Luận văn: Một số giải pháp thu hút vốn đầu tư nước ngoài qua thị trường chứng khoán Việt Nam
5,104
771
79
27
Nhà nước chỉ đứng vị trí là người quản lý, giám sát và bảo trợ cho TTCK phát
triển.
- Hệ thống pháp lý về CK và TTCK
Giống như Trung Quốc hiện chúng ta chưa có luật về CK và TTCK. Văn bản pháp
lý có giá trị cao nhất điều tiết hoạt động này hiện nay là Nghị định số 48/1998
NĐ-CP
ngày 11/7/1998 của Chính phủ về CK và TTCK. Phạm vi điều chỉnh của Nghị định này
giới hạn trong quy định việc phát hành chứng khoán ra công chúng, giao dịch CK
và các
dịch vụ liên quan đến CK và TTCK trên lãnh thổ nước CHXHCN Việt Nam. Trong tương
lai, chúng ta cần thiết phải xây dựng luật về CK và TTCK.
Dưới nghị định này còn có một loạt các văn bản hướng dẫn thi hành như và các văn
bản khác quy định cụ thể về những vấn đề liên quan đến hoạt động giao dịch chứng
khoán
như các qui định về các hành vi bị cấm trong kinh doanh, quy định sử phạt vi
phạm trên
TTCK,...
Ngoài ra còn có các văn bản pháp luật khác liên quan đến sự phát triển TTCK như
Luật doanh nghiệp (trước đây là luật Công ty), hệ thống các văn bản điều tiết
hoạt động
CPH DNNN,...
- Hệ thống giao dịch
Thị trường chứng khoán Việt Nam chỉ mới đi vào hoạt động được hơn 3 năm, còn
đang trong giai đoạn xây dựng nên tổ chức vẫn chưa hoàn thiện đầy đủ, chúng ta
vẫn phải
tiếp tục xây dựng dần dần. Theo Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước, tổ chức của TTCK
Việt
Nam và các định chế tài chính liên quan sẽ được xây dựng theo mô hình thể hiện ở
sơ đồ
sau.
Mô hình tổ chức TTTCK tập trung Việt Nam và các định chế tài chính liên quan
ỦY BAN
CHỨNG KHOÁN
NHÀ NƯỚC
SỞ
GIAO DỊCH
CHỨNG KHOÁN
CÔNG TY
CHỨNG KHOÁN
Trung tâm
Phân tích
Chứng khoán
Trung tâm
Lưu ký CK
&
Thanh toán
Bù trừ
Công ty
Kiểm Toán
Ngân hàng &
Công ty
Tài Chính
28
+ Sở giao dịch chứng khoán
Trong giai đoạn đầu phát triển TTCK, Việt Nam chưa tổ chức ngay SGDCK mà sẽ
phát triển SGDCK từ các Trung tâm giao dịch Chứng khoán.
Hiện nay chúng ta đã xây dựng được hai Trung tâm giao dịch chứng khoán, một là
TTGDCK Tp. Hồ Chí Minh (khai trương vào tháng 7/2000) nơi giao dịch cổ phiếu của
các
doanh nghiệp lớn được niêm yết chính thức, trái phiếu Nhà nước, trái phiếu các
ngân hàng,
hai là TTGDCK Hà Nội (vừa được thành lập giữa năm nay) là nơi giao dịch cho cổ
phiếu
của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Đến khi TTCK đạt đến một mức độ phát triển nhất
định
chúng ta sẽ xây dựng một SGDCK với hai sàn giao dịch trong cả nước.
Trung tâm giao dịch chứng khoán của chúng ta hiện nay khác với một Sở giao dịch
chứng khoán hoàn chỉnh, nó vừa là TTCK sơ cấp (thị trường phát hành) vừa là TTCK
thứ
cấp (thị trường mua đi bán lại), các công cụ giao dịch t
ại TTGDCK của ta rất đơn giản,
đơn thuần chỉ là cổ phiếu, trái phiếu thông thường. UBCKNN chưa cho phép giao
dịch hợp
đồng quyền lựa chọn, hợp đồng tương lai, bán khống hoặc mua bảo chứng như ở các
SGDCK hoàn thiện khác.
+ Thành viên SGDCK
Số thành viên của TTGDCK TP Hồ Chí Minh hiện nay là 12 Công ty chứng khoán.
Hầu hết các nước trong khu vực trong giai đoạn đầu phát triển TTCK đều không cho
phép
thành viên là các Công ty chứng khoán nước ngoài nhằm giảm thiểu r
ủi ro cho thị trường.
Tuy nhiên, do rất cần kỹ thuật công nghệ chứng khoán của thế giới trong hoạt
động của
TTCK cũng như của Công ty CK, chúng ta vẫn chấp nhận cho phép các Công ty CK
nước
29
ngoài liên doanh với Công ty CK Việt Nam làm thành viên. Song cho đến nay vẫn
chưa có
thành viên nào thuộc dạng này.
Một Công ty CK thành viên được phép thực hiện một hoặc một số loại hình kinh
doanh gồm:
- Môi giới.
- Tự doanh.
- Bảo lãnh phát hành.
- Quản lý danh mục đầu tư.
- Tư vấn đầu tư CK.
+Phương thức giao dịch
Mặc dù trong giai đoạn đầu hoạt động của TTCK còn đơn giản, chứng khoán chưa
nhiều (cả về số lượng và chủng loại), số lượng công ty môi giới ít nhưng trình
độ phát triển
công nghệ tin học ở nước ta cũng khá cao do đó chúng ta tổ chức hệ thống giao
dịch được
vi tính hoá luôn, bỏ qua giai đoạn thủ công (bảng và phấn viết tay) như nhiều
nước trước
kia trải qua trước khi vi tính hoá. TTGDCK của chúng ta có sàn giao dịch tập
trung các nhà
môi giới thành viên; giao dịch thông qua hệ thống máy tính nối mạng tại sàn giao
dịch, có
hệ thống mạng vi tính giữa máy của người giao dịch tại sàn với máy của Công ty
của họ ở
bên ngoài sàn và thực hiện phương thức phối kết lệnh theo tập hợp lệnh đặt hàng
(order
driven).
+ Hệ thống thanh toán bù trừ và lưu ký chứng khoán.
Hệ thống thanh toán cho các giao dịch CK của Việt Nam hiện nay chưa được thành
lập thành một trung tâm mà mới chỉ dừng ở mức phòng thanh toán bù trừ trực thuộc
TTGDCK. Hiện chúng ta có một phòng này ở thành phố Hồ Chí Minh. Sau này khi
TTGDCK thứ hai được mở ở Hà Nội thì đã có thêm một phòng nữa. Trong tương lai,
khi
hai TTGDCK phát triển thành một SGD tập trung của cả nước chúng ta sẽ có Trung
tâm
thanh toán, bù trừ CK chuyên trách về lĩnh vực này và là thống nhất trong cả
nước.
Ngày thanh toán hiện nay của Phòng lưu ký và thanh toán bù trừ ban đầu la T + 4,
từ đầu tháng 1/2002, Trung tâm Giao dịch chứng khoán Tp.HCM đã rút ngắn thời hạn
thanh toán xuống còn T+3. Hiện nay chúng ta đã có 5 ngân hàng lưu ký (2 ngân
hàng trong
nước, 3 ngân hàng nước ngoài) và 11 Công ty Ch
ứng khoán được cấp giấy phép thực hiện
dịch vụ lưu ký, và có một ngân hàng chỉ định thanh toán (Ngân hàng Đầu tư & Phát
triển
Việt Nam).
- Thị trường phi tập trung OTC (over - the - counter)
30
Hiện nay Việt Nam chưa xây dựng được một thị trường OTC để thực hiện các giao
dịch ngoài sàn. Trong tương lai Việt Nam sẽ có các biện pháp cần thiết chuẩn bị
về khung
pháp lý cũng như cơ sở vật chất kỹ thuật cho thị trường này. Theo chiến lược
phát triển
TTCK của Việt Nam, thì chúng ta sẽ nâng cấp Trung tâm Giao dịch chứng khoán Hà
Nội
và chuẩn bị điều kiện để sau năm 2010 đưa TTGDCK Hà Nội trở thành thị trường phi
tập
trung (OTC).
Kinh nghiệm của các nước trong khu vực cũng cho thấy hầu như không nước nào
phát triển thị trường OTC cùng lúc với TTCK tập trung. ở Hàn Quốc TTCK tập trung
chính thức ra đời năm 1956; sau đó 31 năm (1987) thị trường OTC mới đi vào hoạt
động.
Thái Lan cũng sau 20 năm (1975-1995) mới cho ra đời thị trường OTC. Cho nên
chúng ta
trong giai đoạn đầu chỉ tập trung nguồn lực cho phát triển thị trường chính thức
là hoàn
toàn đúng đắn.
3. Hoạt động giao dịch chứng khoán:
Thị trường chứng khoán Việt Nam dù mới đi vào hoạt động nhưng cũng đã có đủ
các biểu hiện của một thị trường phát triển, khi thì rất sôi động, khi thì trầm
lắng, đóng
băng.... Căn cứ vào hoạt động thực tế trên thị trường, có thể chia sự hoạt động
của thị
trường ra làm 3 giai đoạn:
3.1. Từ 7/2000 đến 7/2001
Đây là giai đoạn TTCK Việt Nam giá cổ phiếu liên tục tăng, giao dịch trái phiếu
gần như đóng băng (có rất ít giao dịch).
- Diễn biến thị trường:
Ngày 20/7/2000 Trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh chính
thức đi vào hoạt động, thị trường chứng khoán ra đời từ đây. Sự ra đời của thị
trường
chứng khoán Việt Nam được dư luận đánh giá là một trong mười sự kiện kinh tế,
chính trị
nổi bật của năm 2000.
Khuynh hướng chủ đạo trên thị trường trong thời gian này là :
Giá cổ phiếu tăng liên tục: do mất cân đối lớn về cung, cầu chứng khoán, cung cổ
phiếu luôn rất thấp so với cầu, và việc số lượng công ty cổ phần tham gia niêm
yết cổ
phiếu trên thị trường rất ít (đến cuối năm 2000 mới chỉ có 5 cổ phiếu được niêm
yết là
REE, SAM, HAP, TMS và LAF) đã khiến cho giá của cả 5 loại cổ đều liên tục tăng
cao
gấp nhiều lần mệnh giá của các cổ phiếu. Do đó, chỉ số VNindex (chỉ số tổng hợp
về giá cổ
phiếu) liên tục gia tăng mạnh. Ta sẽ thấy rõ xu hướng giá cổ phiếu tăng mạnh đến
mức
nào khi so sánh kết quả của 2 ngày giao dịch tiêu biểu thể hiện ở hai biểu đồ
dưới (một
31
ngày đại diện cho kết quả những ngày giao dịch đầu, một ngày đại diện cho kết
quả những
ngày giao dịch cuối của giai đoạn này).
Bảng 2: Kết quả giao dịch ngày 25/9/2000
Mã chứngkhoán Giá thực hiện(đ/cp) Khối lượng giao dịch(cp)
REE
SAM
HAP
TMS
18.100
20.800
21.800
17.400
7.300
41.200
8.000
100
(Nguồn: Trung tâm Giao dịch Chứng khoán TP. Hồ Chí Minh).
Bảng 3: Kết quả giao dịch ngày 11/6/2001
Mã chứng khoán Giá thực hiện(đ/cp) Khối lượng giao dịch (cp)
REE
SAM
HAP
TMS
65.000
61.500
116.000
101.000
102.100
222.500
25.300
68.200
(Nguồn: Trung tâm Giao dịch Chứng khoán TP. Hồ Chí Minh).
Căn cứ vào hai bảng số liệu trên, có thể thấy rõ giá cổ phiếu của tất cả các
công ty
niêm yết đều tăng rất nhanh, đặc biệt là cổ phiếu của Công ty cổ phần giấy Hải
Phòng (cổ
phiếu HAP) lên đến mức 116.000đ/cp có nghĩa là cao gấp 10 lần mệnh giá của nó.
Giao dịch trái phiếu gần như đóng băng: mặc dù đây là loại chứng khoán có khối
lượng niêm yết rất lớn(1.100 tỷ đồng) chiếm khoảng 73% giá trị toàn bộ chứng
khoán niêm
yết, nhưng lượng giao dịch chi chiếm 1,46% tổng giá trị thị trường.
- Nhận định nguyên nhân:
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng giá cổ phiếu tăng liên tục như trên,
tuy
nhiên các nguyên nhân chính gồm có :
+Biên độ giao dịch thấp: đây là nguyên nhân chính. Biên độ dao động nhỏ(+/-2%)
đã tạo ra một rào bảo v
ệ vô hình cho nhà đầu tư, khi đó mua cổ phiếu sẽ có độ rủi ro thấp
(giá cổ phiếu có giảm thì cũng chỉ giảm trong một vài phiên) trong khi đó giá cổ
phiếu liên
tục tăng khiến cho nhà đầu tư ngày càng “mê muội” trong việc nhìn đúng vào giá
trị đích
thực của cổ phiếu.
+Đầu tư theo trào lưu: do thị trường chứng khoán là một hình thức kinh doanh
mới mẻ ở Việt Nam, phần
đông nhà đầu tư chưa có đầy đủ kinh nghiệm và kiến thức về thị
trường này nên chỉ đầu tư theo kiểu thấy người khác làm thế nào thì cứ làm theo
như vậy.
32
Do đó có khi lượng đặt mua cổ phiếu rất lớn và có khi bỗng dưng lại bán ào ạt cổ
phiếu
mặc dù công ty vẫn làm ăn tốt.
+Số lượng công ty niêm yết cổ phiếu ít: điều này khiến cho sự ảnh hưởng lẫn nhau
giữa các cổ phiếu là rất lớn. Khi một cổ phiếu xuống gia thì thường kéo theo sự
xuống giá
của toàn bộ thị trường, điều này gần như là luôn đúng với hai loại cổ phiếu là
SAM và
REE.
Về việc giao dịch trái phiếu hạn chế là do: lãi suất của trái phiếu thấp
(7-8%/năm)
khiến cho các nhà đầu tư không hào hứng đối với loại chứng khoán này. Mặt khác,
trong
quá trình phát hành trái phiếu đã không chú trọng đến việc tạo ra tính đại chúng
cho loại
chứng khoán này, các loại trái phiếu chỉ tập trung chủ yếu ở các tổ chức, ngân
hàng trong
khi với điều kiện phát triển của nền kinh tế thì mức lãi suất nói trên là có thể
chấp nhận
được và do đó các tổ chức nắm giữ không có nhu cầu bán ra và cũng không có nhu
cầu
mua thêm vào.
3.2.Từ 7/2001 đến 3/2002
Đây là giai đoạn “đen tối” của TTCK Việt Nam, giá cổ phiếu liên tục giảm mạnh,
giao dịch trái phiếu vẫn ở tình trạng đóng băng.
- Diễn biến thị trường
Ngày 8/6/2001, Trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh đã có
công văn số 262/TTGD8 thông báo về việc mở rộng biên độ giao động giá từ (+/-2%)
lên
(+/-7%) và được áp dụng từ ngày13/6/2001. Ngay sau khi áp dụng, giá chứng khoán
vẫn
tiếp tục tăng kị
ch trần 3 phiên liên tiếp với biên độ giao động mới khiến cho các nhà đầu tư
hết sức phấn khích nhưng họ không biết được rằng đây là thời điểm bắt đầu một
thời kỳ
“đen tối” trên thị trường chứng khoán Việt Nam!!!
Từ đây, cổ phiếu liên tục rớt giá khiến cho hầu hết các nhà đầu tư đều hoang
mang,
không biết có nên tiếp tục đầu t
ư vào thị trường nữa không???
Nếu như giá cao nhất của cổ phiếu HAP được giao dịch trên thị trường là
146.000đ/cổ phiếu thì sau một thời gian ngắn giảm giá, giá cổ phiếu này chỉ còn
ở mức
trên dưới 40.000đ/cổ phiếu. Do sự sụt giảm nghiêm trọng của giá cổ phiếu khiến
cho chỉ số
VNindex sụt giảm nghiêm trọng. Có thể nhận rõ điều này khi xem biểu đồ chỉ số
VNindex
ở dưới.
33
Từ mức đỉnh là 571,04 điểm tại thời điểm 25/6/2001 và dao động ở mức trên dưới
200 điểm ở thời điểm đầu năm 2002 (như vậy, chỉ sau 4 tháng chỉ số chứng khoán
đã giảm
tới trên 300 điểm)
Một điều đặc biệt là trong khi thị trường đang thiếu hàng trầm trọng (ở giai
đoạn
trước) thì các cơ quan quản lý thị trường mà cụ thể là Uỷ ban chứng khoán Nhà
nước và
Trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh lại loay hoay, không tìm
cách
nào để tăng được số lượng công ty niêm yết trên thị trường. Ngược lại, đến thời
điểm giá
cổ phiếu rớt giá liên tục, các nhà đầu tư bán tống bán tháo cổ phiếu ra thì các
nhà quản lý
không hiểu vì lý do gì lại đưa thêm một lượng lớn hàng vào thị trường khiến cho
giá các cổ
phiếu lại càng xuống mạnh hơn. Việc làm nêu trên chẳng khác nào hình ảnh mùa hè
thì
không cho uống nước còn mùa đông thì lại dội cả gáo nước lạnh vào người (nguyên
văn lời
bình luận trên VTV1 Đài truyền hình Việt Nam 12/2001).
Giao dịch trái phiếu trên thị trường vẫn ở trong tình trạng đóng băng.
- Nhận định nguyên nhân:
Sự can thiệp quá sâu vào thị trường bằng các biện pháp hành chính của cơ quan
quản lý là nguyên nhân chính khiến giá cổ phiếu liên tục s
ụt giảm. Điều đáng nói ở đây là
hai cơ quan trên đã sử dụng hàng loạt các biện pháp hành chính để can thiệp vào
thị trường
(giới hạn khối lượng đặt mua...). Chính các biện pháp hành chính đó đã làm mất
niềm tin
của các nhà đầu tư, họ không còn tin vào sự lãnh đạo của các cơ quan quản lý và
đồng loạt
rút khỏi thị trường.
Giá cổ phiếu đã lên quá cao trong thời kỳ trước: đ
ây cũng là nguyên nhân quan
trọng khiến giá cổ phiếu sụt giảm mạnh. Ngoài ra, biên độ dao động +/-7% càng
khiến cho
giá cổ phiếu giảm nhanh.
Hệ thống cung cấp thông tin chưa đáp ứng được với yêu cầu của nhà đầu tư:
đây cũng là một trong những vấn đề nổi cộm trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
ở
34
nước ta, cho đến nay vẫn chưa có hệ thống cung cấp thông tin một cách cách chính
thống.
Các thông tin mà nhà đầu tư nhận được chủ yếu là thông tin tự thu thập từ báo
trí và thông
tin truyền miệng. Chính vì vậy tính chính xác và hợp lệ không được đảm bảo. Vì
lẽ đó,
ngay sau khi phong phanh có tin về việc Trung tâm giao dịch chứng khoán thành
phố Hồ
Chí Minh kiến nghị với Uỷ ban chứng khoán Nhà nước về việc quy định thời hạn nắm
giữ
cổ phiếu để được bán ra (trên thực tế việc này đã không được thực hiện ) thì giá
các cổ
phiếu đã đồng loạt sụt giảm.
3.3. Từ tháng 3/2002 đến nay
Đây là giai đoạn giá cổ phiếu không còn giao động một chiều như trước, giá lúc
lên
lúc xuống.
- Diễn biến trên thị trường:
Thị trường chứng khoán Việt Nam đang có bước phát triển tích cực, tạo được niềm
tin của đông đảo nhà đầu tư tham gia thị trường. Một số biểu hiện cụ thể, tiêu
biểu là:
Về giá giao dịch: Biểu hiện rõ nét của thị trường chứng khoán Việt Nam trong
thời
gian gần đây là giá cổ phiếu không còn dao động một chiều như trước nữa, giá cổ
phiếu lúc
lên, lúc xuống rất khó đoán, giá có tăng (giảm) thì cũng không luôn tăng(giảm) ở
mức giá
trần(sàn) như thời kỳ trước mà thường được giao dịch ở các mức giá trung gian.
Khối lượng hàng của thị trường: Số lượng công ty tham gia niêm yết tăng nhanh,
chỉ trong một tháng qua đã có thêm 5 công ty lên ‘sàn’, tới thời điểm ngày
01/03/2003 đã
có 21 công ty niêm yết cổ phiếu trên thị trường khiến cho cơ hội lựa chọn của
nhà đầu tư
trở nên phong phú hơn. Giá trị niêm yết của toàn bộ các công ty tham gia niêm
yết vào
khoảng 610 tỷ đồng.
Nhà đầu tư tin tưởng hơn và thị trường: Một biểu hiện mới, mang tính tích cực là
hiện
nay trên thị trường chứng khoán Việt Nam, ngày càng xuất hiện nhiều hơn sự tham
gia của
nhà đầu tư nước ngoài, điều này cho thấy thị trường chứng khoán Việt Nam đã trở
nên hấp
dẫn hơn đối với nhà đầu tư nước ngoài.
- Nhận định nguyên nhân:
Đến thời điểm này, có thể nói thị trường chứng khoán Việt Nam đang có bước phát
triển tốt, đi đúng hướng đề ra ban đầu. Có một số nguyên nhân đưa đến bước phát
triển của
thị trường, đó là:
Giá cổ phiếu đã xuống thấp: Sau một thời gian dài xuống giá, giá các cổ phiếu đã
trở lại gần đúng với giá trị thực của chúng, trong khi các công ty niêm yết vẫn
làm ăn có
hiệu quả và có mức tăng trưởng cao, do đó nhà đầu tư hoàn toàn an tâm khi mua cổ
phiếu.
35
Số lượng công ty tham gia niêm yết lớn: việc tăng số lượng công ty tham gia niêm
yết đã khiến cho các cổ phiếu không còn ảnh hưởng trực tiếp đến nhau nữa. Trong
các giai
đoạn trước, do số lượng công ty tham gia niêm yết ít nên khi một cổ phiếu xuống
giá thì
thường kéo theo sự xuống giá của toàn bộ thị trường. Đến nay số lượng công ty
tham gia
đã nhiều hơn, sự ảnh hưởng qua lại về giá giữa các chứng khoán không còn lớn như
trước
nữa.
Quản lý thị trường: gần đây sau khi gặp phải sự phản ứng gay gắt của công chúng
đầu tư và các cơ quan ngôn luận, Uỷ ban chứng khoán Nhà nước đã hạn chế việc
quản lý
thị trường bằng các biện pháp hành chính. Ngoài ra việc tăng số lượng phiên giao
dịch từ 3
lên 5 phiên/ tuần đã rút ngắn chu kỳ quay của vốn, tăng tính thanh khoản cho
chứng khoán
đã làm tăng thêm niềm tin cho nhà đầu tư .
4. Đánh giá hoạt động của TTCK Việt Nam
4.1.Những ưu điểm
Qua hơn 3 năm hoạt động TTCK đã đạt được một số kết quả:
- Chúng ta đã mở ra được một TTCK theo mô hình tập trung với qui mô nhỏ. Trong
bối cảnh nền kinh tế nước ta phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức trong
quá trình
mở cửa và hội nhập, chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính- tiền tệ khu
vực,
TTCK Việt Nam vẫn ra đời và đi vào hoạt động. Hoạt động của TTCK mặc dù chưa
phát
triển như mong muốn song bước đầu đã triển khai khá suôn sẻ, không gây ra những
biến
động lớn hoặc tác động tiêu cực đến đời sống kinh tế-xã hội của đất nước.
- TTCK Việt Nam đã bước đầu hình thành một hệ thống các tổ chức niêm yết với
tổng giá trị niêm yết là 6.657 tỷ đồng và tổng giá trị thị
trường là 8.763 tỷ đồng; đã huy
động được một khối lượng vốn đáng kể cho ngân sách nhà nước thông qua đấu thầu
và bảo
lãnh phát hành trái phiếu Chính phủ, trái phiếu Quĩ hỗ trợ phát triển để niêm
yết trên thị
trường (trên 4.000 tỷ đồng). Các công ty niêm yết bước đầu đã thực hiện phát
hành cổ
phiếu để mở rộng sản xuất kinh doanh, tăng vốn điều lệ với tổng giá trị tăng
thêm là 155,4
tỷ đồng (tính đến thời điểm tháng 7 năm 2003).
- Xây dựng được một hệ thống các tổ chức trung gian tham gia hoạt động trên
TTCK, bao gồm 12 công ty chứng khoán, 5 ngân hàng lưu ký và 1 ngân hàng chỉ định
thanh toán. Các trung gian tài chính đã thể hiện được vai trò của mình trong
việc triển khai
các nghiệp vụ môi giới, bảo lãnh phát hành và tư vấn cho các công ty trong việc
niêm yết
và cung cấp thông tin cho nhà đầu tư, thực hiện tốt các giao dịch chứng khoán
trên thị
trường.
36
- Xây dựng được một hệ thống các văn bản pháp luật hướng dẫn về hoạt động và
quản lý thị trường, bước đầu đảm bao cho sự vận hành của thị trường diễn ra suôn
sẻ,
không gây những biến động lớn.
- Hoạt động quản lý, vận hành thị trường của Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước và
Trung tâm Giao dịch chứng khoán đã có nhiều cải tiến và từng bước hoàn thiện
trên cơ sở
rút kinh nghiệm từ hoạt động thực tiễn. Đã có các giải pháp kịp thời, đảm bảo
cho thị
trường hoạt động ổn định, công khai, công bằng và hiệu quả, không để xảy ra
những hậu
quả bất ổn đáng tiếc.
- Các chủ thể tham gia TTCK và công chúng đầu tư đã dần làm với một phương
thức đầu tư mới với khoảng 14.500 nhà đầu tư, trong đó co hơn 90 nhà đầu tư có
tổ chức
và 35 nhà đầu tư nước ngoài, ngày càng tham gia thị trường tích cực và hiệu quả
hơn.
Thông qua hoạt động của thị trường, các công ty niêm yết, công ty chứng khoán
tận dụng
được những lợi thế mà thị trường đem lại. Các công ty đã cải tiên phương thức
hoạt động,
công khai hoá thông tin, nâng cao vai trò quản trị công ty, nhờ vậy mà vị thế và
uy tín của
công ty được nâng lên.
- Đã đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ chứng khoán và thị trường cho đội ngũ cán bộ
quản lý, vận hành thị trường. Thực hiện đào tạo và cấp giấy phép hành nghề cho
các nhân
viên kinh doanh của các Công ty chứng khoán và tổ chức lưu ký. Ngoài ra, công
tác đào
tạo và tuyên truyền, phổ biến kiến thức về TTCK đã luôn được chú trọng và đóng
góp
đáng kể trong việc cung cấp kiến thức cơ bản cũng như hiểu biết pháp luật về
chứng khoán
và TTCK cho công chúng.
- Hoạt động của TTCk cũng đã góp phần thúc đẩy tiến trình cổ phần hoá doanh
nghiệp nhà nước, gắn quá trình cổ phần hoá với niêm yết chứng khoán trên TTCK.
Từng
bước hướng dẫn doanh nghiệp áp dụng điều lệ mẫu và sử dụng những thông lệ tốt
nhất
trong quản trị công ty, tạo ra nét văn hoá mới trong quản tr
ị kinh doanh.
4.2. Những hạn chế
- Khung pháp lý cho vận hành thị trường chưa được hoàn thiện, văn bản pháp lý
cao nhất của thị trường hiện nay là Nghị định 48/1998/NĐ-CP ngày 11/7/1998 của
Chính
phủ được soạn thảo và ban hành trong điều kiện TTCK ở Việt Nam chưa đi vào hoạt
động,
do vậy, qua một thời gian hoạt động một số nội dung không còn phù hợp với hoạt
động của
thị trường hiện tại cũ
ng như với nội dung mới của Luật Doanh nghiệp. Khi Dự thảo nghị
định thay thế Nghị định 48/NĐ-CP vẫn trong quá trình thẩm định để ban hành, làm
cho
nhiều văn bản hướng dẫn rất khó thực hiện.