Luận văn nghiên cứu chế biến rượu vang dừa
2,372
363
62
Luận văn Tốt nghiệp khoá 28 - 2007 Trường Đại Học Cần Thơ
Chuyên ngành Công nghệ thực phẩm – Khoa Nông nghiệp và Sinh học ứng dụng 11
4.4 Các vi khuẩn có hại cho nấm men
Dịch lên men không chỉ là một môi trường dinh dưỡng tốt cho nấm men mà còn
cho các vi sinh vật khác. Trong nước, trong không khí cũng như các nguồn nguyên
liệu tham gia vào thành phân môi trường luôn chứa một lượng vi sinh vật có hại
cho
lên men rượu. Các vi sinh vật nếu lẫn vào dung dịch đường sẽ biến đường thành
các
sản phẩm khác và do đó làm giảm hiệu suất lên men rượu.
4.4.1 Vi khuẩn lactic
Đây là loại vi khuẩn yếm khí, chúng gồm có hai loại: lactic điển hình và lactic
không điển hình. Lactic điển hình sẽ biến đường thành sản phẩm duy nhất là acid
lactic:
C
6
H
12
O
6
→ 2 CH
3
CHOHCOOH + 18Kcal
Vi khuẩn lactic không điển hình sẽ sử dụng đường và tạo ra acid lactic, ngoài ra
còn tạo ra một lượng đáng kể các chất khác như: alcol, acid acetic, cacbonic,
diacetyl
và aceton. Các sản phẩm được tạo ra phụ thuộc rất nhiều vào nhiệt độ, pH, mức độ
yếm khí… Vì vậy, các sản phẩm tạo thành không ổn định.
Lactic điển hình có nhiệt độ tối ưu trong khoảng 49 – 51
0
C, còn lactic không điển
hình có nhiệt độ tối ưu trong khoảng 37 – 38
0
C.
4.4.2 Vi khuẩn acetic
Vi khuẩn acetic là loại vi khuẩn hiếu khí cũng không tạo thành bào tử, có nhiệt
độ
tối ưu trong khoảng 20 – 35
0
C, tối đa 42
0
C chúng phát triển tốt trong môi trường có
alcol thấp, oxy hoá alcol thành acetic:
C
2
H
5
OH + O
2
→ CH
3
COOH + H
2
O + 116Kcal
Trong môi trường không có alcol, vi khuẩn acetic sẽ oxy hoá đường thành acid
gluconic.
Các vi khuẩn acetic không chỉ oxy hoá alcol acetic mà còn oxy hoá các alcol
khác. Ví dụ như dưới tác dụng của oxy hoá của vi khuẩn acetic, alcol butylic sẽ
biến
thành acid butyric:
CH
3
CH
2
CH
2
OH → CH
3
CH
2
CH
2
COOH
Và alcol propylic sẽ biến thành acid propylic:
CH
3
CH
2
CH
2
OH → CH
3
CH
2
COOH
Vi khuẩn lactic thường phát triển trên bề mặt dịch lên men để lậu ngày, trong
điều
kiện lên men rượu chúng ít có khả năng phát triển vì vi khuẩn này rất hiếu khí.
4.4.3 Vi khuẩn butylic và các vi sinh vật khác
Nếu lấy dịch quả chưa lên men đem cấy trên hộp đĩa petri trong môi trường thích
hợp sẽ phát triển nhiều vi khuẩn có khả năng tạo bào tử. Chúng gồm vi khuẩn
butylic,
acetic butylic, subtilis…nhưng điều kiện lên men rượu, tất cả các vi khuẩn này
không
phát triển vì pH tối thích của chúng đều nằm trong môi trường trung tính hoặc
kiềm
yếu. Vì vậy, nhiễm khuẩn chủ yếu trong lên men rượu chủ yếu là vi khuẩn lactic.
(Nguyễn Đình Thưởng, 2000)
Luận văn Tốt nghiệp khoá 28 - 2007 Trường Đại Học Cần Thơ
Chuyên ngành Công nghệ thực phẩm – Khoa Nông nghiệp và Sinh học ứng dụng 12
5. Cơ chế của quá trình lên men
Để lên men người ta cho vào môi trường một lượng tế bào nấm men nhất định.
Tùy theo phương pháp lên men mà lượng nấm men cho vào khác nhau. Thông thường
khi lên men, lượng tế bào nấm men phải đạt được > 100 triệu tế bào trong 1ml
dịch lên
men. Do diện tích bề mặt của tế bào nấm men rất lớn nên khả năng hấp thụ các
chất
dinh dưỡng rất mạnh. Đường lên men và các chất dinh dưỡng khác trong môi trường
lên men trước tiên được hấp thụ trên bề mặt của nấm men sau đó khuếch tán qua
màng
vào bên trong tế bào nấm men, rượu và CO
2
sẽ được tạo thành.
Rượu etylic tạo thành khuếch tán ra môi trường bên ngoài qua màng tế bào nấm
men. Rượu hòa tan vô hạn trong nước nên khuếch tán rất nhanh vào môi trường, CO
2
cũng hòa tan vào trong môi trường nhưng sự hòa tan không lớn. Ở áp suất 800
mmHg,
nhiệt độ 25 – 30
0
C là 0,856 – 0,837 lít CO
2
trong một lít nước. Vì thế CO
2
sinh ra
trong quá trình lên men sẽ khuếch tán vào môi trường và nhanh chóng đạt được
trạng
thái bão hòa. Khi bão hòa, CO
2
bám xung quanh tế bào nấm men hình thành những bọt
khí. Tế bào nấm men thường dính liền với nhau, bọt khí sinh ra ngày càng nhiều
và
lớn dần lên hình thành túi lớn, đến lúc nào đó có sự chênh lệch giữa khối lượng
riêng
của môi trường và tế bào nấm men sẽ nổi lên trên bề mặt. Khi đến bề mặt, do có
sự
thay đổi đột ngột sức căng bề mặt nên chúng bị vỡ ra làm cho khí CO
2
bị phóng thích
ra bên ngòai. Lúc này khối lượng riêng của nấm men đủ lớn trở lại nên chúng bị
chìm
xuống. Quá trình này diễn ra liên tục nên tế bào nấm men vốn từ trạng thái tĩnh
chuyển
sang trạng thái động, làm gia tăng khả năng tiếp xúc tế bào nấm men và môi
trường
điều này làm cho quá trình trao đổi chất diễn ra nhanh hơn, mạnh mẻ hơn. Khi đó
làm
tăng nhanh quá trình lên men.
Khí CO
2
ức chế quá trình lên men, nhưng trong quá trình thoát khí CO
2
làm tăng
khả năng lên men của nấm men. Kích thước, vật liệu chế tạo của thiết bị lên men,
các
chất hòa tan mang điện tích, các vật lơ lững khác hiện diện trong dịch lên men
khi lên
men đều ảnh hưởng đến sự thoát khí CO
2
nên cũng ảnh hưởng quá trình lên men (Bùi
Thị Quỳnh Hoa).
6. Động học của quá trình lên men
Tốc độ của quá trình lên men có thể quan sát được bằng cách theo dõi thay đổi
của hàm lượng đường trong dịch lên men, quan sát bằng cách theo dõi sự thay đổi
rượu và CO
2
tạo thành cũng như sau thay đổi trị số của nồng độ dịch lên men.
Quá trình lên men chia làm 3 thời kỳ chính:
- Thời kỳ đầu: khoảng 60 giờ kể từ khi cho nấm men tiếp xúc với dịch lên men.
Sự lên men diễn ra rất chậm, đường lên men không đáng kể.
- Thời kỳ 2: đây là thời kỳ lên men chính. Chiếm khoảng 60 - 120 giờ sau thời kỳ
đầu. Sự phát triển của nấm men và sự lên men sau mỗi giờ tăng lên đáng kể và đạt
đến
trị số cực đại.
- Thời kỳ cuối: đây là giai đoạn lên men phụ xảy ra rất chậm đồng thời là thời
kỳ
ổn định tạo mùi cho sản phẩm. Tùy theo phương pháp lên men, loại sản phẩm mà
thời
gian lên men phụ kéo dài khác nhau không quan sát được.
Luận văn Tốt nghiệp khoá 28 - 2007 Trường Đại Học Cần Thơ
Chuyên ngành Công nghệ thực phẩm – Khoa Nông nghiệp và Sinh học ứng dụng 13
Thời kỳ lên men chính là thời kỳ biến đổi sâu sắc các thành phần trong dịch lên
men. Chúng ảnh hưởng đến kết quả của quá trình lên men. Trong giai đoạn này,
trong
điều kiện lên men bình thường sau mỗi giờ nồng độ đường trong dịch lên men sẽ
giảm
đi khoảng 1 độ (
0
Brix, balling, %) tùy theo loại sản phẩm, dây chuyền sản xuất.
Sự tồn tại của thời kỳ lên men cuối là đặc trưng đối với quá trình lên men dịch
đường hóa từ nguyên liệu chứa tinh bột.
Trong dịch lên men nếu biểu thị hàm lượng đường tồn tại trong dịch lên men là
100% thì 4 – 6% là dạng chất không tan, 75 – 77% được chuyển thành maltose và
19%
là dextrin.
Trong giai đoạn lên men sự đường hóa cũng xảy ra nhưng rất chậm và không
hoàn toàn, đặc biệt khó khăn đối với tinh bột không tan. Do đó, tốc độ lên men
trong
thời kỳ này không phụ thuộc vào số lượng tế bào nấm men mà chủ yếu phụ thuộc vào
thủy phần hàm lượng dextrin không lên men còn lại. Tuy vậy, chính những loại
đường
không lên men này sẽ tạo thành vị ngọt cho sản phẩm. Như vậy, chu kỳ lên men
dịch
đường hóa tinh bột phụ thuộc vào thời gian lên men cuối hay phụ thuộc vào khả
năng
đường hóa của phức hệ enzyme amylase. Rất nhiều thí nghiệm cho thấy càng kéo dài
thời gian lên men cuối thì càng gia tăng hiệu suất của quá trình lên men .
Tuy vậy tùy theo sản phẩm của sự lên men, nồng độ glucid của dịch đường hóa,
phương pháp lên men, nhà sản xuất cũng sẽ tạo ra một qui trình sản xuất riêng
biệt với
chất lượng và thành phần mong muốn của họ (Bùi Thị Quỳnh Hoa).
7. Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình lên men
* Ảnh hưởng của oxi
Hầu hết các chủng nấm men trong lên men rượu vang thuộc giống
Saccharomyces. Chúng là nhóm vi sinh vật kỵ khí tuỳ tiện. Khi trong môi trường
đủ
oxy nấm men phân huỷ đường dùng làm nguồn năng lượng lượng và cấu tạo tế bào
tăng sinh khối.
Trường hợp thiếu oxy (kỵ khí) nấm men sử dụng phần oxi hoà tan trong môi
trường để sinh trưởng và chủ yếu là lên men.
Trong quá trình lên men giai đoạn đầu yêu cầu oxi cao nhất để nấm men sinh sản,
phát triển tăng sinh khối. Nếu có giai đoạn nhân giống thì cũng cần phải cung
cấp oxi
bằng cách lắc hoặc sục kh.í
* Ảnh hưởng nhiệt độ
Nhiệt độ lên men có ảnh hưởng đến đời sống của nấm, men, đến quá trình lên
men và chất lượng sản phẩm.
Nhiều công trình nghiên cứu về sản xuất rượu vang đã xác định được khoảng
nhiệt độ lên men rượu vang trắng thích hợp là 15 – 30
0
C, nếu lên men ở những thang
độ thấp hơn thì càng tốt. Còn lên men đỏ (nước quả lẫn xác quả) phải chiết xuất
các
chất thơm và polyphenol từ vỏ quả nên cần thang độ cao hơn, thường là 25
0
C.
Nhiệt độ lên men cao, thời gian của quá trình lên men ngắn, độ cồn có thể thấp,
đường sót còn nhiều và hương vị của sản phẩm có khi không tốt.
Luận văn Tốt nghiệp khoá 28 - 2007 Trường Đại Học Cần Thơ
Chuyên ngành Công nghệ thực phẩm – Khoa Nông nghiệp và Sinh học ứng dụng 14
* Ảnh hưởng của hàm lượng đường
Trong nước quả thường có hàm lượng đường không đều do vậy người ta thường
bổ sung thêm đường saccharose. Đa số các loại nấm men hoạt động bình thường
trong
môi trường có hàm lượng đường dưới 20%. Có một số chủng hoạt động ở môi trường
có đường cao hơn. Khi nhân giống thường dùng môi trường có đường thấp dưới 10%.
* Ảnh hưởng của pH môi trường
Trong thực tế lên men những dịch quả chua thường được rượu vang ngon. Đối với
dịch quả thường có độ pH từ 2,8 – 3,8. Khoảng pH này nấm men vẫn hoạt động được.
Vùng pH tối thích của nấm men là 4 – 6.
Trong sản xuất rượu vang người ta thường chuẩn bị môi trường nước quả có độ
pH bằng 3 – 3,5 (Lương Đức Phẩm, 1998).
* Ảnh hưởng của ánh sáng
Ánh sáng là yếu tố kìm hãm hoạt động của nấm men vang. Đặc biệt các tia cực
tím trong ánh sáng sẽ giết chết tế bào nấm men, vì vậy quá trình lên men phụ
thuộc
thời tiết của từng vụ (Bùi Ái, 2003).
* Ảnh hưởng của nồng độ rượu
Quá trình nuôi cấy nấm men chủ yếu là tạo điều kiện cho nấm men phát triển sinh
khối, đạt số lượng theo yêu cầu. Song, nấm men cũng thực hiện một quá trình lên
men
rượu đáng kể (còn phụ thuộc vào chế độ thông không khí).
Thường trong dịch nấm men có khoảng 4 – 6% rượu. Nồng độ rượu sinh ra có ảnh
hưởng đến tốc độ và khả năng phát triển của nấm men. Nồng độ rượu ảnh hưởng đến
tốc độ phát triển riêng của nấm men còn phụ thuộc vào thời gian, số lượng tế bào
và
nguyên liệu chuẩn bị môi trường nuôi cấy. Cùng một môi trường nuôi cấy, số lượng
tế
bào nấm men cho vào bằng nhau, điều kiện cấy giống nhau thì nồng độ rượu ban đầu
1% chưa có ảnh hưởng đến tốc độ và khă năng phát triển của nấm men, từ 4 – 6% đã
có ảnh hưởng xấu (Bùi Thị Quỳnh Hoa).
* Ảnh hưởng của nguồn nitơ
Đa số trong nước quả có các hợp chất nitơ đủ cung cấp cho nấm men. Song, cũng
có trường hợp vì hạn hán hoặc tuỳ từng loại quả không đủ nguồn nitơ cho nấm men
sinh trưởng. Do đó, cần phải bổ sung thêm nguồn nitơ. Trong trường hợp này người
ta
thường dùng amon sulfat (NH
4
)
2
SO
4
. Cũng có thể dùng dịch men tự phân cho thêm
vào môi trường. Nếu dịch quả quá chua dùng tactrat amon – kali hay amon hydroxyt
trung hoà bớt acid.
Ngoài nguồn nitơ cũng cần chú ý đến nhu cầu sinh trưởng của nấm men. Nếu thấy
men phát triển kém có thể thêm vào 1 lít nước quả 0,2 ml hỗn hợp có thành phần
như
sau: amon sulfat: 100g/l; vitamin B
1
: 0,25g/l; canxi pantotenat: 0,25g/l; vitamin H:
0,002g/l. Cũng có thể dùng cao nấm men thay cho hỗn hợp này (Lương Đức Phẩm,
1998).
* Ảnh hưởng mật số tế bào nấm men
Số lượng tế bào nấm men cho vào dịch lên men có ảnh hưởng lớn đến quá trình
lên men. Nếu số lượng tế bào nấm men cho vào thích hợp thì quá trình lên men tốt
và
Luận văn Tốt nghiệp khoá 28 - 2007 Trường Đại Học Cần Thơ
Chuyên ngành Công nghệ thực phẩm – Khoa Nông nghiệp và Sinh học ứng dụng 15
hiệu suất thu hồi cao, chất lượng sản phẩm cũng tốt hơn. Nếu lượng tế bào nấm
men
cho vào quá ít thì tốc độ lên men chậm, sinh khối tế bào nấm men thấp tạo điều
kiện
cho vi sinh vật phát triển. Nếu số lượng nấm men quá nhiều thì môi trường dịch
lên
men không đủ cho nấm men phát triển, tế bào nấm men sẽ chết dần, sản phần sinh
ra
mùi lạ đồng thời phí đi một lượng nấm men.
* Ảnh hưởng chất sát trùng
Các chất sát trùng dùng trong sản xuất như: formol, Na
2
SiF
6
, NaF, CaOCl
2
…, các
muối kim loại nặng, các tia cực tím đều có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của
nấm
men. Tuy nhiên, mỗi một yếu tố có ảnh hưởng khác nhau trong từng điều kiện nuôi
cấy và từng chủng nấm men. Chất thanh trùng rộng rãi là SO
2
(anhydrit sulphurơ), SO
2
là hoá chất được phép dùng trong sản xuất rượu vang hầu hết trên thế giới và nó
có tác
dụng nhiều mặt: chống oxi hoá, làm giảm hoặc tiêu diệt nhiều loại vi khuẩn có
hại
trong đó có vi khuẩn lactic. Lượng SO
2
thường dùng là 30 – 120 mg/l, SO
2
có tác dụng
làm tê liệt các enzym oxi hoá khử. Nếu dùng quá liều rượu sẽ có mùi khó chịu và
diệt
một số vi khuẩn có ích. Nguồn SO
2
dùng phổ biến trong ủ rượu vang là hợp chất
Na
2
SO
3
(Lương Đức Phẩm, 1998).
* Ảnh hưởng của CO
2
Hàm lượng CO
2
hình thành trong quá trình lên men thường hạn chế mạnh sự sinh
sản của nấm men vang. Theo nghiên cứu của Miuler – Thurrau, khi:
- Hàm lượng CO
2
trong rượu vang đạt đến 0,25% trọng lượng thì việc sinh sản
của nấm men đình trệ
- Hàm lượng CO
2
trong rượu vang đạt 1,5% trong lượng CO
2
thì nấm men không
còn sinh sản nữa
Với hàm lượng CO
2
như trên, ở nhiệt độ 15
0
C sẽ có áp suất là 7,7 atm, nấm men
vẫn sống và tiếp tục lên men kỵ khí (Bùi Ái, 2003).
8. Tiêu chuẩn của nước trong sản xuất rượu
Độ cứng của nước không quá 7mg đương lượng/lít, phải trong suốt, không màu,
không mùi. Hàm lượng muối không được vượt quá giới hạn sau:
Bảng 6. Giới hạn hàm lượng các ion trong nước
Ion Hàm lượng (mg/l) Ion Hàm lượng (mg/l)
Cl
¯
0,5 F 3
SO
4
2-
80 Zn 3
As 0,05 Cu 5
Pb 0,1 Fe 0,3
NO
3
¯
40
(Bùi Thị Quỳnh Hoa)
Luận văn Tốt nghiệp khoá 28 - 2007 Trường Đại Học Cần Thơ
Chuyên ngành Công nghệ thực phẩm – Khoa Nông nghiệp và Sinh học ứng dụng 16
Không có hoặc chỉ có rất ít các muối kim loại nặng như: Hg
2+
, Ba
2+
…
Khả năng oxi hoá không quá 2 ml dung dịch KMnO
4
(0,01N). Chất cặn không
vượt quá 1000 mg/l. Nước mặt sông hồ thường có lượng muối khoáng thấp, dao động
từ 40 – 50 mg/l. Nước ngầm có lượng muối khoáng nhiều hơn, khoảng 50 – 3000
mg/l. Hàm lượng các chất hữu cơ không vượt quá 4 mg/l. Vi sinh vật hầu như không
có.
Muối CaCO
3
, MgCO
3
, Fe
2+
, Fe
3+
với lượng 400 mg/l, muối nitrat 400 mg/l và
muối nitơ 200 mg/l sẽ ảnh hưởng không tốt đến quá trình lên men.
NH
3
với hàm lượng 20 mg/l lại có tác dụng làm tăng hiệu suất lên men. Hàm
lượng lớn hơn thì lại không cho phép.
Các muối nitrat, nitrit, phosphat và silicat với lượng nhỏ hơn 200 mg/l không
ảnh
hưởng đến quá trình đường hoá. Muối bicacbonat với lượng không quá 200 – 400
mg/l
không ảnh hưởng đến sự đường hoá, nhưng lượng lớn hơn ảnh hưởng rõ rệt đến
enzyme amylase.
E. Coli < 20 tế bào/lít (Bùi Thị Quỳnh Hoa).
Luận văn Tốt nghiệp khoá 28 - 2007 Trường Đại Học Cần Thơ
Chuyên ngành Công nghệ thực phẩm – Khoa Nông nghiệp và Sinh học ứng dụng 17
CHƯƠNG III PHƯƠNG TIỆN VÀ PHƯƠNG PHÁP THÍ NGHIỆM
1. Phương tiện thí nghiệm
1.1 Địa điểm tiến hành thí nghiệm
Thí nghiệm được tiến hành tại phòng thí nghiệm của bộ môn Công Nghệ Thực
Phẩm, khoa Nông Nghiệp & SHƯD, trường Đại Học Cần Thơ.
1.2 Thời gian thực hiện đề tài
Đề tài thực hiện trong thời gian 12 tuần, bắt đầu từ 26/02/2007 đến 18/05/2007.
1.3 Thiết bị và dụng cụ
Các thiết bị, dụng cụ thực hiện thí nghiệm gồm:
- Chiết quang kế (hiệu ATAGO, 0 – 32
0
Brix, Japan)
- Saccharometer
- Máy đo pH
- Thuỷ trọng kế (Hydrometer)
- Cân điện tử với độ chính xác ± 0,01g
- Bình lắng gạn
- Tủ sấy
- Các bình lên men
- Tủ mát
- Máy so màu spectrophotometer
Hình 2. Máy đo pH Hình 3. Saccharometer Hình 4. Máy Spectrophotometer
Hình 5. Thủy trọng kế Hình 6. Cân điện tử
Luận văn Tốt nghiệp khoá 28 - 2007 Trường Đại Học Cần Thơ
Chuyên ngành Công nghệ thực phẩm – Khoa Nông nghiệp và Sinh học ứng dụng 18
1.4 Nguyên vật liệu, hoá chất
Nguyên liệu: nước dừa, đường
Hoá chất phân tích acid: NaOH 0,1N, Phenolphtalein
Hoá chất phân tích béo: cồn – amoniac, ete thường, ete dầu hoả
Hoá chất thanh trùng: NaHSO
3
Hoá chất điều chỉnh pH: acid citric
2. Phương pháp thí nghiệm
2.1 Phương pháp thí nghiệm
Thí nghiệm được bố trí với 2 lần lặp lại. Kết quả phân tích thống kê bằng chương
trình Statgraphics
2.2 Phương pháp phân tích
- Phân tích acid toàn phần bằng phương pháp thể tích định phân
- Xác định hàm lượng chất khô hoà tan trong dịch lên men bằng chiết quang kế
- Xác định pH bằng máy đo pH
- Phân tích hàm lượng đường còn lại bằng saccharometer
- Phân tích hàm lượng rượu trong sản phẩm bằng phương pháp tỉ trọng
- Đo độ truyền quang T % bằng máy Spectrophotometer
- Đánh giá cảm quan bằng phương pháp cho điểm (theo thang điểm Hedonic)
Luận văn Tốt nghiệp khoá 28 - 2007 Trường Đại Học Cần Thơ
Chuyên ngành Công nghệ thực phẩm – Khoa Nông nghiệp và Sinh học ứng dụng 19
2.3 Quy trình thí nghiệm
Nước dừa
Phối chế
Thanh
trùng
Lên men
Làm trong
Thành
phẩm
Ổn định
Luận văn Tốt nghiệp khoá 28 - 2007 Trường Đại Học Cần Thơ
Chuyên ngành Công nghệ thực phẩm – Khoa Nông nghiệp và Sinh học ứng dụng 20
2.4 Nội dung và bố trí thí nghiệm
2.4.1 Khảo sát ảnh hưởng hàm lượng chất khô hòa tan trong dịch lên men, tỉ lệ
nấm
men đến quá trình lên men và chất lượng sản phẩm
Mục đích
Xác định ảnh hưởng của hàm lượng chất khô hòa tan trong dịch lên men, tỉ lệ nấm
men đến quá trình lên men.
Chuẩn bị mẫu
Nước dừa được phối chế, dùng chiết quang kế đo và tính các mẫu ở các nồng độ
đường khác nhau, thanh trùng nước dừa bằng NaHSO
3
140 mg/l khoảng 30 phút. Cho
nấm men vào với các tỉ lệ nấm men khác nhau. Cho nước dừa vào bình lên men và
tiến
hành lên men. Quá trình lên men được theo dõi từng ngày (lấy mẫu phân tích hàm
lượng đường còn lại và hàm lượng rượu trong sản phẩm theo từng ngày) đến khi quá
trình lên men kết thúc.
Bố trí thí nghiệm
Thí nghiệm được bố trí với 2 nhân tố, lặp lại 2 lần
Nhân tố A: hàm lượng chất khô hòa tan trong dịch lên men (%), có 3 mức độ
A
1
: 20 A
2
: 22 A
3
: 24
Nhân tố B: lượng nấm men bổ sung (g/lít dịch lên men), có 3 mức độ
B
1
: 0,2 B
2
: 0,4 B
3
: 0,6
Bảng 7. Sơ đồ bố trí thí nghiệm
Nhân tố Nhân tố B
A B
1
B
2
B
3
A
1
A
1
B
1
A
1
B
2
A
1
B
3
A
2
A
2
B
1
A
2
B
2
A
2
B
3
A
3
A
3
B
1
A
3
B
2
A
3
B
3
Số nghiệm thức = 3*3 = 9
Kết quả ghi nhận
- Hàm lượng đường còn lại
- Hàm lượng rượu trong sản phẩm
- Kết quả đánh giá cảm quan sản phẩm
Từ thí nghiệm, ta chọn ra được hàm lượng chất khô hòa tan trong dịch lên men, tỉ
lệ nấm men bổ sung thích hợp cho quá trình lên men tạo sản phẩm có mùi vị tốt.
Làm
cơ sở để tiến hành các thí nghiệm tiếp theo.