LUẬN VĂN: GIẢI PHÁP PHÒNG NGỪA, HẠN CHẾ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI CHI NHÁNH NHCT 2 TP.HCM
10,096
309
94
Trang 1
Chương 1 : LÝ LUẬN CHUNG VỀ TÍN DỤNG VÀ
RỦI RO TÍN DỤNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 TỔNG QUAN VỀ TÍN DỤNG
1.1.1 Khái niệm
Trong hoạt động kinh doanh tiền tệ của ngân hàng thì hoạt động tín
dụng mang lại nguồn thu chủ yếu, nó giữ vai trò quyết định sự tồn tại của
ngân hàng. Nghiệp vụ tín dụng là nghiệp vụ phức tạp và gặp nhiều rủi ro
nhất, chính vì thế mà ngân hàng thường xuyên chú ý quản lý chặt chẽ đối với
nghiệp vụ này. Nghiệp vụ tín dụng của NHTM có quan hệ với tất cả các lĩnh
vực của nền kinh tế, từ lĩnh vực tiêu dùng cá nhân đến sản xuất kinh doanh,
đầu tư phát triển.
Trong quá trình hình thành, vận động và phát triển của nền kinh tế
hàng hóa thì tín dụng có nhiều cách định nghĩa khác nhau :
- Tín dụng là sự vận động của vốn tiền tệ trên cơ sở hoàn trả.
- Tín dụng là sự vận động của quỹ cho vay.
- Tín dụng là sự trao đổi một thực thể (hàng hóa hoặc tiền tệ) để đổi lấy
một sự cam kết hoàn trả (cả vốn và lãi) trong thời gian nhất định.
- Tín dụng là sự trao đổi tài hóa hiện tại để lấy một tài hóa tương lai.
Tùy theo góc độ nghiên cứu mà người ta có các cách định nghĩa khác
nhau. Trong thực tế tín dụng hoạt động rất phong phú và đa dạng, nhưng ở
bất cứ dạng nào thì tín dụng cũng thể hiện ở hai nội dung cơ bản. Thứ nhất là
người sở hữu một số tiền hoặc hàng hóa chuyển giao cho người khác sử dụng
trong một thời gian nhất định. Thứ hai là đến thời hạn do hai bên thỏa thuận
thì người sử dụng hoàn lại cho người sở hữu một giá trị lớn hơn, phần tăng
thêm gọi là lợi tức cho vay.
Trang 2
1.1.2 Sự cần thiết của tín dụng
Trong nền KTTT các doanh nghiệp có mối quan hệ với nhau thông qua
trao đổi mua bán hàng hóa. Để thực hiện việc trao đổi mua bán này thì các
doanh nghiệp phải có vốn dưới hình thái tiền tệ hay hàng hóa. Quá trình tuần
hoàn vốn của doanh nghiệp trải qua 3 giai đoạn :
- Vốn bỏ ra dùng để mua nguyên, nhiên, vật liệu. Trong giai đoạn
này thì vốn chuyển từ hình thái tiền tệ sang hình thái hiện vật.
- Khi đó có tư liệu sản xuất thì doanh nghiệp tiến hành quá trình sản
xuất bằng cách kết hợp đối tượng lao động với công cụ lao động. Ở giai đoạn
này thì vốn chuyển từ hình thái hàng hóa sang chi phí sản xuất, sau đó trở về
dạng hàng hóa mới.
- Hàng hóa mới này sẽ được tiêu thụ trên thị trường và vốn trở về
hình thái tiền tệ.
Trong quá trình trên không phải lúc nào cũng thực hiện suôn sẻ, có khi
hàng hóa được sản xuất ra nhưng chưa tiêu thụ được hoặc đã tiêu thụ được
nhưng chưa thu tiền được hoặc đã thu được tiền nhưng chưa cần thiết mua
nguyên vật liệu để dự trữ sản xuất. Có khi có nhu cầu mua hàng hóa phục vụ
sản xuất nhưng lại không có tiền và ngược lại. Sở dĩ có hiện tượng này vì chu
kỳ sản xuất và tính thời vụ ở mỗi doanh nghiệp khác nhau. Do vậy ở một thời
điểm nào đó thì sẽ có doanh nghiệp thừa vốn và có doanh nghiệp thiếu vốn.
Vì quá trình sản xuất là một quá trình liên tục nên đòi hỏi phải có tín dụng
làm cầu nối giữa bên thừa vốn và bên thiếu vốn.
1.1.3 Các hình thức tín dụng
Trong nền KTTT thì hoạt động tín dụng rất đa dạng và phong phú.
Trong quản lý tín dụng thì các nhà kinh tế ở nước ta dựa vào các tiêu thức sau
để phân loại.
Trang 3
1.1.3.1 Căn cứ vào thời hạn tín dụng : chia làm 3 loại
- Tín dụng ngắn hạn: đây là loại tín dụng có thời hạn tối đa đến 12
tháng. Loại hình này được khách hàng vay vốn nhằm bù đắp sự thiếu hụt vốn
lưu động và nhằm đáp ứng các nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân. Loại
hình này được xác định phù hợp với chu kỳ sản xuất, kinh doanh và khả năng
trả nợ của khách hàng. Trong cơ cấu dư nợ của ngân hàng thì tín dụng ngắn
hạn chiếm tỷ trọng cao nhất.
- Tín dụng trung hạn : Có thời hạn từ trên 12 tháng đến 60 tháng. Loại
tín dụng này được sử dụng chủ yếu để mua sắm tài sản cố định, cải tiến, đổi
mới kỹ thuật, xây dựng những công trình nhỏ thu hồi vốn nhanh.
- Tín dụng dài hạn : Có thời hạn trên 60 tháng nhưng không quá thời
hạn hoạt động còn lại theo quyết định thành lập hoặc giấy phép kinh doanh
đối với pháp nhân và không quá 15 năm đối với cho vay các dự án phục vụ
đời sống. Loại tín dụng này thông thường dùng để tài trợ cho các công trình
xây dựng cơ bản, xây dựng nhà cửa có quy mô lớn.
1.1.3.2 Căn cứ vào đối tượng tín dụng : chia làm 2 loại
- Tín dụng vốn lưu động : là loại tín dụng được cấp phát để hình thành
vốn lưu động của các tổ chức kinh tế phục vụ trực tiếp cho sản xuất và lưu
thông hàng hóa, tín dụng lưu động thường được sử dụng cho vay bù đắp mức
vốn lưu động thiếu hụt tạm thời. Loại này thường được chia làm các loại sau:
cho vay dự trữ hàng hóa, cho vay chi phí sản xuất và cho vay để thanh toán
các khoản nợ dưới hình thức chiết khấu các kỳ phiếu …
- Tín dụng vốn cố định : là loại tín dụng được cấp phát để hình thành
tài sản cố định như đầu tư để mua sắm tài sản cố định như đổi mới, cải tiến
kỹ thuật, mở rộng sản xuất, xây dựng công trình mới… Loại tín dụng này
thường là trung, dài hạn.
Trang 4
1.1.3.3 Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn : chia làm 2 loại
- Tín dụng sản xuất và lưu thông hàng hóa : là loại tín dụng cấp cho
các doanh nghiệp để tiến hành sản xuất và lưu thông hàng hóa.
- Tín dụng tiêu dùng : là loại tín dụng cấp cho cá nhân để đáp ứng nhu
cầu tiêu dùng như mua sắm nhà cửa, xe cộ… và cả những nhu cầu bình
thường hàng ngày khác như học tập, du lịch…
1.1.3.4 Căn cứ vào mức độ tín nhiệm với khách hàng: chia làm 2 loại
- Tín dụng không bảo đảm : là loại tín dụng được cấp phát không có tài
sản thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của bên thứ 3 mà hoàn toàn dựa trên uy
tín của khách hàng đối với ngân hàng. Khi cấp tín dụng theo hình thức này thì
ngân hàng cân nhắc kỹ về uy tín của đối tượng cũng như khả năng tài chính
của họ, vì đối với hình thức này khi có rủi ro xảy ra thì ngân hàng có thể sẽ
mất trắng.
- Tín dụng có bảo đảm : đây là hình thức cho vay rất phổ biến và đa
dạng. Là loại tín dụng được cấp trên cơ sở tài sản thế chấp, cầm cố như động
sản, bất động sản… hoặc có sự bảo lãnh của người thứ ba, người thứ ba này
có thể là ngân hàng, tổ chức kinh tế có uy tín được ngân hàng chấp nhận bảo
lãnh.
1.1.3.5 Căn cứ vào chủ thể trong quan hệ tín dụng : chia làm 3 loại
- Tín dụng thương mại : là quan hệ tín dụng giữa các nhà sản xuất,
kinh doanh được biểu hiện dưới hình thức mua bán chịu hàng hóa.
- Tín dụng ngân hàng : là quan hệ tín dụng giữa ngân hàng, các tổ chức
tín dụng khác với các nhà sản xuất, kinh doanh, các tầng lớp dân cư… Trong
tín dụng này thì ngân hàng đóng vai trò là một tổ chức trung gian, vừa là
người đi vay vừa là người cho vay.
- Tín dụng nhà nước : là quan hệ tín dụng giữa nhà nước với các tầng
lớp dân cư hoặc các tổ chức kinh tế được thực hiện dưới hình thức chính phủ
Trang 5
phát hành công trái để huy động vốn của dân cư và các tổ chức khác trong xã
hội.
1.1.4 Chức năng của tín dụng
1.1.4.1 Chức năng tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ
Ở khâu tập trung, vốn tín dụng là nơi tập hợp các nguồn vốn tạm thời
nhàn rỗi trong nền kinh tế, bao gồm vốn bằng tiền của các doanh nghiệp, các
tổ chức kinh tế và vốn tiết kiệm của tầng lớp dân cư… tạo nên nguồn vốn tín
dụng có quy mô lớn mạnh.
Ở khâu phân phối lại tiền tệ thì vốn tín dụng là nơi tiếp vốn cho các
đơn vị, cá nhân đang thiếu vốn sản xuất, kinh doanh, lưu thông hàng hóa,
dịch vụ hay nhu cầu sinh hoạt của đời thường… tạo điều kiện mở rộng và
thúc đẩy sản xuất phát triển. Ở khâu này vốn tín dụng đã xâm nhập vào các
ngành, lĩnh vực khác nhau của đời sống kinh tế - xã hội.
1.1.4.2 Chức năng tiết kiệm tiền mặt và chi phí lưu thông
Vốn tín dụng đã tranh thủ được nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong xã
hội đưa vào lưu thông nhằm tăng nhịp độ vòng quay của đồng tiền, giảm
lượng tiền dư thừa và làm tăng khả năng sinh lợi của đồng tiền.
Khi các quan hệ tín dụng ngày càng phát triển thì ngoài hình thức vay
mượn trực tiếp bằng tiền thì các chủ thể có nhu cầu về vốn có thể phát hành
các chứng từ có giá như tín phiếu, trái phiếu, kỳ phiếu… Ở một số nước có
nền kinh tế phát triển lâu đời thì luật pháp còn cho phép các dạng kỳ phiếu
hay khế ước nợ được lưu thông và chuyển nhượng trong thời gian có hiệu lực
làm đa dạng hóa các phương tiện thanh toán và tiết kiệm đáng kể lượng tiền
mặt cần thiết phải có trong lưu thông.
Khi nền kinh tế càng phát triển, dịch vụ ngân hàng ngày càng mở rộng
thì hầu hết các tổ chức, cá nhân đều thực hiện giao dịch thông qua tài khoản
tại ngân hàng, dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt phát triển tạo điều
Trang 6
kiện phát triển bút tệ, điều này giảm lượng tiền mặt trong lưu thông, giảm các
chi phí khác như chi phí in ấn, chi phí bảo quản, chi phí vận chuyển …
1.1.4.3 Chức năng kiểm soát các hoạt động kinh tế
Thông qua quá trình tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ, tín dụng
góp phần phản ánh mức độ phát triển nền kinh tế về các mặt như khối lượng
tiền nhàn rỗi trong xã hội, nhu cầu vốn trong từng thời kỳ… cũng như mối
quan hệ giữa tích lũy và tiêu dùng. Bên cạnh đó để đảm bảo an toàn cho đồng
vốn tín dụng mang lại hiệu quả, tất yếu các chủ thể trong quan hệ tín dụng sẽ
tự kiểm soát lẫn nhau, từ đó dễ dàng phát hiện những tiêu cực phát sinh trong
hoạt động sản xuất, kinh doanh của họ. Trên cơ sở đó sẽ có những biện pháp
thích ứng nhằm ngăn chặn kịp thời giúp cho các quan hệ kinh tế diễn ra trong
khuôn khổ pháp luật, lành mạnh và thông suốt. Đồng thời từ những hoạt động
này sẽ giúp hoàn thiện hệ thống pháp luật với thực tế từng quốc gia nhằm
thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển.
1.1.5 Vai trò của tín dụng trong nền KTTT
1.1.5.1 Tín dụng góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển
Quá trình sản xuất của doanh nghiệp luôn tồn tại 3 khâu : dự trữ, sản
xuất, lưu thông. Vì vậy vào một thời điểm nào đó và ở khâu nào đó sẽ xảy ra
hiện tượng thừa hoặc thiếu vốn tạm thời. Tín dụng với chức năng điều tiết
nguồn vốn từ nơi thừa sang nơi thiếu giúp cho quá trình sản xuất được hoạt
động một cách liên tục.
Ở khâu tập trung vốn tiền tệ, tín dụng đã khuyến khích tích lũy cho xã
hội. Bên cạnh đó nhờ có nguồn vốn tín dụng cung cấp mà đã giúp cho con
người khai thác triệt để các tiềm năng sẵn có của nền kinh tế để tạo ra của cải
vật chất ngày càng nhiều cho xã hội. Mặt khác với tác động của lãi suất, tín
dụng đã kích thích cho chủ thể sử dụng vốn được tiết kiệm, hiệu quả để thu
được lợi nhuận cao, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Trang 7
Ngoài ra trong điều kiện hiện có của nền kinh tế, với sự phân công và
hợp tác quốc tế ngày càng sâu rộng thì quan hệ điều tiết vốn không chỉ giới
hạn ở phạm vi một quốc gia mà hình thành các quan hệ tín dụng quốc tế.
Trên cơ sở đó góp phần phát triển các quan hệ đối ngoại, tận dụng lợi thế so
sánh của quốc gia.
Với vai trò này cho thấy tín dụng là người “trợ thủ” đắc lực cho các
doanh nghiệp và là người bạn đồng hành trong tiến trình phát triển kinh tế.
1.1.5.2 Tín dụng góp phần ổn định tiền tệ và ổn định giá cả
Với chức năng riêng có của mình, tín dụng góp phần điều tiết lượng
tiền có trong lưu thông, giảm lượng tiền mặt tồn đọng trong xã hội. Vì lượng
tiền thừa này đến một lúc nào đó sẽ được tung vào lưu thông và sẽ làm mất
cân đối trong quan hệ giữa tiền – hàng và làm hệ thống giá cả bị biến động,
lạm phát sẽ xảy ra. Tín dụng sẽ được xem là biện pháp hữu hiệu để giải quyết
tình hình.
Mặt khác lãi suất tín dụng được xem là công cụ điều tiết vĩ mô rất nhạy
bén, với chính sách lãi suất trong tay, nhà quản lý kinh tế có thể thu hẹp hoặc
mở rộng khối lượng tiền trong lưu thông, phù hợp với khối lượng hàng hóa,
của cải vật chất trong xã hội nhằm ổn định tiền tệ và ổn định giá cả thị
trường.
1.1.5.3 Tín dụng góp phần ổn định đời sống, tạo công ăn việc làm và
ổn định trật tự xã hội
Khi một nền kinh tế phát triển trong một môi trường ổn định về tiền tệ
thì đây là điều kiện để nâng cao dần đời sống của các thành viên trong xã hội,
là điều kiện để thực hiện tốt các chính sách của xã hội, góp phần rút ngắn sự
chênh lệch giữa các thành phần kinh tế, góp phần thay đổi cấu trúc xã hội mà
cụ thể là tạo công ăn việc làm cho người dân, qua đó góp phần ổn định trật tự
xã hội.
Trang 8
1.1.6 Các nguyên tắc của tín dụng
Hoạt động tín dụng muốn tồn tại và phát triển phải đảm bảo 2 nguyên
tắc:
Thứ nhất là vốn vay phải được hoàn trả đầy đủ cả vốn và lãi theo đúng
thời hạn đã cam kết.
Thứ hai là chủ thể phải sử dụng vốn đúng mục đích và có hiệu quả.
1.1.7 Chất lượng tín dụng và xếp hạng ngân hàng :
Chất lượng tín dụng và chính sách tín dụng của ngân hàng luôn là đối
tượng kiểm tra của thanh tra ngân hàng. Ngân hàng nào được đánh giá càng
cao thì càng ít bị thanh tra. Cán bộ thanh tra thường kiểm tra tất cả các khoản
tín dụng có số dư lớn hơn mức quy định nào đó, còn các khoản tín dụng nhỏ
hơn thì thông thường chỉ tiến hành kiểm tra một cách ngẫu nhiên. Những
khoản tín dụng có dấu hiệu xấu thì sẽ được xếp vào loại tín dụng nghi ngờ, và
cán bộ thanh tra có thể đề nghị ngân hàng tăng trích lập dự phòng rủi ro hoặc
yêu cầu ngân hàng thay đổi chính sách cho vay đối với đối tượng đó như
kiểm soát chặt chẽ món vay, thu hồi nợ trước hạn… Tuy nhiên chất lượng tín
dụng và các tài sản có khác của ngân hàng mới chỉ là một khía cạnh phản ánh
chất lượng hoạt động của một ngân hàng nói chung. Việc xếp hạng ngân hàng
còn dựa vào sự xem xét của cán bộ thanh tra về các tiêu chí như : vốn chủ sở
hữu, chất lượng quản lý, biểu đồ thu nhập, khả năng thanh khoản và mức độ
nhạy cảm với rủi ro thị trường.
1.2 TỔNG QUAN VỀ RỦI RO TÍN DỤNG
1.2.1 Khái niệm
RRTD là rủi ro khi người vay không thực hiện được cam kết, nghĩa vụ
của mình đối với ngân hàng dẫn đến kết quả là ngân hàng không thu hồi vốn
gốc và lãi đúng hạn hoặc bị mất vốn, tác động xấu đến hoạt động kinh doanh
của ngân hàng. Dấu hiệu của RRTD chính là nợ gia hạn (nợ cơ cấu lại), nợ
quá hạn, nợ khó đòi hoặc nợ không khả năng thu hồi.
Trang 9
1.2.2 Phân loại
Dựa vào hình thức biểu hiện có thể phân RRTD thành 3 loại sau:
- Rủi ro sai hẹn : Là loại rủi ro khi khách hàng không trả nợ đúng hạn
như đã cam kết trong hợp đồng tín dụng. Đây là rủi ro ngoài ý muốn chủ
quan của khách hàng, họ có thiện chí trả nợ nhưng tạm thời gặp khó khăn về
tài chính dẫn đến chậm trả nợ cho ngân hàng. Rủi ro này được tập trung ở
những món vay được ngân hàng gia hạn, và đây là dấu hiệu ban đầu của
RRTD.
- Rủi ro không thu hồi được nợ : đó là những khoản vay mà ngân hàng
có khả năng thu hồi được vốn vay rất thấp, có nguy cơ bị mất vốn. Khách
hàng cố tình chiếm vốn của ngân hàng hoặc do doanh nghiệp bị phá sản,
ngân hàng đã tìm mọi cách để thu hồi nhưng thu hồi không được hoặc không
đủ. Loại rủi ro này thường tập trung ở các món vay đã chuyển sang nợ quá
hạn, đây là loại rủi ro mà ngân hàng và các ngành có liên quan cần quan tâm
nhiều nhất.
- Rủi ro tiềm ẩn : là loại rủi ro tiềm ẩn trong số dư nợ tưởng chừng như
bình thường, tập trung ở những món vay mà quá trình làm thủ tục cho vay
cán bộ tín dụng đã không tuân thủ chặt chẽ quy trình cho vay, không đúng
quy chế và những món vay đã được ngân hàng cho vay đảo nợ.
1.2.3 Đặc điểm của RRTD
- RRTD mang tính chất gián tiếp : trong quan hệ tín dụng thì ngân
hàng chuyển giao quyền sử dụng vốn tiền tệ cho khách hàng trong một thời
gian nhất định, vì thế những thiệt hại cũng như thất thoát về vốn xảy ra trước
hết là từ việc sử dụng vốn của khách hàng. Trong trường hợp này thì ngân
hàng thường biết sau hoặc không đầy đủ chính xác những khó khăn, thất bại
trong hoạt động kinh doanh của khách hàng. Để khắc phục rủi ro này thì ngân
hàng cần tập trung nghiên cứu thông tin về khách hàng, thiết lập hệ thống
thông tin theo dõi dấu hiệu rủi ro, xây dựng và đảm bảo mối quan hệ minh
Trang 10
bạch giữa cán bộ tín dụng và khách hàng, kiểm soát việc sử dụng vốn vay của
khách hàng.
- RRTD có tính chất đa dạng và phức tạp : đặc điểm này biểu hiện ở sử
đa dạng, phức tạp của nguyên nhân, hình thức, hậu quả của RRTD. Đây là
đặc điểm tất yếu của RRTD do đặc trưng ngân hàng là trung gian tài chính
kinh doanh tiền tệ. Đặc điểm này cũng là hệ quả của đặc điểm “RRTD mang
tính chất gián tiếp”, vì mối liên hệ gián tiếp với RRTD khiến sự đa dạng và
phức tạp của RRTD đối với ngân hàng càng thể hiện rõ ràng. Để phòng ngừa
và hạn chế rủi ro này cần áp dụng đồng bộ nhiều biện pháp, không chủ quan
với bất kỳ dấu hiệu rủi ro nào. Ngoài ra trong quá trình xử lý hậu quả RRTD
cần xuất phát từ nguyên nhân bản chất và hậu quả của rủi ro để đưa ra biện
pháp phù hợp.
- RRTD có tính tất yếu, nó luôn gắn với hoạt động tín dụng của
NHTM. Việc bất cân xứng thông tin là nguyên nhân khiến các nhà kinh tế
cũng như các ngân hàng cho rằng kinh doanh ngân hàng thực chất là quản lý
rủi ro ở mức độ phù hợp và đạt được lợi nhuận tương ứng. Do không thể có
được thông tin cân xứng về sử dụng nguồn vốn vay cho hoạt động kinh
doanh của khách hàng đi vay, nên bất cứ một khoản cho vay nào cũng tiềm
ẩn những nguy cơ rủi ro đối với NHTM như thu hồi vốn không đúng hạn
hoặc không đủ…Trong trường hợp này ngân hàng cần chủ động có biện pháp
thích hợp xử lý vấn đề thông tin không cân xứng để đối phó với rủi ro, đo
lường rủi ro cũng như để xác định giá khoản vay cho phù hợp.
1.2.4 Nguyên nhân, tác động của RRTD
Những nguyên nhân dẫn đến RRTD
Bắt mạch đúng mới trị được bệnh, tìm đúng nguyên nhân mới có biện
pháp thích hợp để điều trị là phương châm đúng cho cả khi xác định và hạn
chế RRTD. Cho nên việc tìm nguyên nhân RRTD đúng sẽ góp phần tìm
những giải pháp đúng để giảm thiểu rủi ro, nâng cao chất lượng tín dụng.