LUẬN VĂN: Nghiên cứu công tác xây dựng Tổ Chức Cơ Sở Đảng ở nông thôn tỉnh Hưng Yên

9,557
153
119
LUẬN VĂN:
Nghiên cứu công tác xây dựng Tổ
Chức Cơ Sở Đảng ở nông thôn
tỉnh Hưng Yên
LUẬN VĂN: Nghiên cứu công tác xây dựng Tổ Chức Cơ Sở Đảng ở nông thôn tỉnh Hưng Yên
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tổ chức cơ sở Đảng (TCCSĐ) - Chi bộ cơ sở, đảng bộ cơ sở là nền tảng của Đảng,
hạt nhõn chớnh trị lónh đạo mọi mặt cơ sở. TCCSĐ vị trí đặc biệt quan trọng
trong việc lónh đạo, tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối của Đảng ở cơ sở và góp phần
hoàn thiện đường lối của Đảng. Coi trọng xây dựng và nâng cao năng lực lónh đạo, sức
chiến đấu của TCCSĐ là nội dung cơ bản, là vấn đề có tính quy luật trong xây dựng, đổi
mới và chỉnh đốn Đảng của Đảng ta.
Để đáp ứng với tỡnh hỡnh nhiệm vụ phỏt triển kinh tế hội trong giai đoạn
mới, ngày 6-11-1996, Quốc hội khoá IX khọp thứ X đó ra Nghị quyết chia tỉnh Hải
Hưng thành hai tỉnh Hải Dương và Hưng Yên. Ngày 1-1-1997, tỉnh Hưng Yên chính thức
được tái lập sau 29 năm hợp nhất với tỉnh Hải Dương.
Tỉnh Hưng Yên có diện tích đất tự nhiên 894,79km
2
, dân số 1.075.517 người, với
6 đơn vhành chớnh cấp huyện gồm: Thị xó Hưng Yên và các huyện Mỹ Văn, Châu
Giang, Phù Tiên, Kim Động, Ân Thi.
Cùng với việc tái lập tỉnh; Bộ Chính trị đó ra quyết định thành lập Đảng bộ tỉnh Hưng
Yên và chỉ định Ban Chấp hành lâm thời Đảng bộ tỉnh gồm 36 đồng chí, có 11 đồng chí trong
Ban Thường vụ, đồng cĐặng Văn Cảo được chỉ định làm Bí thư tỉnh uỷ.
Trong bộn bề cụng việc của một tỉnh mới tỏi lập, thỡ vấn đề nâng cao năng lực
lónh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh là một trong
những nhiệm vụ có tầm quan trọng đặc biệt, quyết định thắng lợi công cuộc đổi mới của
Đảng bộ và nhân dân trong tỉnh.
Sau hơn 10 năm thực hiện công cuộc đổi mới, tiến hành đổi mới chỉnh đốn
Đảng, nhiều TCCSĐ nông thôn trong tỉnh Hải Hưng (tỉnh hợp nhất) đó vươn lên thích
ứng dần với chế mới, lónh đạo kinh tế - xó hội nụng thụn phỏt triển, đạt được nhiều
thành quả. Số TCCSĐ trong sạch vững mạnh tăng lên đáng kể. Tuy nhiên số TCCSĐ yếu
kém vẫn cũn khụng ớt, nhiều TCCSĐ hoạt động kém hiệu quả.
Nghiên cứu công tác xây dựng TCCSĐ nông thôn tỉnh Hưng Yên trong những
năm đầu tái lập, góp phần làm sáng tỏ những chủ trương của Đảng bộ, quá trỡnh tổ chức
thực hiện, nờu rừ những thành tựu, hạn chế và một số kinh nghiệm chủ yếu trong lónh
MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Tổ chức cơ sở Đảng (TCCSĐ) - Chi bộ cơ sở, đảng bộ cơ sở là nền tảng của Đảng, là hạt nhõn chớnh trị lónh đạo mọi mặt ở cơ sở. TCCSĐ có vị trí đặc biệt quan trọng trong việc lónh đạo, tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối của Đảng ở cơ sở và góp phần hoàn thiện đường lối của Đảng. Coi trọng xây dựng và nâng cao năng lực lónh đạo, sức chiến đấu của TCCSĐ là nội dung cơ bản, là vấn đề có tính quy luật trong xây dựng, đổi mới và chỉnh đốn Đảng của Đảng ta. Để đáp ứng với tỡnh hỡnh và nhiệm vụ phỏt triển kinh tế xó hội trong giai đoạn mới, ngày 6-11-1996, Quốc hội khoá IX kỳ họp thứ X đó ra Nghị quyết chia tỉnh Hải Hưng thành hai tỉnh Hải Dương và Hưng Yên. Ngày 1-1-1997, tỉnh Hưng Yên chính thức được tái lập sau 29 năm hợp nhất với tỉnh Hải Dương. Tỉnh Hưng Yên có diện tích đất tự nhiên 894,79km 2 , dân số 1.075.517 người, với 6 đơn vị hành chớnh cấp huyện gồm: Thị xó Hưng Yên và các huyện Mỹ Văn, Châu Giang, Phù Tiên, Kim Động, Ân Thi. Cùng với việc tái lập tỉnh; Bộ Chính trị đó ra quyết định thành lập Đảng bộ tỉnh Hưng Yên và chỉ định Ban Chấp hành lâm thời Đảng bộ tỉnh gồm 36 đồng chí, có 11 đồng chí trong Ban Thường vụ, đồng chí Đặng Văn Cảo được chỉ định làm Bí thư tỉnh uỷ. Trong bộn bề cụng việc của một tỉnh mới tỏi lập, thỡ vấn đề nâng cao năng lực lónh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh là một trong những nhiệm vụ có tầm quan trọng đặc biệt, quyết định thắng lợi công cuộc đổi mới của Đảng bộ và nhân dân trong tỉnh. Sau hơn 10 năm thực hiện công cuộc đổi mới, tiến hành đổi mới và chỉnh đốn Đảng, nhiều TCCSĐ nông thôn trong tỉnh Hải Hưng (tỉnh hợp nhất) đó vươn lên thích ứng dần với cơ chế mới, lónh đạo kinh tế - xó hội nụng thụn phỏt triển, đạt được nhiều thành quả. Số TCCSĐ trong sạch vững mạnh tăng lên đáng kể. Tuy nhiên số TCCSĐ yếu kém vẫn cũn khụng ớt, nhiều TCCSĐ hoạt động kém hiệu quả. Nghiên cứu công tác xây dựng TCCSĐ ở nông thôn tỉnh Hưng Yên trong những năm đầu tái lập, góp phần làm sáng tỏ những chủ trương của Đảng bộ, quá trỡnh tổ chức thực hiện, nờu rừ những thành tựu, hạn chế và một số kinh nghiệm chủ yếu trong lónh
đạo của Đảng bộ; nhằm góp phần làm sáng tỏ hơn hoạt động lónh đạo của Đảng bộ, vỡ
vậy tụi chọn vấn đề này làm đề tài luận văn cao học chuyên ngành Lịch sử Đảng.
2. Tỡnh hỡnh nghiờn cứu đề tài
Những quan điểm, chủ trương, biện pháp lớn để nâng cao năng lực lónh đạo và sức
chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng ở nông thôn đó được thể hiện qua các văn kiện của Đảng.
Đó cú nhiều cỏ nhõn và cơ quan khoa học chọn vấn đề tổ chức cơ sở Đảng nông thôn làm
đề tài nghiên cứu khoa học, khai thác từ những khía cạnh khác nhau. Trong đó có nhiều đề
tài cấp Bộ, đề tài luận án Tiến sĩ, Thạc sĩ ... được nghiên cứu dưới góc độ Xây dựng Đảng
như:
- Lê Văn Phụ (1993): ng tác tư tưởng của tổ chức cơ sở Đảng đối với quần chúng
theo đạo Thiên chúa (Luận văn Thạc sĩ Lịch sử, chuyên ngành Xây dựng Đảng).
- Đỗ Ngọc Ninh (1995): Nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở Đảng nông thôn (cấp xó)
vựng đồng bằng sông Hồng (Luận án Tiến sĩ Lịch sử, chuyên ngành Xây dựng Đảng).
- Viện Mác - Lênin (1995): Vấn đề xây dựng Đảng ở một số vùng có đồng bào theo
đạo Thiên chúa ở miền Bắc hiện nay (Đề tài khoa học cấp Bộ).
- Nguyền Đức Ái (2000): Năng lực lónh đạo sức chiến đấu của tổ chức sở
Đảng nông thôn vùng cao phía Bắc trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước (Luận án Tiến sĩ Lịch sử, chuyên ngành Xây dựng Đảng).
- Bùi Đức Nhẫn (2001): Nâng cao chất lượng tổ chức sở Đảng vùng đồng
bào theo đạo Công giáo ở tỉnh Phú Thọ hiện nay (Luận văn Thạc sĩ Tôn giáo).
Những kết quả nghiên cứu, thông tin tư liệu từ những tài liệu nói trên đó gúp phần
từng bước làm sỏng tỏ cả về lý luận và thực tiễn vấn đề tổ chức cơ sở Đảng ở nông thôn. Tuy
nhiên từ góc độ Lịch sử Đảng chưa có nhiều công trỡnh nghiờn cứu về xõy dựng tổ chức cơ
sở Đảng. Đối với tỉnh Hưng Yên, trong thời kỳ đổi mới chưa có công trỡnh nào nghiờn cứu
về tổ chức cơ sở Đảng dưới góc độ khoa học Lịch sử Đảng. Tiếp thu những kết quả nghiên
cứu trên, luận văn đi sâu nghiên cứu một cách tương đối có hệ thống và toàn diện vấn đề
Công tác tổ chức cơ sở Đảng ở nông thôn tỉnh Hưng Yên từ năm 1997 đến năm 2005.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
đạo của Đảng bộ; nhằm góp phần làm sáng tỏ hơn hoạt động lónh đạo của Đảng bộ, vỡ vậy tụi chọn vấn đề này làm đề tài luận văn cao học chuyên ngành Lịch sử Đảng. 2. Tỡnh hỡnh nghiờn cứu đề tài Những quan điểm, chủ trương, biện pháp lớn để nâng cao năng lực lónh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng ở nông thôn đó được thể hiện qua các văn kiện của Đảng. Đó cú nhiều cỏ nhõn và cơ quan khoa học chọn vấn đề tổ chức cơ sở Đảng nông thôn làm đề tài nghiên cứu khoa học, khai thác từ những khía cạnh khác nhau. Trong đó có nhiều đề tài cấp Bộ, đề tài luận án Tiến sĩ, Thạc sĩ ... được nghiên cứu dưới góc độ Xây dựng Đảng như: - Lê Văn Phụ (1993): Công tác tư tưởng của tổ chức cơ sở Đảng đối với quần chúng theo đạo Thiên chúa (Luận văn Thạc sĩ Lịch sử, chuyên ngành Xây dựng Đảng). - Đỗ Ngọc Ninh (1995): Nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở Đảng nông thôn (cấp xó) vựng đồng bằng sông Hồng (Luận án Tiến sĩ Lịch sử, chuyên ngành Xây dựng Đảng). - Viện Mác - Lênin (1995): Vấn đề xây dựng Đảng ở một số vùng có đồng bào theo đạo Thiên chúa ở miền Bắc hiện nay (Đề tài khoa học cấp Bộ). - Nguyền Đức Ái (2000): Năng lực lónh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng nông thôn vùng cao phía Bắc trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước (Luận án Tiến sĩ Lịch sử, chuyên ngành Xây dựng Đảng). - Bùi Đức Nhẫn (2001): Nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở Đảng vùng có đồng bào theo đạo Công giáo ở tỉnh Phú Thọ hiện nay (Luận văn Thạc sĩ Tôn giáo). Những kết quả nghiên cứu, thông tin tư liệu từ những tài liệu nói trên đó gúp phần từng bước làm sỏng tỏ cả về lý luận và thực tiễn vấn đề tổ chức cơ sở Đảng ở nông thôn. Tuy nhiên từ góc độ Lịch sử Đảng chưa có nhiều công trỡnh nghiờn cứu về xõy dựng tổ chức cơ sở Đảng. Đối với tỉnh Hưng Yên, trong thời kỳ đổi mới chưa có công trỡnh nào nghiờn cứu về tổ chức cơ sở Đảng dưới góc độ khoa học Lịch sử Đảng. Tiếp thu những kết quả nghiên cứu trên, luận văn đi sâu nghiên cứu một cách tương đối có hệ thống và toàn diện vấn đề Công tác tổ chức cơ sở Đảng ở nông thôn tỉnh Hưng Yên từ năm 1997 đến năm 2005. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
3.1. Đối ợng nghiên cứu: Các tổ chức sở đảng nông thôn tỉnh Hưng Yên
những năm đầu tái lập.
3.2. Phạm vi nghiên cứu: Công tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng ở nông thôn tỉnh
Hưng Yên từ năm 1997 đến năm 2005.
4. Mục đích và nhiệm vụ
4.1. Mục đích: Góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức
sở đảng nông thôn tỉnh Hưng Yên trong những năm đầu tái lập, nhằm thực hiện
thắng lợi nhiệm vụ chính trị - kinh tế - hội quốc phòng an ninh của tỉnh trong giai
đoạn hiện nay.
4.2. Nhiệm vụ của luận văn
- Đánh giá đúng thực trạng, những chủ trương và quá trình lãnh đạo, chỉ đạo thực
hiện của Đảng bộ tỉnh Hưng Yên về xây dựng tổ chức cơ sở đảng từ 1997 - 2005.
- Góp phần làm những thành tựu, hạn chế trong công tác xây dựng tổ chức
sở đảng ở nông thôn tỉnh Hưng Yên.
- Nêu lên một số kinh nghiệm chủ yếu trong công tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng
của tỉnh trong những năm đầu mới tái lập.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn
- Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng
Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về tổ chức cơ sở đảng.
- Kế thừa những công trình, thành tựu nghiên cứu về xây dựng tổ chức cơ sở đảng ở
nông thôn. Thực tiễn hoạt động xây dựng tổ chức cơ sở đảng ở nông thôn tỉnh Hưng Yên
dựa trên kết quả điều tra thực tế thu thập tư liệu ở một số tổ chức cơ sở đảng của tỉnh.
5.2. Phương pháp nghiên cứu: Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp
duy vật biện chứng duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin kêt hơp chặt chẽ giữa
lôgíc và lịch sử,phân tích tổng hợp, điều tra hội học, kết hợp nghiên cứu luận với
tổng kết thực tiễn.
6. Đóng góp mới về khoa học và ý nghĩa thực tiễn của luận văn
3.1. Đối tượng nghiên cứu: Các tổ chức cơ sở đảng nông thôn tỉnh Hưng Yên những năm đầu tái lập. 3.2. Phạm vi nghiên cứu: Công tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng ở nông thôn tỉnh Hưng Yên từ năm 1997 đến năm 2005. 4. Mục đích và nhiệm vụ 4.1. Mục đích: Góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng ở nông thôn tỉnh Hưng Yên trong những năm đầu tái lập, nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị - kinh tế - xã hội – quốc phòng an ninh của tỉnh trong giai đoạn hiện nay. 4.2. Nhiệm vụ của luận văn - Đánh giá đúng thực trạng, những chủ trương và quá trình lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện của Đảng bộ tỉnh Hưng Yên về xây dựng tổ chức cơ sở đảng từ 1997 - 2005. - Góp phần làm rõ những thành tựu, hạn chế trong công tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng ở nông thôn tỉnh Hưng Yên. - Nêu lên một số kinh nghiệm chủ yếu trong công tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng của tỉnh trong những năm đầu mới tái lập. 5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của luận văn 5.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn - Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về tổ chức cơ sở đảng. - Kế thừa những công trình, thành tựu nghiên cứu về xây dựng tổ chức cơ sở đảng ở nông thôn. Thực tiễn hoạt động xây dựng tổ chức cơ sở đảng ở nông thôn tỉnh Hưng Yên dựa trên kết quả điều tra thực tế thu thập tư liệu ở một số tổ chức cơ sở đảng của tỉnh. 5.2. Phương pháp nghiên cứu: Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin kêt hơp chặt chẽ giữa lôgíc và lịch sử,phân tích tổng hợp, điều tra xã hội học, kết hợp nghiên cứu lý luận với tổng kết thực tiễn. 6. Đóng góp mới về khoa học và ý nghĩa thực tiễn của luận văn
- Cung cấp căn cứ khoa học cho quá trình Đảng lãnh đạo xây dựng TCCSĐ
nông thôn.
- Góp phần làm sáng tỏ thêm những chủ trương và quá trình tổ chức chỉ đạo của
Tỉnh uỷ về công tác xây dựng TCCSĐ ở nông thôn tỉnh Hưng Yên.
- Bước đầu nêu lên một số kinh nghiệm chủ yếu trong công tác xây dựng TCCSĐ.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn chia làm 3
chương, 8 tiết.
- Cung cấp căn cứ khoa học cho quá trình Đảng lãnh đạo xây dựng TCCSĐ ở nông thôn. - Góp phần làm sáng tỏ thêm những chủ trương và quá trình tổ chức chỉ đạo của Tỉnh uỷ về công tác xây dựng TCCSĐ ở nông thôn tỉnh Hưng Yên. - Bước đầu nêu lên một số kinh nghiệm chủ yếu trong công tác xây dựng TCCSĐ. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn chia làm 3 chương, 8 tiết.
Chương 1
CÔNG TÁC XÂY DỰNG TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG
Ở NÔNG THÔN TỈNH HƯNG YÊN TRONG NHỮNG NĂM
ĐẦU TÁI LẬP TỈNH (1997-2000)
1.1. ĐẶC ĐIỂM TèNH HèNH KINH TẾ - HỘI NễNG THễN TỈNH
HƯNG YÊN THỰC TRẠNG TỔ CHỨC SỞ ĐẢNG NHỮNG NĂM ĐẦU
TÁI LẬP
Hưng Yên tỉnh nằm tả ngạn sông Hồng, thuộc châu thổ đồng bằng Bắc Bộ,
nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc và tam giác tăng trưởng Hà Nội – Hải Phũng
– Quảng Ninh. Hưng Yên nằm trong toạ đ20°36’ và 21 độ bắc,105°53’ 106°15’
kinh độ Đông. Phía Bắc liền kề với thủ đô Hà Nội và tỉnh Bắc Ninh, phía Nam giáp tỉnh
Thái Bỡnh, phía Đông giáp tỉnh Hải Dương, phía Tây gíap tỉnh Hà Tây và Hà Nam. Đây
là một vùng đất phù sa màu mỡ, đậm nét truyền thống văn hoá và lịch sử lâu đời. Hưng
Yên một tỉnh nông nghiệp, một miền quê mang những nét đặc trưng của nông thôn
Việt Nam vùng đồng bằng Bắc Bộ.
Hưng Yên có diện tích đất tự nhiên 894.79km2, với địa hỡnh chênh chếch từ Tây
Bắc xuống Đông Nam và không thật sự bằng phẳng. Là tỉnh có độ cao trung bỡnh so với
mặt nước biển là 4m, nơi cao nhất là xó Thiện Phiến (Tiên Lữ) + 8m80, nơi thấp nhất
Hạ Lễ (Ân Thi) + 2m40, địa hỡnh trên ảnh hưởng trực tiếp đến việc canh tác, trước
kia thường xuyên xảy ra hạn hán, úng ngập, vùng cao không giữ được nước, trong khi
vùng thấp không tiêu được nước trong mùa mưa. Hiện nay Hưng Yên đó xây dựng hệ
thống thuỷ lợi dày đặc để kịp thời giải quyết những khó khăn do địa hỡnh gây ra,đảm bảo
cho việc sản xuất quanh năm, hạn chế đến mức thấp nhất thiệt hại do hạn hán, úng lụt.
Toàn tỉnh 61.037 ha đất nông nghiệp, đất trồng cây 55.645 ha (chiếm 91%),
cũn lại đất trồng cây lâu m mặt nước nuôi trồng thuỷ sản. Đất chưa sử dụng
khoảng 7.471 ha, toàn bộ diện tích trên đây đều có khả năng khai thác và phát triển nông
nghiệp.
Cũng như các tỉnh khác thuộc vùng đồng bằng sông Hồng, Hưng Yên chịu ảnh
hưởng sâu sắc của khi hậu nhiệt đới gió mùa, nóng ẩm, nhiều nắng và có mùa Đông lạnh,
Chương 1 CÔNG TÁC XÂY DỰNG TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG Ở NÔNG THÔN TỈNH HƯNG YÊN TRONG NHỮNG NĂM ĐẦU TÁI LẬP TỈNH (1997-2000) 1.1. ĐẶC ĐIỂM TèNH HèNH KINH TẾ - XÃ HỘI NễNG THễN TỈNH HƯNG YÊN VÀ THỰC TRẠNG TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG NHỮNG NĂM ĐẦU TÁI LẬP Hưng Yên là tỉnh nằm ở tả ngạn sông Hồng, thuộc châu thổ đồng bằng Bắc Bộ, nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc và tam giác tăng trưởng Hà Nội – Hải Phũng – Quảng Ninh. Hưng Yên nằm trong toạ độ 20°36’ và 21 vĩ độ bắc,105°53’ và 106°15’ kinh độ Đông. Phía Bắc liền kề với thủ đô Hà Nội và tỉnh Bắc Ninh, phía Nam giáp tỉnh Thái Bỡnh, phía Đông giáp tỉnh Hải Dương, phía Tây gíap tỉnh Hà Tây và Hà Nam. Đây là một vùng đất phù sa màu mỡ, đậm nét truyền thống văn hoá và lịch sử lâu đời. Hưng Yên là một tỉnh nông nghiệp, một miền quê mang những nét đặc trưng của nông thôn Việt Nam vùng đồng bằng Bắc Bộ. Hưng Yên có diện tích đất tự nhiên 894.79km2, với địa hỡnh chênh chếch từ Tây Bắc xuống Đông Nam và không thật sự bằng phẳng. Là tỉnh có độ cao trung bỡnh so với mặt nước biển là 4m, nơi cao nhất là xó Thiện Phiến (Tiên Lữ) + 8m80, nơi thấp nhất là xó Hạ Lễ (Ân Thi) + 2m40, địa hỡnh trên ảnh hưởng trực tiếp đến việc canh tác, trước kia thường xuyên xảy ra hạn hán, úng ngập, vùng cao không giữ được nước, trong khi vùng thấp không tiêu được nước trong mùa mưa. Hiện nay Hưng Yên đó xây dựng hệ thống thuỷ lợi dày đặc để kịp thời giải quyết những khó khăn do địa hỡnh gây ra,đảm bảo cho việc sản xuất quanh năm, hạn chế đến mức thấp nhất thiệt hại do hạn hán, úng lụt. Toàn tỉnh có 61.037 ha đất nông nghiệp, đất trồng cây 55.645 ha (chiếm 91%), cũn lại là đất trồng cây lâu năm và mặt nước nuôi trồng thuỷ sản. Đất chưa sử dụng khoảng 7.471 ha, toàn bộ diện tích trên đây đều có khả năng khai thác và phát triển nông nghiệp. Cũng như các tỉnh khác thuộc vùng đồng bằng sông Hồng, Hưng Yên chịu ảnh hưởng sâu sắc của khi hậu nhiệt đới gió mùa, nóng ẩm, nhiều nắng và có mùa Đông lạnh,
hàng năm có hai mùa rừ rệt. Nhiệt độ trung bỡnh hàng năm 23,2°c nhiệt độ trung bỡnh
mùa 25°c, mùa đông 16°c, lượng mưa trung bỡnh từ 1.450 1.650 mm, (tháng 5
đến tháng 10) chiếm tới 70% lượng mưa cả năm.
Cùng với đất đai, điều kiện khí hậu thời tiết như vậy thuận lợi cho việc trồng
trọt và chăn nuôi nhiều loại cây, con có nguồn gốc nhiệt đới cận nhiệt đới. Tuy nhiên
khí hậu đây cũng những mặt không thuận lợi, nhất những diễn biến bất thường
gây trở ngại cho sản xuất và đời sống.
Về giao thông, ngoài tuyến đường sắt Nội Hải Phũng quốc lộ 5A, 39A,
39B, 38 chạy qua, Hưng Yên có mạng lưới đường thuỷ, đường bộ khá thuận lợi, đặc biệt
tháng 5 năm 2004 đó khánh thành cầu Yên Lệnh nối hai tỉnh Hưng Yên và Hà Nam.
Về đường bộ quốc lộ 5A chạy qua địa phận Hưng Yên dài 23km. Đường 39A từ
Phố nối qua Yên mỹ, Khoái Châu, Kim Động tới thị xó Hưng Yên, qua cầu Triều Dương
sang Thái Bỡnh. Đường 39B bắt đầu từ phường Hiến Nam (thị xó Hưng Yên) đi qua Tiên
Lữ, Phù Cừ tới cầu Tràng sang Hải Dương. đường 38 xuất phát từ thị Bắc Ninh đến
Quán Gỏi (Hải Dương) qua thị trấn Ân Thi đến Trương (Kim Động) nối với đường
39A, đi thị xó Hưng Yên qua cầu Yên Lệnh đến Đồng Văn (Hà Nam) thông quốc lộ 1A
(tuyến Bắc - Nam quan trọng nhất của cả nước). Đường 200 từ Giai Phạm (Yên Mỹ) qua
thị trấn Ân Thi tới thị trấn Vương tới Hải Triều (Tiên Lữ) gặp đê sông Luộc đường
39A. Đó là chưa kể các đường: 99, 179, 195, 199, 201, 102, 104, 105, 206, và hàng trăm
km đường đê đó liên kết các xó huyện trong tỉnh hỡnh thành tuyến đường ngắn nhất
qua địa bàn Hưng Yên, nối với quốc lộ 5A ra thành phố Hải Phũng và Quảng Ninh nhằm
tạo sự giao lưu kinh tế giữa Hưng Yên với các tỉnh, đồng thời góp phần giải toả mật độ
giao thông cao cho thủ đô Hà Nội.
Về đường sông Hưng yên mạng lưới sông ngũi khá y đặc vói ba hệ thống
sông lớn chảy qua: Sông Đuống, sông Hồng, sông Luộc - những đường sông chính của
Hưng Yên. Bên cạnh đó, Hưng Yên có hệ thống sông nội địa như: sông Cửu An, sông Kẻ
Sặt, sông Hoan Ái, sông Nghĩa Trụ, sông Điện Biên, sông Kim Sơn... là điều kiện thuận
lợi không chỉ cho sản xuất nông nghiệp mà cũn cho sự phát triển công nghiệp, sinh hoạt
và giao thông đường thuỷ.
hàng năm có hai mùa rừ rệt. Nhiệt độ trung bỡnh hàng năm 23,2°c nhiệt độ trung bỡnh mùa hè 25°c, mùa đông là 16°c, lượng mưa trung bỡnh từ 1.450 – 1.650 mm, (tháng 5 đến tháng 10) chiếm tới 70% lượng mưa cả năm. Cùng với đất đai, điều kiện khí hậu và thời tiết như vậy thuận lợi cho việc trồng trọt và chăn nuôi nhiều loại cây, con có nguồn gốc nhiệt đới và cận nhiệt đới. Tuy nhiên khí hậu ở đây cũng có những mặt không thuận lợi, nhất là những diễn biến bất thường gây trở ngại cho sản xuất và đời sống. Về giao thông, ngoài tuyến đường sắt Hà Nội – Hải Phũng và quốc lộ 5A, 39A, 39B, 38 chạy qua, Hưng Yên có mạng lưới đường thuỷ, đường bộ khá thuận lợi, đặc biệt tháng 5 năm 2004 đó khánh thành cầu Yên Lệnh nối hai tỉnh Hưng Yên và Hà Nam. Về đường bộ quốc lộ 5A chạy qua địa phận Hưng Yên dài 23km. Đường 39A từ Phố nối qua Yên mỹ, Khoái Châu, Kim Động tới thị xó Hưng Yên, qua cầu Triều Dương sang Thái Bỡnh. Đường 39B bắt đầu từ phường Hiến Nam (thị xó Hưng Yên) đi qua Tiên Lữ, Phù Cừ tới cầu Tràng sang Hải Dương. đường 38 xuất phát từ thị xó Bắc Ninh đến Quán Gỏi (Hải Dương) qua thị trấn Ân Thi đến Trương Xá (Kim Động) nối với đường 39A, đi thị xó Hưng Yên qua cầu Yên Lệnh đến Đồng Văn (Hà Nam) thông quốc lộ 1A (tuyến Bắc - Nam quan trọng nhất của cả nước). Đường 200 từ Giai Phạm (Yên Mỹ) qua thị trấn Ân Thi tới thị trấn Vương tới Hải Triều (Tiên Lữ) gặp đê sông Luộc và đường 39A. Đó là chưa kể các đường: 99, 179, 195, 199, 201, 102, 104, 105, 206, và hàng trăm km đường đê đó liên kết các xó huyện trong tỉnh và hỡnh thành tuyến đường ngắn nhất qua địa bàn Hưng Yên, nối với quốc lộ 5A ra thành phố Hải Phũng và Quảng Ninh nhằm tạo sự giao lưu kinh tế giữa Hưng Yên với các tỉnh, đồng thời góp phần giải toả mật độ giao thông cao cho thủ đô Hà Nội. Về đường sông Hưng yên có mạng lưới sông ngũi khá dày đặc vói ba hệ thống sông lớn chảy qua: Sông Đuống, sông Hồng, sông Luộc - những đường sông chính của Hưng Yên. Bên cạnh đó, Hưng Yên có hệ thống sông nội địa như: sông Cửu An, sông Kẻ Sặt, sông Hoan Ái, sông Nghĩa Trụ, sông Điện Biên, sông Kim Sơn... là điều kiện thuận lợi không chỉ cho sản xuất nông nghiệp mà cũn cho sự phát triển công nghiệp, sinh hoạt và giao thông đường thuỷ.
Từ thị Hưng Yên tàu thuyền thể ngược sông Hồng lên Nội, Sơn Tây,
Việt Trỡ, Yên Bái, Lào Cai, hoặc xuôi Thái Bỡnh, Nam Định rồi ra biển. Trên sông Luộc
tàu thuyền thể đi Ninh Giang, Phả Lại (Hải Dương), Hải Phũng. Các sông nhỏ khác
trong tỉnh, đặc biệt có công trỡnh đại thuỷ nông Bắc – Hưng – Hải đều là những đường
giao thông thuận tiện cho việc vận chuyển hàng hoá, lúa, ngô, vật liệu xây dựng…
Giao thông thuỷ bộ của Hưng Yên vừa điều kiện thuận lợi, vừa tiềm nămg
lớn để Hưng Yên phát triển kinh tế, văn hoá, xó hội. Hưng yên được bao bọc bởi sông
Hồng và sông Luộc, có nguồn nước ngọt dồi dào ở dọc khu vực quốc lộ 5A từ Như Quỳnh
(Văn Lâm) đến Quán Gỏi (Hải Dương) có những túi nước ngầm với dung tích hàng triệu m
3
,
không chỉ cung cấp nước cho phát triển công nghiệp và đô thị mà cũn có thể cung cấp khối
lượng lớn nước cho các khu vực lân cận.
Hưng Yên mỏ than nâu (thuộc bể than vùng đồng bằng sông Hồng) trữ lượng
lớn nhất (hơn 30 tỷ tấn) chưa được khai thác, đây tiềm năng lớn cho ngành công
nghiệp than, phục vụ cho sản xuất, tiêu dùng và xuất khẩu.
Dân số Hưng Yên 1.075.517 người, trong đó số người trong độ tuổi lao động
chiếm hơn 50%. Tỷ lệ lao động trỡnh độ của Hưng Yên thấp, bởi sau khi tái lập tỉnh
đội ngũ cán bộ khoa học có trỡnh độ ở lại tỉnh công tác ít. Hiện nay số lao động chưa
việc làm cũn nhiều đó trở thành sức ép lớn đối với Hưng Yên trong vấn đề giải quyết việc
làm. Ngoài nghề chính trồng trọt, người n cũn nuôi trồng thuỷ sản trồng dâu, nuôi
tằm, làm các nghề thủ công và nghề truyền thống khác. Hiện nay Hưng Yên trên 57
vạn lao động trong độ tuổi, trẻ khoẻ, trỡnh độ văn hoá cao, chiếm 51% dân số, lao
động đó qua đào tạo nghề đạt 33% có trỡnh độ đại học, cao đẳng, trung học và công nhân
kỹ thuật, có truyền thống lao động cần cù sáng tạo.
Về thành phần dân tộc, ở Hưng Yên hầu hết là người Kinh, số đông theo đạo Phật,
một số ít theo đạo Thiên Chúa, phân bố rải rác không tập trung.
Hưng Yêntruyền thống văn hiến, đó sản sinh ra nhiều anh hùng hào kiệt, các
nhà văn hoá lớn. Trong gần 10 thế kỷ khoa cử Việt Nam, Hưng Yên đó 228 người
thi đỗ đại khoa cũn lưu danh bia Văn Miếu (thôn Xích Đằng, phường Nam Sơn thị
Hưng Yên), trong đó 8 trạng nguyên,4 bảng nhón, 6 thám hoa, 47 hoàng giáp. Hưng
Yên tỉnh đứng thứ 4 trong cả nước về cử nghiệp. Trong suốt quá trỡnh đấu tranh lâu
Từ thị xó Hưng Yên tàu thuyền có thể ngược sông Hồng lên Hà Nội, Sơn Tây, Việt Trỡ, Yên Bái, Lào Cai, hoặc xuôi Thái Bỡnh, Nam Định rồi ra biển. Trên sông Luộc tàu thuyền có thể đi Ninh Giang, Phả Lại (Hải Dương), Hải Phũng. Các sông nhỏ khác trong tỉnh, đặc biệt có công trỡnh đại thuỷ nông Bắc – Hưng – Hải đều là những đường giao thông thuận tiện cho việc vận chuyển hàng hoá, lúa, ngô, vật liệu xây dựng… Giao thông thuỷ bộ của Hưng Yên vừa là điều kiện thuận lợi, vừa là tiềm nămg lớn để Hưng Yên phát triển kinh tế, văn hoá, xó hội. Hưng yên được bao bọc bởi sông Hồng và sông Luộc, có nguồn nước ngọt dồi dào ở dọc khu vực quốc lộ 5A từ Như Quỳnh (Văn Lâm) đến Quán Gỏi (Hải Dương) có những túi nước ngầm với dung tích hàng triệu m 3 , không chỉ cung cấp nước cho phát triển công nghiệp và đô thị mà cũn có thể cung cấp khối lượng lớn nước cho các khu vực lân cận. Hưng Yên có mỏ than nâu (thuộc bể than vùng đồng bằng sông Hồng) trữ lượng lớn nhất (hơn 30 tỷ tấn) chưa được khai thác, đây là tiềm năng lớn cho ngành công nghiệp than, phục vụ cho sản xuất, tiêu dùng và xuất khẩu. Dân số Hưng Yên 1.075.517 người, trong đó số người trong độ tuổi lao động chiếm hơn 50%. Tỷ lệ lao động có trỡnh độ của Hưng Yên thấp, bởi sau khi tái lập tỉnh đội ngũ cán bộ khoa học có trỡnh độ ở lại tỉnh công tác ít. Hiện nay số lao động chưa có việc làm cũn nhiều đó trở thành sức ép lớn đối với Hưng Yên trong vấn đề giải quyết việc làm. Ngoài nghề chính là trồng trọt, người dân cũn nuôi trồng thuỷ sản trồng dâu, nuôi tằm, làm các nghề thủ công và nghề truyền thống khác. Hiện nay Hưng Yên có trên 57 vạn lao động trong độ tuổi, trẻ khoẻ, có trỡnh độ văn hoá cao, chiếm 51% dân số, lao động đó qua đào tạo nghề đạt 33% có trỡnh độ đại học, cao đẳng, trung học và công nhân kỹ thuật, có truyền thống lao động cần cù sáng tạo. Về thành phần dân tộc, ở Hưng Yên hầu hết là người Kinh, số đông theo đạo Phật, một số ít theo đạo Thiên Chúa, phân bố rải rác không tập trung. Hưng Yên có truyền thống văn hiến, đó sản sinh ra nhiều anh hùng hào kiệt, các nhà văn hoá lớn. Trong gần 10 thế kỷ khoa cử ở Việt Nam, Hưng Yên đó có 228 người thi đỗ đại khoa cũn lưu danh ở bia Văn Miếu (thôn Xích Đằng, phường Nam Sơn thị xó Hưng Yên), trong đó có 8 trạng nguyên,4 bảng nhón, 6 thám hoa, 47 hoàng giáp. Hưng Yên là tỉnh đứng thứ 4 trong cả nước về cử nghiệp. Trong suốt quá trỡnh đấu tranh lâu
dài dựng nước giữ nước, vùng đất Hưng Yên thời nào, lĩnh vực nào cũng những
nhân tài sử sách cũn ghi như: Triệu Quang Phục, Phạm N Lóo, Nguyễn Thiện
Thuật, Hoàng Hoa Thám, Nguyễn Bỡnh, Đoàn Thị Điểm, Nguyễn Trung Ngạn,
Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Đỡnh Nghị, Tô Ngọc Vân, Dương Bích Liên,
Hữu Trác, Phạm Huy Thông, Nguyễn Công Tiễu…đặc biệt trong lịch sử hiện đại
Hưng Yên n nhiều nhà chính trị nổi tiếng như: Nguyễn Văn Linh, Văn
Lương…các chiến sỹ anh hùng cách mạng như Hiệu, Bùi Thị Cúc… đó những
người con ưu tú của Hưng Yên, đó góp phần làm rạng danh quê hương, Tổ quốc.
Hưng Yên tỉnh có mật độ di tích dầy đặc của vùng đồng bằng châu thổ sông
Hồng với 1.210 di tích văn hoá, lịch sử, tín ngưỡng. Trong đó 172 di tích được nhà nước
xếp hạng 32.574 cổ vật trong các di tích. Đặc biệt di tích Phố Hiến- trung tâm
thương mại, đối ngoại sầm uất phồn hoa bậc nhất vào thế kỷ XVI, XVII .
Hưng Yên có nhiều đền chùa nổi tiếng như đền thờ Đức Tống Trân, đền thờ Đức
Ngô Vương, đền Phạm Bạch Hổ, đền Đinh Điền, đền Trần, đền Phạm Ngũ Lóo, đền Chử
Đồng Tử…mỗi đền chùa một kho tàng mỹ thuật sống động, với rất nhiều cổ vật quý
hiếm. Đó những không gian văn hoá truyền thống, hiện hữu nét đẹp văn hoá vật thể,
phi vật thể và đặc biệt hấp dẫn du khách bởi sự hài hoà cảnh trí thiên nhiên, và hỡnh khối
kiến trúc, nghệ thuật chạm khắc tinh vi.
Hưng Yên cũn địa phương nhiều lễ hội đặc sắc, giới thiệu chứng minh
sống động về vùng đất, con người Hưng Yên trong quá khứ hiện tại, với những nét
đặc trưng, những giá trị văn hoá tinh thần, tín ngưỡng của Hưng yên nói riêng của đồng
bằng sông Hồng nói chung.
Với lợi thế về địa gần thủ đô Hà Nội và các trung tâm công nghiệp lớn, có kết
cấu hạ tầng, điều kiện tự nhiên thuận lợi để phát triển nhanh chóng trở thành một tỉnh
tốc độ phát triển cao trong vùng.
Tỉnh Hưng Yên được tái lập năm 1997 đang khẩn trương cùng cả nước xây dựng
phát triển kinh tế. Bằng sự phấn đấu của bản thân chính sách cởi mở thông thoáng,
tranh thủ sự hỗ trợ đầu tư nước ngoài. Tỡnh hỡnh KT-XH Hưng Yên sau những năm đầu
tái lập đó có nhiều khởi sắc. Nền kinh tế Hưng Yên đang đổi thay từng ngày, được đánh
giá là một trong những tỉnh tốc độ phát triển kinh tế tương đối nhanh và cao. cấu
dài dựng nước và giữ nước, vùng đất Hưng Yên thời nào, lĩnh vực nào cũng có những nhân tài mà sử sách cũn ghi như: Triệu Quang Phục, Phạm Ngũ Lóo, Nguyễn Thiện Thuật, Hoàng Hoa Thám, Nguyễn Bỡnh, Đoàn Thị Điểm, Nguyễn Trung Ngạn, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Đỡnh Nghị, Tô Ngọc Vân, Dương Bích Liên, Lê Hữu Trác, Phạm Huy Thông, Nguyễn Công Tiễu…đặc biệt trong lịch sử hiện đại Hưng Yên cũn có nhiều nhà chính trị nổi tiếng như: Nguyễn Văn Linh, Lê Văn Lương…các chiến sỹ anh hùng cách mạng như Tô Hiệu, Bùi Thị Cúc… đó là những người con ưu tú của Hưng Yên, đó góp phần làm rạng danh quê hương, Tổ quốc. Hưng Yên là tỉnh có mật độ di tích dầy đặc của vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng với 1.210 di tích văn hoá, lịch sử, tín ngưỡng. Trong đó 172 di tích được nhà nước xếp hạng và 32.574 cổ vật trong các di tích. Đặc biệt là di tích Phố Hiến- trung tâm thương mại, đối ngoại sầm uất phồn hoa bậc nhất vào thế kỷ XVI, XVII . Hưng Yên có nhiều đền chùa nổi tiếng như đền thờ Đức Tống Trân, đền thờ Đức Ngô Vương, đền Phạm Bạch Hổ, đền Đinh Điền, đền Trần, đền Phạm Ngũ Lóo, đền Chử Đồng Tử…mỗi đền chùa là một kho tàng mỹ thuật sống động, với rất nhiều cổ vật quý hiếm. Đó là những không gian văn hoá truyền thống, hiện hữu nét đẹp văn hoá vật thể, phi vật thể và đặc biệt hấp dẫn du khách bởi sự hài hoà cảnh trí thiên nhiên, và hỡnh khối kiến trúc, nghệ thuật chạm khắc tinh vi. Hưng Yên cũn là địa phương có nhiều lễ hội đặc sắc, giới thiệu và chứng minh sống động về vùng đất, con người Hưng Yên trong quá khứ và hiện tại, với những nét đặc trưng, những giá trị văn hoá tinh thần, tín ngưỡng của Hưng yên nói riêng của đồng bằng sông Hồng nói chung. Với lợi thế về địa lý gần thủ đô Hà Nội và các trung tâm công nghiệp lớn, có kết cấu hạ tầng, điều kiện tự nhiên thuận lợi để phát triển nhanh chóng trở thành một tỉnh có tốc độ phát triển cao trong vùng. Tỉnh Hưng Yên được tái lập năm 1997 đang khẩn trương cùng cả nước xây dựng phát triển kinh tế. Bằng sự phấn đấu của bản thân và chính sách cởi mở thông thoáng, tranh thủ sự hỗ trợ đầu tư nước ngoài. Tỡnh hỡnh KT-XH Hưng Yên sau những năm đầu tái lập đó có nhiều khởi sắc. Nền kinh tế Hưng Yên đang đổi thay từng ngày, được đánh giá là một trong những tỉnh có tốc độ phát triển kinh tế tương đối nhanh và cao. Cơ cấu
kinh tế đang dần chuỷên dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nông nghiệp
nông thôn có nhiều chuyển biến tích cực, tỷ trọng giữa chăn nuôi và trồng trọt được cân
đối. Người nông dân bước đầu quan tâm đến sản xuất hàng hoá, đảm bảo an ninh lương
thực. Công nghiệp dịch vụ có bước phát triển khá. Công nghiệp địa phương tuy phải đối
mặt với nhiều khó khăn, nhưng vẫn đạt được những thành tích đáng khích lệ. Một số
ngành hàng tiếp tục được củng cố phat triển, lựa chọn mặt hàng ưu tiên lợi thế để
đầu chiều sâu, đổi mới công nghệ tạo ra những sản phẩm chất lượng cao. Khối công
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng nhanh, do số dự án đi vào hoạt động tăng lên, sản
phẩm thị trường chấp nhận và có xu thế phát triển tốt. Từ điểm xuất phát thấp với nhiều
khó khăn ththách gay gắt của tỉnh mới tái lập. Hưng Yên đó nỗ lực vươn lên, hoàn
thành tương đối toàn diện những nhiệm vụ mục tiêu chủ yếu của năm 1997. Năm 1997,
năm đầu tái lập tỉnh một số chỉ tiêu chủ yếu về phát triển kinh tế xó hội của tỉnh đều đạt
và vượt so với kế hoạch đề ra. Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) tăng 13,58% so với năm
1996 (Kế hoạch đề ra trên 10%). Giá trị sản xuất công nghiệp trên địa bàn tăng 70,42%.
(Kế hoạch trên 18%), giá trị sản xuất nông nghiệp tăng 5,04% (Kế hoạch 6%), giá trị
kinh doanh dịch vụ tăng 18% (Kế hoạch 15%), sản lượng lương thực quy ra thóc đạt
49,8 vạn tấn bằng 100,4% so với năm 1996. Thu ngân sách đạt 85.559 triệu đồng; bỡnh
quõn GDP đầu người ước đạt 204 USD/người/năm. cấu kinh tế: Nông nghiệp 52%;
công nghiệp, xây dựng 20%; dịch vụ 28%. Tỷ lệ sinh giảm 0,08%. Sản xuất nông nghiệp
năm 1997 phát triển tương đối toàn diện, giá trị tăng 5,04% so với năm 1996. Tổng diện
tích gieo trồng đạt 120.000 ha, trong đó lúa cả năm 90.000 ha, cây công nghiệp 11.000
ha, rau màu 12.000 ha. Mặc thời tiết diễn biến không thuận lợi, nhưng do chủ động
chỉ đạo cỏc biện phỏp phũng, chống bóo lụt và chống ỳng nội đồng tớch cực, hạn chế
xử lý sõu bệnh kịp thời, ứng dụng những tiến bộ khoa học, kỹ thuật xây dựng cơ cấu lỳa
hợp lý nờn năng xuất lúa cả năm đạt 102 tạ / ha, một trong những năm được mùa cao
nhất từ trước đến nay. Tổng sản lượng quy ra thúc 49,8 vạn tấn, bỡnh quõn lương thực
đầu người 455,6 kg (Tính theo khẩu nông nghiệp). Tiếp tục thực hiện chuyển đổi kinh tế
nông nghiệp, nông thôn tập trung cho những cây con có giá trị kinh tế cao. Chăn nuôi tiếp
tục phát triển về số và chất lượng. So với năm 1996 đàn lợn tăng 5,1%, đàn bũ tăng 4,5%,
gia cầm tăng 10%. Kinh tế hộ nông dân tăng trưởng khá, số hộ giàu khoảng 17%, số hộ
kinh tế đang dần chuỷên dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nông nghiệp nông thôn có nhiều chuyển biến tích cực, tỷ trọng giữa chăn nuôi và trồng trọt được cân đối. Người nông dân bước đầu quan tâm đến sản xuất hàng hoá, đảm bảo an ninh lương thực. Công nghiệp dịch vụ có bước phát triển khá. Công nghiệp địa phương tuy phải đối mặt với nhiều khó khăn, nhưng vẫn đạt được những thành tích đáng khích lệ. Một số ngành hàng tiếp tục được củng cố phat triển, lựa chọn mặt hàng ưu tiên và có lợi thế để đầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ tạo ra những sản phẩm chất lượng cao. Khối công nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng nhanh, do số dự án đi vào hoạt động tăng lên, sản phẩm thị trường chấp nhận và có xu thế phát triển tốt. Từ điểm xuất phát thấp với nhiều khó khăn thử thách gay gắt của tỉnh mới tái lập. Hưng Yên đó nỗ lực vươn lên, hoàn thành tương đối toàn diện những nhiệm vụ mục tiêu chủ yếu của năm 1997. Năm 1997, năm đầu tái lập tỉnh một số chỉ tiêu chủ yếu về phát triển kinh tế xó hội của tỉnh đều đạt và vượt so với kế hoạch đề ra. Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) tăng 13,58% so với năm 1996 (Kế hoạch đề ra trên 10%). Giá trị sản xuất công nghiệp trên địa bàn tăng 70,42%. (Kế hoạch trên 18%), giá trị sản xuất nông nghiệp tăng 5,04% (Kế hoạch là 6%), giá trị kinh doanh dịch vụ tăng 18% (Kế hoạch là 15%), sản lượng lương thực quy ra thóc đạt 49,8 vạn tấn bằng 100,4% so với năm 1996. Thu ngân sách đạt 85.559 triệu đồng; bỡnh quõn GDP đầu người ước đạt 204 USD/người/năm. Cơ cấu kinh tế: Nông nghiệp 52%; công nghiệp, xây dựng 20%; dịch vụ 28%. Tỷ lệ sinh giảm 0,08%. Sản xuất nông nghiệp năm 1997 phát triển tương đối toàn diện, giá trị tăng 5,04% so với năm 1996. Tổng diện tích gieo trồng đạt 120.000 ha, trong đó lúa cả năm 90.000 ha, cây công nghiệp 11.000 ha, rau màu 12.000 ha. Mặc dù thời tiết diễn biến không thuận lợi, nhưng do chủ động chỉ đạo cỏc biện phỏp phũng, chống bóo lụt và chống ỳng nội đồng tớch cực, hạn chế và xử lý sõu bệnh kịp thời, ứng dụng những tiến bộ khoa học, kỹ thuật xây dựng cơ cấu lỳa hợp lý nờn năng xuất lúa cả năm đạt 102 tạ / ha, là một trong những năm được mùa cao nhất từ trước đến nay. Tổng sản lượng quy ra thúc 49,8 vạn tấn, bỡnh quõn lương thực đầu người 455,6 kg (Tính theo khẩu nông nghiệp). Tiếp tục thực hiện chuyển đổi kinh tế nông nghiệp, nông thôn tập trung cho những cây con có giá trị kinh tế cao. Chăn nuôi tiếp tục phát triển về số và chất lượng. So với năm 1996 đàn lợn tăng 5,1%, đàn bũ tăng 4,5%, gia cầm tăng 10%. Kinh tế hộ nông dân tăng trưởng khá, số hộ giàu khoảng 17%, số hộ