy học của Việt Nam) có mục đích là trình bày một cách hệ thống về qui trình và các phương pháp rèn luyện kĩ năng làm văn miêu tả ở Lào theo quan điểm giao tiếp cho HS lớp 6. Để có thể đạt được mục đích trên chúng tôi cần làm rõ những yêu cầu cụ thể như sau: - Xác định cơ sở lý thuyết và thực tiễn của việc dạy học thực hành làm văn miêu tả lớp 6 ở Lào theo quan điểm giao tiếp. - Xây dựng quy trình dạy học thực hành các kĩ năng làm văn miêu tả lớp 6 ở Lào theo quan điểm giao tiếp, hướng đến cách ra đề, cách kiểm tra, đánh giá HS theo quan điểm giao tiếp. - Thiết kế một số giáo án dạy thực hành làm văn miêu tả theo quan điểm giao tiếp để thể nghiệm quy trình dạy thực hành các kĩ năng làm văn miêu tả, dựa trên sự đối chứng để rút ra những kết luận sư phạm đối với việc dạy học phân môn làm văn trong nhà trường. Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là việc tổ chức dạy học phân môn làm văn miêu tả theo quan điểm giao tiếp cho HS lớp 6 trong nhà trường hiện nay. Như chúng tôi đã khẳng định, dạy học làm văn miêu tả là nội dung rất quan trọng trong quá trình dạy học tiếng mẹ đẻ. Bài làm văn của HS là sự thể hiện tập trung nhất chất lượng dạy
11
học bộ môn. Vì vậy, chúng tôi chủ yếu đi sâu nghiên cứu việc dạy học làm văn trong
môi trường giao tiếp, bằng phương pháp giao tiếp và hướng tới mục tiêu là hoạt động
giao tiếp.
Tuy nhiên, do tính chất và dung lượng của một Luận văn Thạc sĩ, chúng tôi
chỉ xác định nghiên cứu ở một phạm vi hẹp, đó là dạng bài làm văn miêu tả, thuộc
chương trình làm văn lớp 6. Đây một nội dung dạy học hiện hành, ổn định
đang được áp dụng trong hệ thống giáo dục toàn quốc ở Lào.
Mặt khác, cũng do đây là đề tài thuộc lĩnh vực phương pháp dạy học nên
chúng tôi sẽ đi sâu tìm hiểu thêm một số thuật ngữ của các bộ môn liên ngành như
giáo dục học, tâm lý học, logic học…, đặc biệt là ngôn ngữ học văn bản, ngữ pháp
văn bản, thuyết giao tiếp, ngữ dụng học v.v. Đó cũng những nội dung
chúng tôi cần nghiên cứu trong quá trình triển khai đề tài.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu đề tài này,chúng tôi đã sử dụng phối hợp những
phương pháp chủ yếu sau đây:
4.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu ngữ liệu, gồm:
- Phương pháp thống kê: từ nguồn tài liệu có được, chúng tôi xem xét, tập
hợp, phân loại để tìm ra mỗi quan hệ bản chất của các nội dung kiến thức tác
dụng làm sáng tỏ vấn đề nghiên cứu.
- Phương pháp phân tích và tổng hợp ngữ liệu: đi kèm với việc phân tích
là quá trình tổng hợp, tập hợp toàn bộ nguồn ngữ liệu cần thiết đã phân tích được
vào một chỉnh thể thống nhất, phục vụ cho việc triển khai đề tài.
4.2. Nhóm phương pháp điều tra
Chúng tôi sẽ tổ chức điều tra thực tế việc dạy học làm văn miêu tả lớp 6
thông qua các phương pháp đặc thù sau:
- Phương pháp sử dụng các Anket: bằng các bảng câu hỏi, chúng tôi thu thập
thông tin về nhận thức của GV đối với tầm quan trọng của việc dạy học làm văn nói
chung, làm văn miêu tả nói riêng bậc THCS, tìm hiểu các phương pháp dạy học làm
văn cơ bản các GV đang sử dụng, những thuận lợi khó khăn trong quá trình
dạy học phần làm văn miêu tả lớp 6 bậc THCS.
11 học bộ môn. Vì vậy, chúng tôi chủ yếu đi sâu nghiên cứu việc dạy học làm văn trong môi trường giao tiếp, bằng phương pháp giao tiếp và hướng tới mục tiêu là hoạt động giao tiếp. Tuy nhiên, do tính chất và dung lượng của một Luận văn Thạc sĩ, chúng tôi chỉ xác định nghiên cứu ở một phạm vi hẹp, đó là dạng bài làm văn miêu tả, thuộc chương trình làm văn lớp 6. Đây là một nội dung dạy học hiện hành, ổn định và đang được áp dụng trong hệ thống giáo dục toàn quốc ở Lào. Mặt khác, cũng do đây là đề tài thuộc lĩnh vực phương pháp dạy học nên chúng tôi sẽ đi sâu tìm hiểu thêm một số thuật ngữ của các bộ môn liên ngành như giáo dục học, tâm lý học, logic học…, đặc biệt là ngôn ngữ học văn bản, ngữ pháp văn bản, lý thuyết giao tiếp, ngữ dụng học v.v. Đó cũng là những nội dung mà chúng tôi cần nghiên cứu trong quá trình triển khai đề tài. 4. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình nghiên cứu đề tài này,chúng tôi đã sử dụng phối hợp những phương pháp chủ yếu sau đây: 4.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu ngữ liệu, gồm: - Phương pháp thống kê: từ nguồn tài liệu có được, chúng tôi xem xét, tập hợp, phân loại để tìm ra mỗi quan hệ bản chất của các nội dung kiến thức có tác dụng làm sáng tỏ vấn đề nghiên cứu. - Phương pháp phân tích và tổng hợp ngữ liệu: đi kèm với việc phân tích là quá trình tổng hợp, tập hợp toàn bộ nguồn ngữ liệu cần thiết đã phân tích được vào một chỉnh thể thống nhất, phục vụ cho việc triển khai đề tài. 4.2. Nhóm phương pháp điều tra Chúng tôi sẽ tổ chức điều tra thực tế việc dạy học làm văn miêu tả lớp 6 thông qua các phương pháp đặc thù sau: - Phương pháp sử dụng các Anket: bằng các bảng câu hỏi, chúng tôi thu thập thông tin về nhận thức của GV đối với tầm quan trọng của việc dạy học làm văn nói chung, làm văn miêu tả nói riêng bậc THCS, tìm hiểu các phương pháp dạy học làm văn cơ bản mà các GV đang sử dụng, những thuận lợi và khó khăn trong quá trình dạy học phần làm văn miêu tả lớp 6 bậc THCS.
12
- Phương pháp quan sát: chúng tôi trực tiếp quan sát hoạt động dạy và học
của GV và HS thông qua việc dự giờ một số tiết học làm văn miêu tả lớp 6 THCS ở
Lào để bổ sung thông tin cho việc điều tra thực tế.
- Phương pháp phỏng vấn, đàm thoại: Chúng tôi sẽ tiến hành trao đổi hoặc
phỏng vấn một số đối tượng GV, HS để tìm hiểu thêm về nhận thức, ý kiến đánh giá của
GV và HS về dạy học làm miêu tả ở lớp 6 THCS ở Lào nhằm bổ sung thông tin, tăng độ
chính xác, tính khách quan và bổ trợ cho những phương pháp khác.
- Phương pháp xử bảng hỏi: đây bước thống kê, phân loại, tổng hợp
những thông tin thu được trong bảng hỏi, kết hợp với những thông tin có được qua
việc quan sát, phỏng vấn, đàm thoại để tiến hành xử số liệu thông tin, rút ra
những kết luận cần thiết phục vụ cho mục đích nghiên cứu.
4.3. Phương pháp thực nghiệm
Trong lý luận dạy Tiếng, thực nghiệm phương pháp vô cùng quan trọng,
nhằm kiểm chứng các giả thuyết khoa học đã đề ra, trên cơ sở đó, đưa vào ứng dụng
những thành tựu nghiên cứu khoa học tiến bộ, góp phần nâng cao chất lượng dạy học
bộ môn.
đây, chúng tôi chủ yếu tiến hành phương pháp thực nghiệm giảng dạy. Từ
những cơ sở thuyết đã vạch ra, những định hướng dạy học làm văn miêu tả theo
quan điểm giao tiếp cho HS lớp 6 THCS đã được xây dựng từ các hình tổ
chức dạy học các nội dung cụ thể, chúng tôi sẽ đưa ra một số giáo án thực nghiệm
với sự đóng góp ý kiến của các GVvà các nhà nghiên cứu. Việc thực nghiệm giảng
dạy sẽ được tiến hành ở một số lớp thuộc một số trường THCS ở Lào theo ý đồ
mục đích của người nghiên cứu.
Chúng tôi hy vọng quá trình thực nghiệm có thể kiểm tra được khả năng vận
dụng và mức độ hiệu quả của việc đưa định hướng, quan điểm giao tiếp vào dạy
học làm văn miêu tả cho HS lớp 6 THCS ở Lào.
5. Dự kiến đóng góp khoa học của đề tài
5.1. Đề tài sẽ là nguồn tài liệu tham khảo cho người dạy học và trước hết
bản thân, được trang bị tốt về mặt kĩ năng và phương pháp giảng dạy tiếng Lào nói
chung và làm văn miêu tả lớp 6 ở tỉnh Chăm Pa Sắc của chúng tôi nói riêng, nhằm
đạt hiệu quả cao nhất.
12 - Phương pháp quan sát: chúng tôi trực tiếp quan sát hoạt động dạy và học của GV và HS thông qua việc dự giờ một số tiết học làm văn miêu tả lớp 6 THCS ở Lào để bổ sung thông tin cho việc điều tra thực tế. - Phương pháp phỏng vấn, đàm thoại: Chúng tôi sẽ tiến hành trao đổi hoặc phỏng vấn một số đối tượng GV, HS để tìm hiểu thêm về nhận thức, ý kiến đánh giá của GV và HS về dạy học làm miêu tả ở lớp 6 THCS ở Lào nhằm bổ sung thông tin, tăng độ chính xác, tính khách quan và bổ trợ cho những phương pháp khác. - Phương pháp xử lý bảng hỏi: đây là bước thống kê, phân loại, tổng hợp những thông tin thu được trong bảng hỏi, kết hợp với những thông tin có được qua việc quan sát, phỏng vấn, đàm thoại để tiến hành xử lý số liệu và thông tin, rút ra những kết luận cần thiết phục vụ cho mục đích nghiên cứu. 4.3. Phương pháp thực nghiệm Trong lý luận dạy Tiếng, thực nghiệm là phương pháp vô cùng quan trọng, nhằm kiểm chứng các giả thuyết khoa học đã đề ra, trên cơ sở đó, đưa vào ứng dụng những thành tựu nghiên cứu khoa học tiến bộ, góp phần nâng cao chất lượng dạy học bộ môn. Ở đây, chúng tôi chủ yếu tiến hành phương pháp thực nghiệm giảng dạy. Từ những cơ sở lý thuyết đã vạch ra, những định hướng dạy học làm văn miêu tả theo quan điểm giao tiếp cho HS lớp 6 THCS đã được xây dựng và từ các mô hình tổ chức dạy học các nội dung cụ thể, chúng tôi sẽ đưa ra một số giáo án thực nghiệm với sự đóng góp ý kiến của các GVvà các nhà nghiên cứu. Việc thực nghiệm giảng dạy sẽ được tiến hành ở một số lớp thuộc một số trường THCS ở Lào theo ý đồ và mục đích của người nghiên cứu. Chúng tôi hy vọng quá trình thực nghiệm có thể kiểm tra được khả năng vận dụng và mức độ − hiệu quả của việc đưa định hướng, quan điểm giao tiếp vào dạy học làm văn miêu tả cho HS lớp 6 THCS ở Lào. 5. Dự kiến đóng góp khoa học của đề tài 5.1. Đề tài sẽ là nguồn tài liệu tham khảo cho người dạy học và trước hết là bản thân, được trang bị tốt về mặt kĩ năng và phương pháp giảng dạy tiếng Lào nói chung và làm văn miêu tả lớp 6 ở tỉnh Chăm Pa Sắc của chúng tôi nói riêng, nhằm đạt hiệu quả cao nhất.
13
5.2. Từng bước thay thế cách dạy học nặng về thuyết trừu tượng khô
khan, ít gắn với hoạt động giao tiếp, nhằm phát huy tính tích cực, sáng tạo của HS
trong học tập, khắc phục những hạn chế của việc dạy làm văn miêu tả lớp 6 trước
đây ở Lào.
5.3. Đề xuất với trường THCS của tỉnh Chăm Pa Sắc bổ sung những nội
dung cần thiết cho HS lớp 6 khi học lên bậc THPT, trang bị cho HS những kiến
thức còn yếu: cách diễn đạt ngôn từ, kỹ năng quan sát miêu tả, cách thức
phương tiện miêu tảlàm sao cho việc dạy học làm văn hiệu quả, hứng thú,
đáp ứng yêu cầu của đổi mới giáo dục hiện nay.
5.4. Đề tài còn có thể là một tài liệu tham khảo hữu ích cho GV khi họ muốn
tìm hiểu, vận dụng phương pháp giao tiếp trong dạy học m văn miêu tả lớp 6
THCS ở tỉnh Chăm Pa Sắc, để qua đây GV sẽ đánh giá được năng lực của HS ở các
mặt: năng lực quan sát, cảm nhận về cuộc sống, năng lực ngôn ngữ, năng lực
duy, năng lực giao tiếp bằng lời...
Chính vì vậy, dựa trên những công trình về thuyết và thực hành LV miêu
tả, những bài viết về quan điểm giao tiếp trong DHLV miêu tả định hướng đổi
mới DH làm văn và văn miêu tả hiện nay, chúng tôi tiếp tục đi sâu vào quan điểm
giao tiếp trong DH thực hành LV miêu tả, xem xét cố gắng thiết kế quan điểm giao
tiếp trong DH thành quy trình vận dụng quan điểm giao tiếp trong dạy văn miêu tả
lớp 6 THCS ở Lào, bổ sung, hoàn thiện PPDH làm văn miêu tả, góp phần vào việc
nâng cao hiệu quả dạy học phân môn làm văn nói chung và làm văn miêu tả
trong nhà trường hiện nay nói riêng.
6. Cấu trúc luận văn
Luận văn gồm 3 phần chính: Phần Mở đầu, Phần Nội dung, Phần Kết
luận.
Ngoài phần mđầu, kết luận, phần phụ lục, phần nội dung của luận văn
bao gồm 3 chương chính:
Chương 1 Những vấn đề lý thuyết về giao tiếp và hoạt động giao tiếp trong
dạy văn được trình bày từ trang 15 đến trang 23là chương nền nhằm cung cấp những
cơ sở lý luận của giao tiếp và hoạt động giao tiếp trong việc dạy làm văn dựa vào chức
năng cơ bản của ngôn ngữ là chức năng giao tiếp.
13 5.2. Từng bước thay thế cách dạy học nặng về lý thuyết trừu tượng khô khan, ít gắn với hoạt động giao tiếp, nhằm phát huy tính tích cực, sáng tạo của HS trong học tập, khắc phục những hạn chế của việc dạy làm văn miêu tả lớp 6 trước đây ở Lào. 5.3. Đề xuất với trường THCS của tỉnh Chăm Pa Sắc bổ sung những nội dung cần thiết cho HS lớp 6 khi học lên bậc THPT, trang bị cho HS những kiến thức còn yếu: cách diễn đạt ngôn từ, kỹ năng quan sát – miêu tả, cách thức và phương tiện miêu tả… làm sao cho việc dạy học làm văn có hiệu quả, hứng thú, đáp ứng yêu cầu của đổi mới giáo dục hiện nay. 5.4. Đề tài còn có thể là một tài liệu tham khảo hữu ích cho GV khi họ muốn tìm hiểu, vận dụng phương pháp giao tiếp trong dạy học làm văn miêu tả lớp 6 THCS ở tỉnh Chăm Pa Sắc, để qua đây GV sẽ đánh giá được năng lực của HS ở các mặt: năng lực quan sát, cảm nhận về cuộc sống, năng lực ngôn ngữ, năng lực tư duy, năng lực giao tiếp bằng lời... Chính vì vậy, dựa trên những công trình về lí thuyết và thực hành LV miêu tả, những bài viết về quan điểm giao tiếp trong DHLV miêu tả và định hướng đổi mới DH làm văn và văn miêu tả hiện nay, chúng tôi tiếp tục đi sâu vào quan điểm giao tiếp trong DH thực hành LV miêu tả, xem xét cố gắng thiết kế quan điểm giao tiếp trong DH thành quy trình vận dụng quan điểm giao tiếp trong dạy văn miêu tả lớp 6 THCS ở Lào, bổ sung, hoàn thiện PPDH làm văn miêu tả, góp phần vào việc nâng cao hiệu quả dạy và học phân môn làm văn nói chung và làm văn miêu tả trong nhà trường hiện nay nói riêng. 6. Cấu trúc luận văn Luận văn gồm có 3 phần chính: Phần Mở đầu, Phần Nội dung, Phần Kết luận. Ngoài phần mở đầu, kết luận, phần phụ lục, phần nội dung của luận văn bao gồm 3 chương chính: Chương 1 − Những vấn đề lý thuyết về giao tiếp và hoạt động giao tiếp trong dạy văn được trình bày từ trang 15 đến trang 23là chương nền nhằm cung cấp những cơ sở lý luận của giao tiếp và hoạt động giao tiếp trong việc dạy làm văn dựa vào chức năng cơ bản của ngôn ngữ là chức năng giao tiếp.